THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16
17 18
19
Chương 17
NHẬN ĐỊNH VỀ THƯỢNG ĐẾ
Khảo sách vở, ta
thấy xưa nay nhân loại có nhiều cách nhận định về Thượng đế:
1. Théisme (Phái
Thần Luận)
Phái này tin
Thượng đế hữu ngã, can thiệp vào chuyện đời.
2. Độc Thần (Monothéisme)
Do Thái, Hồi Giáo
hoàn toàn Độc Thần. Công Giáo thì là Độc thần nhưng là Tam Vị Nhất Thể
(Trinity). Độc Thần tin rằng Chúa đã dựng nên muôn loài, hoàn toàn ở bên
ngoài vạn hữu, ngài ở trên Trời, nhưng luôn can thiệp vào truyện hồng
trần.
Trên đây đã cho thấy quan niệm Chúa là một thực thể riêng biệt đã bị
nhiều người như Giám Mục John Robinson, hay nhà thần học Tillich cho là
những quan niệm lỗi thời, cần phải định nghĩa lại.
3. Đa thần (Polythéisme) như Ấn Giáo
Tuy nhiên Ấn giáo
cho rằng thần nào cũng chỉ là một khía cạnh, một phương diện của vị tối
thượng thần.
4. Deists (Hữu thần)
Môn phái này
thuộc thế kỷ 18. Tin có Thượng đế, nhưng từ khi Thượng đế tạo nên vũ trụ
thì không còn dây vào truyện đời. Môn phái này chống lại các giáo hội
sẵn có. Không tin mặc khải, không tin phép lạ, không tin Kinh Thánh, chỉ
tin vào lý trí.
Lord Herbert
Cherbury (1383-1648) là cha đẻ ra môn phái này. Ở Anh còn nhiều văn gia
khác theo môn phái này như: Charles Blount (1654–93), John Toland
(1670–1772), Antony Collins (1676– 1729), Thomas Morgan (d. 1743) v.v...
Nhiều danh nhân thế kỷ XVIII như Voltaire, J.J. Rousseau, Denis Diderot
hay Benjamin Flanklin, Georges Washington, Thomas Jefferson, John Adams,
Thomas Paine v.v... cũng theo môn phái này.
5. Phiếm Thần (Panthéisme)
Phiếm Thần coi
Thượng đế này là chính vũ trụ, hay nói đúng hơn,
Thượng đế là Đại Ngã, là Chân Tâm
vũ trụ.
Tillich đã gọi Thượng đế là căn cơ, gốc gác muôn loài (The ground of all
beings; A depth at the Center of Life). Phiếm Thần không bao giờ coi
Thượng đế là vũ trụ hình danh, sắc tướng bên ngoài (Natura Naturata) mà
chỉ coi Ngài là Chân tâm vũ trụ (Natura Naturans). Tại sao? Vì Vũ trụ
hình danh sắc tướng bên ngoài là cái gì biến thiên, còn Chân tâm mới là
cái gì vĩnh cửu, bất biến.
Phiếm thần dạy chúng ta muốn tìm Thượng đế phải
tìm Ngài trong thâm tâm ta, vì Ngài chính là Bản Thể ta. Chúng ta là
hình hiện của Ngài.
Các môn phái
Triết gia danh tiếng như phái khắc kỷ (Stoic) gồm các Triết gia như
Zeno, Seneca, Marcus-Aurelius, Epictetus, như môn phái Neo-Platonists,
Như Plato, như Spinoza, như Giordino Bruno, như Eckhart, như các tôn
giáo Ái Châu: ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Cao Đài đều theo Phiếm
Thần, hay nói cách khác, bất kỳ ai theo học thuyết
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể đều theo thuyết Phiếm Thần.
Vì Phật giáo chủ
trương Bản Thể là Vũ Trụ, Vũ trụ là Bản Thể nên Phật giáo cũng đứng
trong hàng ngũ phiếm thần.
Các Thánh hiền
Đông Tây, các nhà huyền học (Mystics) Đông tây như môn phái Kaballah Do
Thái Giáo, như Sufism Hồi Giáo, như Tam Điểm (Free-masonry), như mật
tông Hermetism, như Alchemy, như các nhà huyền học Công giáo Christian
Mystics), như ấn giáo, Khổng, Lão, Phật, Cao Đài v. v...tất cả đều phiếm
thần.
Tôi
cũng long trọng tuyên xưng tôi chủ trương phiếm thần 30, 40 năm nay rồi.
Vì tin Thượng Đế
là Bản Thể tôi, nên tôi mới có thể ngửng đầu lên nhìn được mọi người,
nên tôi mới thấy con người tôi rất là giá trị. Vì tin Thượng đế là Bản
thể tôi, nên tôi mới mong có thể tu luyện thành Thánh, Hiền, Tiên, Phật.
Vì tin
Thượng đế là Bản Thể tôi, nên tôi và chúng
sinh là một. Tôi và chúng sinh khác nhau, là vì những lớp áo vỏ bên
ngoài, là vì trình độ hiểu biết khác nhau, vì tâm tư khác nhau mà thôi.
Vì tin
Thượng Đế là Bản Thể muôn loài, nên tôi
thấu hiểu Ngài thông minh ra sao, quyền phép ra sao, và ở khắp nơi ra
sao. Vì tin Thượng đế là Bản thể muôn loài, nên tôi thấy muôn loài đều
phải nỗ lực tiến về Ngài. Nhưng muốn tiến được về với Ngài, không thể
nào thực hiện được trong một đời, một kiếp, nên tôi tin có luân hồi. Vì
tin Thượng đế là Bản thể muôn loài, nên tôi rất trọng ngọn đèn lương tâm
mà Trời đặt trong tôi và mỗi người chúng ta. Lương tâm chính là Bản Thể
chúng ta, chính là Phật tính của chúng ta.
Tôi rất sung
sướng là đã tìm ra được định nghĩa chân chính về Thượng đế, và đã biết
Ngài là Bản thể con người tôi và chúng sinh, chứ không phải là một nhân
vật sống ngoửai vũ trụ như Công giáo thường định nghĩa, và coi Ngài như
là một đấng ở trên Trời.
Carl Jung nói:
«Quan điểm Thượng đế hữu Ngã là quan điểm của Âu Châu. Quan điểm Thượng
đế vô ngã mới là quan điểm phổ quát (Universal archetype).»
Lão tử viết: Phù
vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết tĩnh, phục mệnh viết trường.
(Đạo đức Kinh, ch. XVI). Mà tôi dịch là:
Muôn
loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra
cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản
nguyên an nhiên phục mệnh.
Phục
mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
Vì thế mà các Đạo
Giáo Á Đông dạy ta phải "qui
căn phản
bản", hay "qui
nguyên, phục
thủy."
Bà La Môn dạy ta: tiến
Từ Hư Vọng tới
Chân Thực,
Từ Tối Tăm đến
Ánh Sáng.
Từ Tử Vong đến
Bất Tử. (Brih. 1.3. 28)
Đạo Phật dạy 4
chữ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Tiến tới Thường
Hằng, Hạnh Phúc, Đại Ngã, Thanh Tịnh.
Đạo Nho dạy:
Khử Nhân
Dục (Vọng Tâm),
tồn Thiên
Lý (Chân Tâm), và hễ Nhân dục thắng, thì
Thiên Lý vong.Và phải giữ sao cho lòng được Quang, Minh, Chính, Đại.
Thật là hết sức đẹp đẽ.
Như vậy, Giác ngộ
chính là tìm ra được Chân Tâm, Chân Ngã, khuất lấp sau các bức màn vô
minh và hiện tượng. Xưa tôi cứ tưởng là mỗi người giác ngộ một cách, và
khi đọc các Thiền Sư, thấy nói ông này giác ngộ, ông kia giác ngộ, mà
không mấy khi nói giác ngộ thấy gì. Nhưng càng ngày càng thấy Giác Ngộ
chỉ là Kiến Tính thành Phật mà thôi. Giác Ngộ là ấn chứng của Trời đất,
cho biết mình đã được tuyển lựa để đi vào con đường hiền thánh. Tuy
nhiên không phải là đi ngay được đến chỗ tuyệt luân tuyệt đích.
Dịch Kinh cho
thấy từ Giác Ngộ đến lúc thành đạo, có 7 giai đoạn:
PHỤC (Địa Lôi
Phục), thấy được rằng trong mình có tính trời.
LÂM (Địa Trạch
Lâm), đem được con người về với Trời, đến với Trời.
THÁI (Địa Thiên
Thái), biết rằng trời lồng trong tâm khảm mình, thấy mình được Thân Tâm
an lạc, tìm ra được thế quân bình giữa tinh thần và vật chất.
ĐẠI TRÁNG (Lôi
Thiên Đại Tráng), thấy mình tinh thần hết sức mạnh mẽ, vì luôn hoạt động
theo đúng đường Trời.
QUẢI (Trạch Thiên
Quải) rũ sạch mọi tàn tích vật chất còn vương vấn nơi thân.
KIỀN trở thành
thuần dương, nên như ảnh tượng Trời.
THÁI CỰC, thoát
vòng Luân Hồi, vào được trung điểm con người, trung điểm vũ trụ và vòng
Dịch. Nói thế nghĩa là lúc nào cũng phải lo thanh tẩy tâm hồn, đi đến
chỗ thanh hư, trong sáng.
|
|
|
|
|
|
|
PHỤC |
LÂM |
THÁI |
ĐẠI TRÁNG |
QUẢI |
KIỀN |
THÁI CỰC |
Tóm lại, vũ trụ
hữu hình này đã do một Chân Tâm, một Trung Tâm vô hình sinh xuất ra.
Tâm điểm là nguồn sinh hóa, vĩnh cửu,
trường tồn. Các vòng bên ngoài là hiện
tượng biến thiên. Tâm điểm là tinh hoa, cốt tủy; các vòng tròn bên ngoài
có nhiệm vụ làm bao bì, làm xác, làm vỏ che chở bên ngoài.
Nói theo Triết
học, Bản thể vô biến tế ấy đã phóng phát tán phân thành vũ trụ. Thế tức
là vũ trụ này đã hình hiện lên từ một Bản Thể, từ một Tâm Điểm có một
nguồn năng lực vô cùng. Tất cả đều như một cây pháo bông muôn màu, tung
tỏa miên trường, vĩnh cửu.
Tôi thấy rằng
giữa Bản thể vô biên và quần sinh vũ trụ, có một cái gì liên tục; cũng
như giữa sinh linh với sinh linh, có một cái gì gắn bó; tất cả đều liên
lạc với nhau, tất cả đều hỗ tương ảnh hưởng đến nhau, tất cả đều cùng
hội, cùng thuyền, y thức như người xưa đã nói:
Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức Nhất: Một là tất cả, tất cả
là Một, để tạo nên một Đại Thể huy hoàng, toàn bích.
6. Vô Thần (Atheism)
Vô Thần là không
tin rằng vũ trụ này được cai trị bằng 1 vị thượng thần có cá tính riêng
biệt.
Thời xưa có người
vô thần như Lucretius, nay có những người như Holbach, La Mettrie,
Charles Bradlaught, Karl Marx v.v... Nhiều người cho rằng Phiếm Thần
cũng là vô thần, vì không tin vào một Thượng đế Hữu Ngã. Nhưng như trên
đã nói Phiếm Thần không phải là vô thần.
Như vậy xưa nay,
có 3 cách chính để nhận định Thượng đế:
a.– Độc Thần
cho rằng có một Thượng đế, hữu ngã, ngoại tại, ở trên các tầng trời,
phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, quyền uy vô hạn.
b.– Vô Thần
cho rằng không có vị Thượng Thần, hữu ngã như vậy, trong trời đất này.
Vô Thần thật ra
không phải xấu như ta tưởng: Họ yêu mến tha nhân; họ tin rằng thiên đàng
chính là do mình tạo ra; họ không tin vào kinh nguyện mà tin vào chính
mình, và sức mạnh của mình để đương đầu với cuộc sống. Họ cho rằng phải
biết mình, biết người, mới có thể sống một cuộc đời viên mãn. Họ tìm học
về các đạo giáo, nhưng đề cao lý trí. Ngày nay những người vô thần có
những đoàn thể, và đã sọan ra nhiều sách vở. Họ đọc Kinh Thánh
rất kỹ và đã bới ra không biết là bao nhiêu điều sai lầm như họ đã trình
bày trong quyển The Bible Handbook, revised Edition của W.
P. Ball, G.F. Foote, John Bowden, Richard Smith and others, American
Atheist Press, Austin Texas, 1986.
Tiếc là
Vô thần lại là Duy Vật.
c.– Phiếm Thần
cho rằng không làm gì có vị Thượng thần hữu ngã như vậy, trong Trời
đất này. Mà vị Thượng thần mà ta mường tưởng ra đó, chính là Bản Thể
muôn loài. Bản thể đó đã tiềm ẩn sẵn trong lòng chúng ta. Chúng ta khỏi
phải tìm Ngài đâu xa, vì từ muôn thủơ, Ngài đã ở sẵn trong ta. Ta rờ vào
đâu cũng thấy Ngài (Xúc loại thị đạo), có như vậy ta mới tìm về với Ngài
được.
Như vậy, Độc Thần
chẳng qua cũng là một thứ Vô Thần mà thôi, vì đưa ra một cái gì không
có, thì cũng như là không vậy, và đã làm cản bước tiến của Nhân loại mà
thôi.
7. Bất khả tri (Agnosticism)
Nhóm triết gia
này chủ trương không sao biết được Tuyệt đối, biết được Vô Cùng. Và khoa
Thần học không có cứ điểm vững chắc.
T. H. Huxley đã
lập ra danh từ này. Huxley cho rằng ngoài hiện tượng, con người không
biết được gì hơn.
So sánh Độc Thần (Monothéisme) và Phiếm thần
(Pantheism)
Như Giám Mục
Robinson đã viết: «Định nghĩa về Thượng đế của Công giáo ngày nay đã lỗi
thời.»
Cho rằng Thượng
đế ở trên Trời, Chúa lên trời, hay xuống đất (John 3:13; John 6, 61,
Eph. 4:9f), là những danh từ nay đã lỗi thời.
Hơn thế nữa, coi
Thượng đế như là một nhân vật siêu việt và riêng biệt cũng không đúng.
Giáo Hoàng John
Paul II cũng vẫn coi Thượng đế là vị thần sống ngoài vũ trụ. Ngài viết:
«Tuy
nhiên, tiến trình quay lưng lại với Thiên Chúa của các Giáo Phụ... không
hàm chứa 1 cuộc đoạn giao với một Thiên Chúa, Đấng hiện hữu bên ngoài
thế giới...Thiên Chúa này, tuy nhiên, vẫn là một Thiên Chúa bên ngoài
thế giới.»
Nhà thần học
Tillich nói nay phải gọi Thượng đế là cái gì sâu
xa nhất, là Bản thể chúng ta.
Ông viết: «Tên
gọi Căn cơ sâu thẳm của muôn loài được gọi là Thượng đế. Danh từ Thượng
đế chính là để chỉ chiều kích sâu thẳm đó. Nếu danh từ ấy chưa có ý
nghĩa gì đối với bạn, bạn hãy chuyển dịch danh từ đó thành chiều kích
sâu thẳm của cuộc đời bạn, thành nguồn gốc Bản Thể bạn, điều quan thiết
tối hậu của bạn, và là điều mà bạn chú trọng nhất. Có lẽ để làm được như
vậy, bạn phải quên đi những gì mà truyền thống đã dạy bạn về Thượng đế,
phải quên đi ngay cả danh từ Thượng đế. Vì nếu bạn hiểu được rằng Thượng
đế là chiều kích sâu xa của cuộc đời bạn, bạn đã hiểu được rất nhiều về
Thượng đế. Hiểu
Thượng đế như
vậy, không thể rằng là bạn vô thần hay vô tín ngưỡng. Vì bạn
không thể nghĩ hay nói được rằng: Sự sống không có chiều sâu; sự sống
chỉ là nông cạn, hời hợt; bản thể chỉ là phiến diện. Nếu bạn thực tình
đã thốt ra những câu như trên, thì bạn là kẻ vô thần; bằng không thì bạn
đâu phải vô thần. Ai hiểu biết được chiều sâu, tức là hiểu biết Thiên
Chúa.»
Tôi cảm ơn Giám
Mục Robinson, và Tillich vì đã cho biết ngày nay chúng ta không thể còn
tin được rằng Thượng đế là một đấng sống riêng rẽ và tách biệt mọi vật.
Như vậy theo tôi, từ ngót
2000 năm nay, chúng ta đã coi Thượng đế như là một nhân vật sống tách
rời vũ trụ là một điều cần được sửa lại là Thượng
đế là Bản Thể chúng ta, là Chiều sâu con người chúng ta.
CHÚ THÍCH
The
traditional formulation of Christianity, Tillich says, has been in term
of what he calls 'Supernaturalism'. According to this way of thinking,
which is what we have been brought up to, God is posited as 'the highest
Being' – out there, above and beyond this world, existing in his own
right alongside and over against his creation.
[2]
Honest to God, John A. T. Robinson, Bishop of Woolwich, The
Westminster press, Philadelphia, 1963, Up there or out there pp.
11–28.
But we think of Him nevertheless as
defined and marked off from other beings as if He did. And this is what
is decisive. He is thought of as a Being whose separate existence over
and above the sum of things has to be demonstrated and established.
Ib. p. 31.
Those who, in the famous word of Laplace
to Napoleon,»find no need of that hypothesis»attach it in the name of
what they call the «naturalist»position. The most influental exponent of
this position in England today, Professor Julian Huxley, expressly
contrasts «dualistic supernaturalism» with «unitary naturalism.» The
existence of God as a separate entity can, he says, be dismissed as
superfluous: for the world may be explained just as adequately without
position such as a Being.
Ib. p. 31.
For, to the ordinary way of thinking, to
believe in God means to be convinced of the existence of such a supreme
and separate Being, «Theists» are those who believe that such a Being
exists, atheists’ those who deny that he does.
Ib. p. 17.
And Julian Huxley cannot be blamed for
seeing humanity in general, and religious humanity in particular’, as
habituated to thinking of God mainly in terms of an external, personal,
supernatural, spiritual Being.
Ib. p. 40.
Le
Panthéisme identifie Dieu avec la Totalité de l'Univers. Le mot vient du
Grec "pan»qui veut dire "Tout"; c'est donc la Divinité en toute chose.
Selon les paroles de Mme Blavatsky, "le Panthéisme était connu de toute
l'antiquité. Il se manifeste dans la vaste étendue des cieux étoilés,
dans le souffle des océans et dans le frisson de la vie qui anime le
plus petit brin d'herbe. La philosophie ne saurait imaginer un univers
en dehors de la Divinité, ou l'absence de cette Divinité dans le plus
mince fragment de substance animée ou inanimée.»La doctrine de
Panthéisme qui s'appuie sur l'idée de l'immanence du Principe Divin dans
la Nature, était enseignée dans les temples initiatiques de l'antiquité,
en Egypte et en Grèce et on la trouve exprimée dans la littérature
sacrée de l'Inde, les Upanishads et la Bhagavad Gita. Les Stoiciens
proclamaient un enseignement panthéiste, considérant la Nature comme une
manifestation du mental divin. Une Divinité mythologique, Pan, qui fut
originairement de Dieu des bergers, des paturages, des bois, donc un
génie de la nature, devint pour ces philosophes le Dieu même du
Panthéisme. Le système stoicien, fondé par Zénon, a trouvé sa pleine
expression avec les philosophes romains Sénèque, épictète et
Marc-Aurèle. Les Néo-latoniciens se rapprochaient également des idées
panthéistes. Mais cette philosophie ne tarda pas à trouver en désaccord
avec l'église et son Dieu extra-cosmique.
Dans l'histoire de la pensée panthéiste,
une place particulière revient à la grande figure de Giordino Bruno, ce
disciple de Pythagore qui, au cours de son existence mouvementée, n'a
cessé de proclamer que Dieu doit être cherché đans la Nature et non en
dehors d'elle...
L'enseignement théosophique est
essentiellement panthéiste. Il s'exprime notamment dans une lettres des
Maitre (Mahatma letters to A. P. Sinnett), la dixième qui contient une
répudiation énergique du Đieu des religions exotériques et la pleine
adhésion au système panthéiste. L'adepte y approuve la pensée de
Spinoza, qui enseignait qu'il n'y a qu'une substance laquelle est
divine, Car c'est la Vie-Une qui pénètre toute forme animée ou inanimée;
c'est la vie divine qui est l'essence de chaque atome qui est la nature,
le movement et la qualité particulière de chaque être vivant, de chaque
objet matériel.
Le Lotus Bleu, Février. 67,
Athéisme, Monothéisme, Panthéisme, Hermine Sabety, pp. 235-236.
Le Dieu extérieur doit disparaitre afin
que le Dieu intérieur puisse parler à l'âme. Ib. 237.
Le
Panthéisme identifie Dieu avec la Totalité de l'Univers. Le mot vient du
Grec "pan»qui veut dire "Tout"; c'est donc la Divinité en toute chose.
Selon les paroles de Mme Blavatsky, "le Panthéisme était connu de toute
l'antiquité. Il se manifeste dans la vaste étendue des cieux étoilés,
dans le souffle des océans et dans le frisson de la vie qui anime le
plus petit brin d'herbe. La philosophie ne saurait imaginer un univers
en dehors de la Divinité, ou l'absence de cette Divinité dans le plus
mince fragment de substance animée ou inanimée.»La doctrine de
Panthéisme qui s'appuie sur l'idée de l'immanence du Principe Divin dans
la Nature, était enseignée dans les temples initiatiques de l'antiquité,
en Egypte et en Grèce et on la trouve exprimée dans la littérature
sacrée de l'Inde, les Upanishads et la Bhagavad Gita. Les Stoiciens
proclamaient un enseignement panthéiste, considérant la Nature comme une
manifestation du mental divin. Une Divinité mythologique, Pan, qui fut
originairement de Dieu des bergers, des paturages, des bois, donc un
génie de la nature, devint pour ces philosophes le Dieu même du
Panthéisme. Le système stoicien, fondé par Zénon, a trouvé sa pleine
expression avec les philosophes romains Sénèque, épictète et
Marc-Aurèle. Les Néo-latoniciens se rapprochaient également des idées
panthéistes. Mais cette philosophie ne tarda pas à trouver en désaccord
avec l'église et son Dieu extra-cosmique.
Dans l'histoire de la pensée panthéiste,
une place particulière revient à la grande figure de Giordino Bruno, ce
disciple de Pythagore qui, au cours de son existence mouvementée, n'a
cessé de proclamer que Dieu doit être cherché đans la Nature et non en
dehors d'elle...
L'enseignement théosophique est
essentiellement panthéiste. Il s'exprime notamment dans une lettres des
Maitre (Mahatma letters to A. P. Sinnett), la dixième qui contient une
répudiation énergique du Đieu des religions exotériques et la pleine
adhésion au système panthéiste. L'adepte y approuve la pensée de
Spinoza, qui enseignait qu'il n'y a qu'une substance laquelle est
divine, Car c'est la Vie-Une qui pénètre toute forme animée ou inanimée;
c'est la vie divine qui est l'essence de chaque atome qui est la nature,
le movement et la qualité particulière de chaque être vivant, de chaque
objet matériel.
Le Lotus Bleu, Février. 67,
Athéisme, Monothéisme, Panthéisme, Hermine Sabety, pp. 235-236.
Le Dieu extérieur doit disparaitre afin
que le Dieu intérieur puisse parler à l'âme.
Ib. 237.
From the
unreal lead me to the real.
From death lead me to immortality.
The thirteen Principal Upanishads,
Robert Ernest Hume, Delhi Oxford University Press, Bombay Calcutta
Madras, 1877, p. 80.
An Atheist
loves his fellow man instead of a God. An Atheist believes that heaven
is something for which we should work now, here on earth, of all men
together to enjoy. An Atheist believes that he can get no help through
prayer, but that he must find in himself the inner conviction and the
strength to meet life, to grapple with it, to subdue it, and to enjoy
it. An Atheist believes that only in a knowledge of himself and his
fellow man can find the understanding that will helf him in a life of
fulfillment. He seeks to know himself and his fellow man rather than to
know God.
William J. Murray, My life without God,
1992, p. 83, 84.
American Atheists are organized:
a.– to stimulate and promote freedom of
thought and inquiry concerning religious beliefs, creeds, dogmas, tenet,
ritual and practices;
b.– To collect and disseminate
information, data, and literature on all religions, and promote a more
understanding of them, their origins and their histories...
...American Atheism may be defined as the
mental attitude that unreservedly accepts the supremacy of reason and
aims at establishing a life–style and ethical outlook verifiable by
experience and the scientific method, independent of all arbitrary
assumptions of authority of creeds.
Materialism declares that the cosmos is
devoid of immanent conscious purpose; that it is governed by its own
inherent, immutable and impersonal laws; that there is no supernatural
interference in human life; that man -finding his own resources within
himself- can and must create his own destiny. Materialism restores to
man his dignity and his intellectual integrity. It teaches that we must
prize our life on earth and strive always to improve it. It holds that
man is capable of creating a social system based on reason and justice.
Materialism's "faith»is in man and man 's ability to transform the world
culture by his own efforts...
The Bible handbook, W. P. Ball, G. W.
Foote, John Bowden, Richard M. Smith and others, Americans Atheist
Press, Austin Texas, 1968, p. 375.
Le mot a
été inventé par T.H. Huxley en 1869: Selon ses propres termes,
«l'agnosticisme dit simplement que nous ne connaissons rien de ce qui
peut exister derrière les phénomènes.»
Xem
Honest to God, chương Reluctant Revolution. Up there or Out There?
pp. 11-28.
... We continue to picture God as a
Person, who looks down at this world which he has made and loves from
'out there'. We know, of course, that he does not exist in space. But we
think of Him as defined and marked off from other beings as if he did,
and this is what is decisive. He is thought of as a Being whose separate
existence over and above the sum of things has to be demonstrated and
established.
Ib. p. 30–31.
Bước qua
ngưỡng cửa Hi Vọng, Thăng Tiến 95, tr. 74.
Nevertheless, the process of turning away
from the God of The Fathers...did not bring about the rupture with a God
who exist outside of the world... This God however is decidedly a God
outside of the world.
Crossing the threshold of Hope, by
his Holiness John Paul II, Alfred A. Knopf New York 1994, pp. 52–53.
God,
Tillich was saying, is not a projection 'out there', an Other beyond the
skies, of whose existence we have to convince ourselves, but the Ground
of our very being.
John A. T. Robinson, Honest to God,
The Westminster Press, Philadelphia, 1963, p. 22.
The name
of this infinite and inexhaustible depth and ground of all being is God.
That depth is what the word God means. And if that word has not much
meaning for you, translate it, and speak of the depth of our life, of
the source of our being, of your ultimate concern, of what you have
taken seriously without any reservation. Perhaps in order to do so, you
must forget everything traditional that you have learned about God,
perhaps even that word itself. For you cannot think or say: Life has no
depth! Life is shallow. Being itself is surface only. If you could say
this in complete seriousness, you would be an atheist; but otherwise you
are not. He who knows about depth, knows about God.
John A. T. Robinson, Bishop of Woolwich,
Honest to God, The Westminster Press, Philadelphia, 1963, pp.
21–22.
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16
17 18
19
|