THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
Chương 3
HAI CHIỀU HƯỚNG CỦA CUỘC
ĐỜI
ĐẠO HUYỀN ĐỒNG (MYSTICISM)
I. HAI CHIỀU HƯỚNG CỦA CUỘC
ĐỜI
Thuyết Thiên địa
vạn vật đồng nhất thể chủ trương rằng Vũ trụ này là từ một Bản Thể Duy
Nhất sinh xuất ra. Còn đạo Huyền Đồng chủ trương vạn sự trong trời đất
này chung qui sẽ phải trở về với Bản Thể đó. Một đàng thì đi ra, một
đàng thì đi vô. Hai chiều ráp lại thành vòng Đại Tuần Hoàn của vũ trụ.
Thuyết Thiên địa
vạn vật nhất thể là chiều sinh Nhân, sinh Vật, còn Đạo Huyền Đồng là
chiều sinh Thánh, sinh Thần. Chiều đi ra là chiều xuôi, chiều đi về là
chiều ngược. Kinh Dịch chung qui là dạy con người Chiều Ngược
này, vì thế nói: Dịch, nghịch số dã.
Từ Vô Cực, Thái
cực xuống tới âm Dương, sinh hóa vạn vật, đó là chiều thuận. Đó
là chiều từ Thái cực ra đến 64 quẻ của Phục Hi. Đạo gia gọi thế là
Giáng Bản Lưu Mạt.
Từ vạn vật, trở
ngược về Bản Thể, hay nói cách khác, từ 64 quẻ trở về Tứ Tượng, Âm
Dương, Thái cực, gọi là chiều nghịch. Đạo gia gọi thế là
từ ngọn trở về gốc (Tự mạt phản bản). Như
vậy, chiều thuận sẽ sinh nhân, sinh vật, chiều nghịch sẽ sinh Thánh,
sinh Thần.
Hay nói cho đúng
hơn, chiều Thuận là đi từ Thái Cực, đến âm Dương, Tứữ Tượng đến 32 quẻ
âm phía trái, tức là từ Cấu, đến Khôn. Còn chiều Nghịch là chiều đi từ
quẻ Phục, đến Kiền rồi trở về Thái Cực.
Chính vì thế mà
nơi quẻ Phục có câu: «Phục kỳ kiến Thiên Địa chi
tâm hồ?» (Con người biết đàng trở về là khi thấy được trong lòng
mình có Thiên Địa chi tâm.)
Con người thường
đi theo chiều Thuận từ bé đến khoảng 35 tuổi. Rồi từ 36 đến già sẽ đi
theo chiều nghịch, nếu có duyên may, hiểu đạo.
Con đường trở về
Nho gia gọi là Phản Cung, hay
Phản Thân, tức là quay lưng lại với thế
giới vật chất, và hướng về thế giới tinh thần, về Thái Cực, Vô Cực.
Âu Châu gọi
«hướng ngoại trục vật» là Extroversion: Gọi «hướng nội hồi Thiên» là
Introversion. Gọi «phản quan» hay «nội quan» là Introspection.
Phật giáo gọi
Chiều Nghịch là «Nội quan», hay
«Nội quan quán chiếu.»
Nhìn sang phía
Trời Âu, ta thấy nhiều triết gia cũng đã đề cập đến 2 chiều Thuận Nghịch
của cuộc tiến hóa.
Hegel mô tả đại
khái như sau: Tinh Thần thoạt kỳ thủy xuất phát để phá tán vào vạn vật,
rồi qua nhiều thời kỳ văn minh, nhiều chặng đường lịch sử vất vả, lại
phục hồi được chân thể, về được với Thượng đế.
Các triết gia
Alexandrin và Thomist cũng chủ trương một vòng tuần hoàn từ Thượng Đế
xuống, rồi dần dần quay lại.
Denis Areopagites
một triết gia và một nhà huyền học Âu Châu thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên
cũng chủ trương vũ trụ vận chuyển theo 2 chiều: chiều sinh hóa từ Thượng
đế phát ra, và chiều phản bản qui nguyên, trở về với Thượng Đế.
Gần đây, Claude
Tresmontant cũng viết: «Có một vấn đề siêu hình thường ám ảnh tư tưởng
Âu Châu: Đó là sơ đồ một vòng tuần hoàn từ Nhất sa đọa xuống Vạn, rồi từ
Vạn lại phản hoàn về Nhất.»
Hai chiều Thuận,
Nghịch của vũ trụ cũng dần dà được các khoa học gia xác định.
Chiều Thuận tức
là chiều Dương tiêu, âm trưởng đã được Carnot Clausius chứng minh. Quan
niệm này được gọi là Nguyên Lý thứ 2 của Nhiệt Động Học, hay nguyên lý
Carnot-Clausius. Nguyên lý này đại khái như sau:
a. Năng lực
trong vũ trụ có một số lượng nhất định.
b. Năng lực có
thể phân tách thành hoạt lực, và tiềm lực.
c. Khi tác dụng
hoạt lực sẽ tiêu hao, suy giảm dần và không thể phục hồi nguyên trạng.
d. Rốt cuộc, hoạt
lực sẽ tiêu hao dần và có một lúc sẽ triệt tiêu.
e. Khi ấy, tiềm
lực sẽ tăng lên đến mức tối đa (Maximal Entropy), nhưng vô dụng, và thế
giới sẽ tận số trong im lìm, lạnh lẽo.
Mới đầu các khoa
học gia tưởng thế giới chỉ chuyển động theo một chiều nới trên. Dần dà,
các nhà sinh lý học (biologist) và các nhà sáng tạo các máy móc tự động
(Cybernetician) đã nhận thấy rằng Nguyên Lý Carnot-Clausius chỉ áp dụng
cho vật chất vô tri, chứ không áp dụng cho sinh vật, nhất là cho con
người.
Trong con người rõ ràng có 2
chiều biến chuyển:
– Tiêu
(Catabolism) Chiều thuận.
– Tức (Anabolism)
Chiều nghịch.
«Đi theo chiều
thuận, trong thì bị thất tình, lục dục làm mê muội, ngoài thì bị trăm
điều, nghìn việc quấy đảo tâm thần, lấy giả làm chân, lấy tà làm chính,
lấy khổ làm vui, cứ bị lôi cuốn theo dục vọng, cho đến khi tiêu hao hết
tinh thần.
«Người đại trí,
đại tuệ đi theo chiều nghịch sẽ thoát vòng kiềm tỏa của các định luật
tạo hóa, sẽ không còn bị âm dương nung nấu, không còn bị vạn vật lôi
cuốn, dùng đời để tu đạo, lấy nhân đạo để chu toàn Thiên Đạo.
«Nghịch đây là
trở về với Tuyệt đối Thể y như một kẻ bỏ nhà ra đi thật xa xôi, nay trở
lại nhà. Tuy gọi là "Nghịch Hành", nhưng thực là đi theo đúng lẽ Trời,
đó là "cái đại thuận" trong cái nghịch. Nghịch đây bất quá là đi ngược
với đường lối của thế nhân thông thường.»
Dịch Kinh trọng
chiều nghịch và dạy người quân tử đi theo chiều nghịch, vì thế gọi Dịch
là Nghịch Số.
Lão tử trọng
chiều nghịch, vì thế mới nói Phản giả đạo chi
động. (Đạo Đức Kinh, chương XL)
Các đạo gia cũng
hết sức trọng chiều nghịch.
Các ngài chủ
trương cần phải băng qua hào quải (Hoàn cảnh) trở về Thái Cực, băng qua
hiện tượng trở về Tuyệt đối. Các ngài chủ trương muôn loài rồi ra cũng
trở về với Tuyệt đối.
Các Ngài chủ
trương muôn loài rồi ra cũng trở về với Thái Cực.
Ngộ Chân Trực Chỉ
có thơ:
Vạn vật vân vân
các phản côn,
Phản côn, phục
mệnh tức trường tồn.
Tri thường, phản
bản, nhân nan hội,
Vọng tác chiêu
hung vãng vãng văn.
Dịch:
Vạn vật
rồi ra cũng phản côn,
Phản
côn, phục mệnh sẽ trường tồn.
Tri
thường, phản bản người đâu rõ,
Nên mới chiêu
hung, sống mỏi mòn.
Lưu
Nhất Minh có thơ:
Huyền quan nhất
khiếu thiểu nhân tri,
Hoảng hốt yểu
minh hàm lưỡng nghi.
Thuận khứ qui lưu
phiền não lộ,
Nghịch lai tiện
thị thánh hiền ki.
Dịch:
Huyền
quan một khiếu, ít người tri,
Phảng
phất mơ mòng đủ lưỡng nghi.
Đưa đẩy
xuôi dòng vương khổ não,
Ngược
chiều, hiền thánh tạo căn ki.
Trên đây đã:
1. Minh xác hai
chiều thuận nghịch, cùng ý nghĩa và mục địch của 2 chiều thuận nghịch.
2. Đề cao Chiều
Nghịch và nhận chân Chiều Nghịch là chiều sinh tiên, sinh thánh, sinh
thần.
Tuy nhiên con
người sinh ra đời không phải lúc nào cũng theo được chiều nghịch, mà
cũng có lúc phải theo chiều thuận.
Theo thiển ý tôi,
một cuộc sống lý tưởng nhất của con người sẽ gồm cả 2 chiều thuận
nghịch.
Lúc
tuổi trẻ (1-35), theo chiều Thuận, chiều Hướng Ngoại, từ tinh thần tiến
ra vật chất, ra ngoại cảnh, ra xã hội để mưu sinh, cải tạo hoàn cảnh,
góp phần xây dựng giang sơn, đất nước. Nửa đời sau (36-80, 90), khi đã
công thành, danh toại, sẽ đi chiều nghịch, từ vật chất ngoại cảnh, tiến
sâu về phía tâm linh, để thần thánh hóa bản thân, phối hợp với Thái Cực.
Sách Đạo Nguyên
Tinh Vi Ca cho rằng: Trước xuống, sau lên hợp tự nhiên.
Như vậy, là biết
hồi hướng phải thời, đúng lúc, theo đúng lẽ tuần hoàn, vãng lai, phản
phúc của Dịch Kinh, và của trời đất.
Lúc trở vào nội
tâm, lúc đi theo Chiều Nghịch, thì mọi sự đều nghịch đảo hết:
Cái gì xưa kia
cho là quan trọng, nay trở thành tầm thường; cái gì xưa cho là tầm
thường nay trở nên quan trọng.
Lúc ấy, Con người
thực tế (le moi empirique; The empirical self) nhường bước cho con người
lý tưởng (le moi Idéal; The ideal self).
Thượng đế ngoại
tại (God without), sẽ trở thành Thượng đế nội tại (God within).
Thượng đế xưa kia
xa cách, nay trở thành thân mật, gần kề.
Người ngoài trông
vào, tưởng ta bỏ thực, cầu hư.
Ngược lại, ta
biết chắc mình đã bỏ hư, cầu thực.
Đi theo chiều
thuận, hướng ngoại, hoạt động bên ngoài là đi theo đời, "đi đời"
Đi theo chiều
nghịch, hướng nội, sống một đời sống tinh thần súc tích bên trong, là đi
theo đạo, "đi đạo.»
II. ĐẠO HUYỀN ĐỒNG & THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN
VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Đạo Huyền đồng là
sống một đời đạo giáo kết hợp với Trời ngay từ khi còn ở gian trần này.
Al-Ghazali phê
bình: «Khi nhà huyền học sống phối kết với Một, thì đã đi tới giai đoạn
tiến hóa chót của con người. Con người không thể nào đi xa hơn thế được,
vì đã đi đến Một là không còn Vạn, không còn gì bác tạp nữa.»
Jalalu'd Din có
thơ:
Hồn ta,
hồn Chúa tuy hai,
Như nưởc
và rượu, hòa hài với nhau.
Chúa, Ta
ý hiệp, tâm đầu,
Nước
kia, rượu nọ, ai hầu phân ra?
Ngài nay
đã trở thành ta,
Ta nay
đã thoát cõi bờ nhỏ nhoi!
Ngài nay
đã chiếm ta rồi,
Còn ta cũng đã
thành Ngài còn đâu?
Đạo Huyền Đồng
chủ trương Thượng đế là Bản Thể con người, là cốt lõi con người, và luôn
luôn tiềm ẩn trong lòng con người (God is immanent in man). Plotinus
nói: "Thượng đế không ở ngoài con người, nhưng ở ngay trong lòng vạn
hữu. Chỉ tại ta ngu dốt không biết điều đó mà thôi.»
Eckhart cũng nói:
«Thượng đế gần tôi hơn chính tôi, Ngài cũng gần gỗ đá như vậy, nhưng
chúng không biết điều đó.»
Mục tiêu của Đạo
huyền đồng: Trở về với Nhất thể.
Một người theo
đạo huyền đồng chân chính phải biết rằng muôn vật sinh xuất ra từ Một,
và có hiểu rõ lẽ sinh hóa từ Một mới là người theo đạo huyền đồng.
(Mysticism).
Eckhart cho rằng:
Cái mà con người nhìn thấy thù tạp, phân hóa bên ngoài, thật ra là Một
mà thôi. Ở đây, một ngọn cỏ, một tấm gỗ, một phiến đá thật ra cũng là
một.
Tennyson viết:
Little flower –
but if I could understand
What you are,
root and all, and all in all.
I shoud know what
God and man is.
Dịch:
Bông hoa
bé nhỏ con con,
Nếu tôi
hiểu được nguồn cơn, gót đầu.
Nếu tôi
hiểu nó cho sâu,
Trời,
Người bao chuyện nhiệm màu, cũng thông.
Phật Giáo cũng chủ trương
Vạn loài đồng thể. Trong quyển Zen and Japanese Culture, nơi tr.
352, Daisetz T. Suzuki trích lời thư Tăng Triệu như sau:
Heaven
and earth and I are of the same root,
The ten
thousand things and I are of one substance.
Đó chính là Thiên
Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
Biết được, theo
được đạo huyền đồng là cái duyên mà trời đất ban cho những người có căn
cơ, gốc gác, cho những người biết lập quyết tâm đi tìm Đạo, tìm Trời.
Người xưa nói: «Tinh
thành sở chí, kim thạch vi khai.»
(Ai mà có lòng thành tín,
thì vàng đá sẽ mở lòng ra.)
Không biết rằng
mình phát xuất ra từ Một, không biết rằng muôn loài là một, là chính
mình, thì không bao giờ vào được đạo Huyền Đồng.
Lữ Động Tân viết:
Giá
chẳng đáng đồng tiền.
Nếu ai
mà hỏi giá,
Muôn vạn
lạng hoàng kim.
Đạo tặc
chẳng cướp được,
Hỏa
thiêu cũng y nhiên.
Ở đời
không kẻ biết,
Chí thân
cũng không truyền.
Ta từ
Vân Động đến,
Tới nay
quá thiên niên.
Hận là
không kẻ biết,
Trong
mình vẫn giữ nguyên.
Nó chẳng
đứt, chẳng liền,
Tung ra
trùm trời đất,
Thu nhỏ
lọt đầu kim.
Nếu ai
mà biết được,
Tu đạo,
sẽ thành tiên.
Bạn hãy
kiếm điểm lại,
Có chăng
tại thân biên!
Bài này là một
bài kệ của Lữ Động Tân.
Thực ra, Trời là
cốt lõi muôn loài, và là chiều sâu con người, nhưng con người đâu có
biết có hay. Họ chạy đi tìm những đạo mới lạ, chỉ
duy là đã có sẵn đạo cao siêu nhất ở ngay trong mình, thì lại bỏ qua
luôn, không thèm để ý tới. Thế chính là Bụt chùa nhà không
thiêng. Thế là có của báu trong nhà mà vẫn phải ngửa tay đi ăn xin
người.
Một hôm, tôi sang
Paris, trèo lên tháp Eiffel ngắm cảnh. Tôi thấy trăng sao, trời mây ở
Paris, là trăng sao, tôi vốn có từ Việt Nam. Tôi nhớ lại đồ ăn, thức
uống ở Paris, tôi cũng thấy có ê hề ở Việt Nam. Nghĩa là cái gì cần cho
con người như đồ ăn, thức uống, như không khí, thì Trời đã cho tôi có đủ
ở Việt Nam. Như vậy, nếu có cái Đạo cần cho con
người, thì tôi phải mang nó sẵn trong tôi, chứ nó không thể là cái đạo
nhập cảng. Phật nói Ngài là ngón tay chỉ trăng, chứ Ngài không
phải là trăng. Đạo Nho nói: Đạo quân tử, phát xuất tự thâm tâm (Cố
quân tử chi đạo, bổn chi ư Thân. -- Trung Dung chương 29). Chính
vì vậy mà tôi đã dành nửa đời người để đi tìm cho
ra cái đạo tự nhiên, vĩnh cửu mà trời đất đã ban cho tôi từ khi ra đời.
Khi còn trẻ, tôi đã đi theo đạo này, đạo nọ, nhưng những gì họ rao
giảng, mà không hợp tình, hợp lý, không hợp với tự nhiên, với Thiên Lý,
với những định luật vĩnh cửu của trời đất là tự nhiên nó trôi đi, như
nước đổ đầu vịt.
Thánh hiền các
đạo giáo đều dạy lẽ Qui Nguyên Phản Bản. Lão tử viết:
Muôn
loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra
cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản
nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục
mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
(Xem bài Qui Căn,
chương XVI, Đạo đức Kinh)
Các đạo giáo Á
Đông đều dạy «qui căn phản bản», hay «qui nguyên, phục thủy.»
Bà La Môn dạy ta:
Tiến từ
Hư Vọng, tới Chân Thực.
Từ tối
tăm đến Ánh sáng.
Từ Tử Vong đến
Bất tử. (Brih. 1.3.28).
Đạo Phật dạy 4
chữ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh: Tiến tới
Thường Hằng, Hạnh Phúc, Đại Ngã (Phật tính. Chân Tâm), Thanh Tịnh.
Đạo Nho dạy: Khử
nhân dục (Vọng Tâm), Tồn Thiên Lý (Chân Tâm) và hễ Nhân Dục thắng, thì
Thiên Lý vong, Và phải sống sao cho lòng được Quang, Minh, Chính Đại.
Như vây, giác ngộ
là tìm ra được Chân Tâm, Chân Ngã khuất lấp sau bức màn vô minh và hiện
tượng.
Tóm lại, Thuyết
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể sẽ trở thành một học thuyết đạo giáo hết
sức cao siêu, nếu ta thay chữ Bản Thể bằng những
danh từ như Thượng đế, Allah, Chân Như, Đạo v.v...
Tuy nhiên, nó hết
sức khác với tôn chỉ của các đạo giáo công truyền, vì nó chủ trương:
* Con
người có Thiên Tính.
*
Thượng Đế ngự trong lòng sâu vạn hữu.
* Mọi
người đều có một giá trị siêu việt, đều có sẵn nơi mình những khả năng
vô biên, vô tận, đều có thể tiến hóa vô biên tận.
* Mọi
người phải tương ái, tương thân, vì đều có cùng một Bản Thể.
* Mọi
người phải đem tình yêu ban rải tới chúng sinh, vì chúng sinh có đồng
một bản thể như mình.
* Phải đi vào Tâm
mà tìm Đạo, tìm Trời.
* Làm
chính trị, hay lãnh đạo dân là phải lo cho dân ấm no, sung sướng,
* Lãnh
đạo nhân quần là phải hướng dẫn nhân quần tới Chân, Thiện, Mỹ.
* Phải
biết đoàn kết để giải quyết mọi nỗi dở dang, chếch mác còn có trên đời
này.
* Mục
đích của đời sống là sống cao khiết, kết hợp nhất như với Thượng đế ngay
từ khi còn ở gian trần này.
* Khi
còn ngây thơ, thì trông vào tha lực, khi đã trưởng thành, đã giác ngộ,
thì trông vào tự lực.
*
Lương tâm là Thiên Thư duy nhất, không nhiễm mầu thời gian và không
gian: Không ai có thể manh tâm sửa đổi được.
Nếu quả thật con
người sinh ra ở cõi đời này là cốt để thực hiện cái Bản Thể cao đại của
mình, thực hiện một cuộc sống cá nhân và xã hội lý tưởng, thì chúng ta
mới tìm ra được một lẽ sống đích thực cho cá nhân và cho nhân loại. Nếu
quả thật chúng ta sống ở đời cốt là để thực hiện một cuộc sống lý tưởng
cho mình và cho người, ta sẽ tìm ra ngay những thiếu sót mà mỗi người
chúng ta, mỗi quốc gia, xã hội đang còn mắc phải.
Chúng ta còn đói
khổ? còn bệnh tật? còn lầm than? chúng ta còn ngu si, dốt nát? chúng ta
còn đầy sân hận? chúng ta còn bị dục vọng dày vò? Hoặc xã hội chúng ta
còn đang lạc hậu, đang bị bóc lột, đang bị cùm xiềng?
Khi đã tìm ra căn
bệnh rồi, tìm ra thuốc chữa không còn phải là khó. Cái khó là chính vì
chúng ta không chịu suy tư, không chịu vươn vượt, không chịu đoàn kết để
mà xây dựng tương lai. Nếu chúng ta không cùng nhau ra tay tìm ra nguyên
nhân mọi chếch mác dở dang, mọi khổ đau của nhân quần, nếu chúng ta
không chịu sứýa sai, sửa lỗi, thì không bao giờ chúng ta có một cuộc
sống tiến bộ, đáng sống.
Tin vào sức mạnh
mình, tin vào những khả năng vô biên tận của con người, tin vào sức mạnh
vô biên của sự đoàn kết, của sự tương kính, tương thân, con người sẽ tạo
cho mình một đời sống cực lạc, hạnh phúc cho mình và cho mọi người. Đó
là định mệnh con người trong tương lai, mai hậu.
Và tôi liên tưởng
đến bài thơ Plein Ciel của Victor Hugo:
Thuyền
Nhân loại hướng về đâu tá?
Thuyền
quang hoa băng ngả thần tiên.
Tiến về
mai hậu siêu nhiên,
Tiến về
đức hạnh nguyên tuyền tinh hoa.
Ánh khoa
học Trời xa lóng lánh,
Thuyền
quang hoa băng cảnh thần tiên,
Tiến về
đẹp đẽ tinh tuyền,
Tiến về
Thượng giới, về miền muôn sao.
CHÚ THÍCH
Xem Dịch Học Nhập môn của Tác giả, các tr. 116-138.
Xem Lưu Nhất Minh, Tượng ngôn phá nghi, q. thượng tr. 1 b.
Nhất giả Vô chi xưng, vạn vật chi sở dĩ thành chung, cố vân Qui Nhất.
Ngũ hành tương thôi phản qui nhất. -- Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr.
18.
Ngộ Chân Trực Chỉ, quyển 3, tr. 12.
Tượng Ngôn Phá Nghi, q. hạ tr. 7a.
Hậu thăng, tiền giáng hợp thiên nhiên.
Al-Ghazali comments: "When the mystic enters into the pure and
absolute Oneness of the One and into the Kingdom of the One and Alone,
mortals reach the end of their ascent... No higher ascent for the soul
is possible, for there is no height beyond the highest and no
multiplicity in the face of the Unity..." — Evelyn Underhill,
Mysticism, A meridian Book, p. 174–175.
With Thy Sweet Soul, this soul of mine,
Had mixed as
Water doth with Wine,
Who can the
Wine and Water part,
Or me and Thee
when we combine?
Thou art
become my greater Self,
Small bounds
no more can me confine.
Thou hast my
being taken on,
And shall not
I now take on thine?...
Hal Bridges,
Mysticism, A meridian Book, p. 426.
God, says Plotinus, is not external to anyone, but is present with all
things, though they are ignorant that He is so. Mysticism,
Everlyn Underhill. p. 99.
God, says Echkart, is nearer to me than I am to myself: He is
just as near to wood and stone, but they do not khow it. —
Mysticism, p. 101.
All that a man has here externally in multiplicity is intricically
one. Here all blades of grass, wood and stone, all things are one.—Hal
Bridges, American Mysticism, Harper and Row, 1979, p. 3.
Một hôm, vào khoảng năm 1976, tôi và nhà tôi xuống thăm chùa Đạo Lão là
Chùa Khánh Vân, ở đường Lò Siêu, Chợ Lớn, tôi thấy trụ trì đem dán cho
thiên hạ đọc. Tôi ghi chép lại, và đem về dịch ra tiếng Việt, và cũng
đem biếu vị trụ trì một bản. Bài này, sang Mỹ rồi, nhà tôi mới đem ghi
chép lại. Có thể là thiếu đi ít câu, nhưng đại ý chỉ có vậy.
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
|