THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
Chương 18
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT
NHẤT THỂ TRONG KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
Xưa
nay, nhiều người thường cho rằng Khoa Học có cái nhìn khác biệt với các
nhà Huyền học, Đạo học. Đã đành, không phải là các khoa học gia đều có
cùng một đường lối như nhau, nhưng cũng đã có những khoa học gia chứng
minh được rằng các nhà huyền học (Mystics) và khoa học gia đã nhận ra
rằng Vũ trụ này có một bản thể duy nhất. Người đã làm được chuyện này là
nhà vật lý Fritjof Capra. Năm 1976, ông cho in quyển The Tao of the
physics. Sách này đã được nhiều nhà xuất bản in lại. Mới đầu là nhà
xuất bản Shambala, rồi đến Quality Book Club rồi đến Bantam Edition. Từ
1976 đến 1977, Shambala in lại sách 4 lần. Quality Book in lại 1 lần năm
1977. Bantam từ 77 đến 84 in lại tất cả 9 lần.
Fritjof Capra
viết rằng khoảng năm 1970, một hôm ông ngồi ngoài bãi biển đã chứng
kiến thấy vũ trụ chuyển hóa trong ông và quanh mình ông, như một vũ điệu
vũ trụ. Ông thấy cát, đá, nước và không khí là những phân tử, nguyên tử
rung động, va chạm lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tiêu diệt lẫn nhau.
Ngoài ra còn thấy những luồng vũ trụ tuyến thường xuyên phả qua làn
không khí, gây nên những va chạm, những sự hủy diệt lẫn nhau. Trước đây,
ông chỉ biết chuyện này trên lý thuyết, trên toán học. Bây giờ ông mới
thấy thế giới quanh ông và trong thân thể ông nhảy nhót theo nhịp điệu
vũ trụ. Ông cảm động đến rơi lệ và ghi chép những cảm giác ông có được
xuống giấy tờ.
Ông không những
là một khoa học gia mà còn mê say triết học và huyền học Ái Châu. Ông
càng ngày càng nhìn thấy rõ sự tương đồng giữa những cái nhìn của các
nhà huyền học Bà La Môn, Phật giáo, Kinh Dịch và Lão giáo với những khám
phá mới nhất của khoa Vật Lý Lượng tử (Quantum Physics) hiện đại. Ôïng
chủ trương vạn vật trong vũ trụ này đồng thể và hỗ
tương ảnh hưởng lẫn nhau (The unity of all things and mutual
interrelation of all things). Bản thể rốt ráo ấy của Vũ trụ, Bà la Môn
gọi là Brahman, Phật giáo gọi là Dharmakaya, Tathata hay Suchness (Pháp
thân, Chân Như), Lão giáo gọi là Đạo.
Khoa học hiện đại
cũng chủ trương y thức như vậy.
Ông đã dành cả
một chương The Unity of all things để bàn về Vạn vật nhất thể.
Ông nhận định đại khái rằng trong đời sống bình thường, con người không
biết rằng vạn vật là nhất thể mà cho rằng vũ trụ này có nhiều sự vật
khác nhau, có nhiều chuyện khác nhau. Sự phân biệt này tuy cần cho đời
sống hằng ngày, nhưng không đúng với thực tại. Sự phân tách này là do sự
biện phân sắp xếp của khối óc chúng ta mà thôi. Tưởng rằng vũ trụ này
sai biệt lẫn nhau, và có nhiều biến cố khác nhau là chuyện huyễn vọng
(illusion, maya).
Đạo Bà La Môn và
đạo Phật cho rằng huyễn vọng đó sinh ra là do Vô minh (Avidya) hay là sự
dốt nát (ignorance) của ta. Khi con người biết
định tĩnh (Samadhi), sẽ tìm thấy sự nhất quán của vũ trụ.
Sự nhất quán của
vũ trụ là đặc điểm của các nhà huyền học, và cũng là sự mặc khải của
khoa vật lý học hiện đại. Càng đi sâu vào lòng nguyên tử, vào đáy lòng
vật chất, ta càng thấy điều đó hiện ra. Càng sánh
Khoa học hiện đại với triết học Á Đông ta càng thấy vạn vật là nhất thể,
và vũ trụ này có liên quan mật thiết với nhau.
Ông trình bày vấn đề trên rất khéo léo.
Trước tiên, ông
trình bày cái nhìn của khoa học hiện đại.
Sau đó ông trình
bày cái nhìn tương tự của Bà La Môn, của Phật Giáo, của Trung Hoa, của
Kinh Dịch, của Lão Giáo, của Zen.
Tiếp đến, ông cho
thấy những điểm tương đồng về Nhất thể, về Siêu xuất âm Dương, về Không
gian Thời gian, về Vũ trụ sinh động, về Sắc Không, về Vũ điệu vũ trụ
v.v...
Đại khái ông cho
rằng vũ trụ này là nhất thể. Chỉ nhìn thấy
mâu thuẫn là cái nhìn phiến diện. Không gian và thời gian là một, không
thể tách rời nhau. Vũ trụ này biến thiên, chuyển
động chứ không phải ù lì, chết chóc,
rời rạc. Sắc không là một; và tất cả chúng ta đều đang nhảy múa
trong một vũ điệu có lớp lang tiết tấu của vũ trụ; ông đi đến một cái
nhìn chung như vậy dĩ nhiên vì ông vừa là một nhà huyền học (Mystic) vừa
là một nhà khoa học.
Khi ông trình bày
vấn đề theo khoa học, thì có nhiều điểm ta có thể không bắt kịp. Nhưng
khi ông trình bày vấn đeọ theo huyền học và đạo giáo thì ta thấy rất là
sáng tỏ.
Trước hết, ông
nhận định rằng có hai cách hiểu biết: Một là hiểu
biết bằng trực giác (Intuitive consciousness), hai là hiểu biết bằng lý
trí (Rational consciousness).
Upanishads cũng
có hai loại hiểu biết: Hiểu biết cao (Higher knowledge) và hiểu biết
thấp (lower knowledge). Hiểu biết cao là hiểu biết về đạo giáo; hiểu
biết thấp là hiểu biết về khoa học.
Phật giáo cũng có
2 loại hiểu biết: Tuyệt đối và tương đối (absolute and relative
knowledge).
Theo ông, thì đạo
Lão và triết học Trung Hoa gọi Hiểu biết bằng trực giác là Hiểu biết
Dương, còn hiểu biết bằng lý trí thì gọi là Hiểu biết âm.
Hiểu biết bằng lý
trí là nhận định về đời sống thực tại với những sự việc xảy ra trong
kinh nghiệm và môi trường quanh ta. Lúc này ta dùng trí khôn để phân
tích, đo lường, so sánh, phân loại. Vì hiểu biết bằng lý trí bao giờ
cũng cần đo lường, phân loại và sắp xếp nên dĩ nhiên là sự hiểu biết này
rất bị giới hạn, như Heisenberg đã nói: Một từ ngữ nào, một khái niệm
nào, cho dù là trong sáng đến đâu cũng chỉ có tầm ứng dụng rất hạn chế.
Cho nên đạo gia Á
Châu dạy ta đừng nên cho những khái niệm đó là thực tại. Tuy ngón tay
cần để chỉ trăng, nhưng ngón tay không phải là trăng. Lờ để bắt cá, bẫy
để săn thỏ, nhưng khi đã bắt được cá, được thỏ rồi thì phải quên lờ, bẫy
đi.
Á Châu dạy ta đi
tìm Chân lý rốt ráo siêu xuất trên lý trí, trên ngũ quan, như
Upanishads đã nói: Cái gì vô thanh, vô hình, hằng cửu, vô xú, vô vị,
vô thủy vô chung, cao hơn mọi sự, bền vững nhất, ai mà tìm thấy nó sẽ
trở nên bất tử.
Tại sao, chỉ là
một con người, mà sao lại lắm loại chân lý như vậy?
Theo tôi vì Âu Châu đã có cái nhìn sai lạc về con
người. Không thể nói đựơc rằng con người chỉ có xác, có hồn mà phải nói
con người có đủ Tam Tài, Thiên, nhân, địa trong mình nghĩa là có Thần,
Khí, Tinh. Thiên hay Thần ở trong cùng, giữa là Nhân hay Khí, ngoài cùng
là Tinh hay Vật.
* Vì có Thần nên
con người mới có Tuệ giác, có trí Bát Nhã (Intuition), mới có được sự
hiểu biết cao siêu, mới có thể trở thành thần thánh. (Intuitive
Knowledge)
* Vì có Hồn nên
con người mới thích dùng Trí Khôn, Trí Lự (Intellect) mà đi tìm về khoa
học, triết học. (Rational knowledge)
* Vì có Xác nên
con người mới biết dùng ngũ quan (Sensory perception) mà tìm hiểu.
Tuy nhiên rất ít
người có được tuệ giác, được trí Bát nhã, nên đành dắm mắt tin theo
người đi trước.
Ravi Ravindra,
tác giả quyển Science and Spirit cho rằng xưa Hi lạp, ấn độ và
Công giáo đều tin rằng con người có 3 phần là Thần. Hồn, Xác. Thánh Paul
đã dùng 3 chữ Thần, Hồn, Xác trong một. Thessalonians, 5, 23.
Thần
là Đại Ngã trong ta, Hồn là Tiểu Ngã trong ta.
Tiểu ngã phải
nhường bước cho Đại Ngã, cho Thần như Đạo Lão đã nói Tâm tử Thần hoạt.
Cho nên Hồn mới là cái mà ta cần phải lưu tâm uốn nắn rũa mài. Chúa
Jesus nhiều lần cũng dạy phải diệt trừ Tiểu Ngã (Mat, 10, 39, Mc 8,
34–35; Luc 17, 33; 14, 36; Jn 12, 25). Bao nhiêu
câu kinh thánh này dạy Diệt trừ Tiểu Ngã, mà chữ Tiểu Ngã hay Hồn Kinh
Thánh Vulgate viết đúng là Anima hay Hồn, nhưng các bản dịch xưa
nay đều dịch âme hay Anima ở các đoạn này là Sự
sống. Thành thử câu văn trở nên vô nghĩa.
Giáo chủ Mohammed
cũng dạy phải chế ngự Tiểu Ngã, hay Hồn mình. ông nói: Chinh phục
ngoại cảnh không khó, chinh phục hồn mình mới là khó.
Ravi Ravindra cho
rằng Descartes là người đã coi Hồn và Thần là một,
Và gọi Hồn và Thần đều là Mind. (Science and Spirit,
Editor and Principal Author Ravi Ravindra, Paragon House, New York,
1991, p. 338–339)
Thế là con người
thay vì có ba phần đã bị Giáo Hội Công Giáo (Công đồng Latran IV (1215)
Vatican I (1869-1870), và Descartes (1546-1650) rút xuống còn có 2 phần.
Do đó mà những nhận định về con người trở nên sai chệch.
Cũng nên biết
rằng giáo hội La Mã không phân biệt Tiểu Ngã và Đại Ngã. Và
hiểu tu luyện là hành xác, phạt xác chứ không đụng
chạm gì đến cái hồn-tiểu ngã đầy thất tình, lục dục.
Capra mời chúng
ta đi vào khoa học vật lý cổ điển của Newton, của Laplace (Classical
Physics); vào vật lý học hiện đại (Modern physics) với những thay đổi
nhãn quan qua các thế hệ để đi từ Vật lý Nguyên tử (Atomic Physics) đến
Vật lý Lượng tử (Quantic physics) với cái nhìn hiện đại về vũ trụ. Thiết
tưởng chúng ta cũng nên có một vài khái niệm về vấn đề trên.
Trước hết Capra
cho rằng vào khoảng thế kỷ 6 trước C. N. Hi Lạp đã có Vật lý và hiểu Vật
lý là sự tìm hiểu về bản thể sự vật.
Thủa ấy, có
trường phái Milesian (Milesian School). Họ coi vạn vật đều sống động. Họ
chưa phân biệt tinh thần và vật chất.
Thales coi vạn
vật đầy thần minh.
Anaximander coi
vũ trụ như một cơ thể có linh
khí (pneuma) chuyển hóa bên trong.
Sau đó Heraclitus
(thế kỷ V) chủ trương vạn vật biến hóa vô cùng,
biến hóa do cặp ngẫu lực tương đối. Tương đối nhưng vẫn hòa hợp.
Và Logos xiêu xuất trên sự đối chọi đó. Chủ trương của Heraclite cũng
giống Thái Cực và Âm Dương trong kinh Dịch.
Tiếp đó là Trường
phái Eleatic cho rằng có vị thần linh đứng đầu vạn vật. Trưởng môn là
Parmenides và học trò ông là Zeno. Parmenides cho rằng vũ trụ này không
có biến thiên.
Rồi đến những
người chủ xướng ra thuyết Nguyên tử: đó là Leucippus và Democritus (thế
kỷ V). Họ coi thế giới này rốt ráo gồm những cục gạch đầu tiên (basic
building block). Đó là những phần tử chết, di chuyển trong chân không
(They were purely passive and intrinsically dead particles moving in the
void). Sức chuyển động chúng sau này được coi là năng lực tinh thần,
khác hẳn với vật chất. Và từ đấy Âu Châu mới phân biệt rõ về vật chất và
tinh thần, xác và hồn.
Và các Triết gia
cho rằng con người phải chú trọng đến đến đời sống siêu linh, đến hồn,
đến vấn đề luân lý, hơn là đến vật chất.
Từ đó với ảnh
hưởng của Aristotle và của Giáo hội La Mã, con người không tiến được nữa
trong vòng 2000 năm từ thế kỷ 5 trước Công Nguyên đến thời kỳ Phục hưng
hay Phục Sinh ở Âu Châu (thế kỷ 14--thế kỷ 15).
Mãi đến khoảng
giữa thế kỷ 15, Âu Châu mới bắt đầu đi vào con đường khoa học, mới biết
quan sát, thí nghiệm, mới biết dùng toán học hỗ trợ cho khoa học.
Galileo (1564–1624) được coi là cha đẻ của nền khoa học hiện đại.
Song song với sự
khai sinh của Khoa học và tiếp theo đó là sự phân tách đến triệt để giữa
tinh thần và vật chất. Sự tách biệt giữa tinh thần và vật chất xảy ra
vào khoảng thế kỷ XVII do ảnh hưởng Descartes. Descartes gọi Tinh thần
là cái suy tư (Res Cogitans) và vật chất là cái trải rộng ra (Res
Extensa). Vật chất là cái gì không sống động, và theo Descartes thì thế
giới này là những bộ phận của một máy móc khổng lồ. Isaac Newton
(1642–1727) cũng xây dựng Vật lý trên quan điểm này. Từ giữa thế kỷ XVII
đến cuối thế kỷ XIX, quan niệm của Newton coi vũ trụ này như một máy móc
lớn, hoàn toàn thống trị Âu Châu. Âu Châu coi Thượng đế như vị vua ngồi
trên cao, chỉ huy thế giới này bằng những định luật vĩnh cửu. Các định
luật mà các nhà bác học đi tìm chính là những định luật vĩnh cửu đó, mà
thế giới này phải tuân theo.
Triết học
Descartes cho đến nay vẫn còn có một tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống hằng
ngày. Cogito ergo sum, Tôi suy tư nên có tôi. Câu này đã khiến người Âu
Châu trở thành những Ngã riêng rẽ nằm trong thân xác. Như vậy tâm thần
đã hoàn toàn tách rời khỏi thân xác, và trí thức (the Conscious will)
đối nghịch với bản năng (Involuntary instincts). Rồi mỗi con người lại
còn được chia ra thành nhiều ngăn lớp khác tùy theo tài năng, ý thức,
tâm tư, tín ngưỡng mình v.v...và gây ra không biết bao nhiêu là va chạm
do những lẫn lộn và thất vọng về siêu hình.
Thế giới bên
ngoài cũng được phân thành vô số sự vật. Cái nhìn gẫy vụn này được áp
dụng vào xã hội và thế giới được chia thành nhiều nước, nhiều sắc dân,
đạo giáo, chính trị.
Sự tin tưởng rằng
những mảnh vụn đó -- trong ta, quanh ta, trong xã hội ta -- là có thật,
có thể được coi là nguyên nhân gây ra muôn điều bất ổn trong xã hội,
trong môi trường và trong xã hội hiện nay. Sự phân tách, chặt cắt này đã
làm ta xa rời vạn hữu, xa rời con người. Nó đã đem đến sự phân phát bất
công về tài sản, đã gây nên mọi thảm họa chính trị và kinh tế, gây nên
những cao trào bạo động, gây nên những ô nhiễm ngoại cảnh và làm cho đời
sống tinh thần và thể chất ta thêm bệnh hoạn.
Như vậy, sự phân
tích và cái thế giới máy móc của Descartes vừa có hại vừa có lợi. Nó lợi
cho khoa học cho máy móc nhưng hại cho nền văn minh chúng ta.
Cái hay nhất là khoa học thế kỷ 20 này là tuy nó sinh ra từ cái nhìn
lưỡng đoạn và từ cái thế giới máy móc của Descartes, đã bỏ được cái nhìn
trên và trở về được với quan niệm nhất thể của các Đạo gia Ái Châu.
Các Đạo Gia Á
Châu coi vũ trụ như là một vật sống động. Và vạn vật vạn sự mà ngũ quan
thấy được như là muôn loài muôn sự, thật ra là vẫn liên kết, gắn bó với
nhau, liên hệ với nhau và chỉ là những biến hoá của một thực thể duy
nhất
.
Sở dĩ con người
không có cái nhìn như vậy là vì u mê (Avidya) mà thôi.
Mã Minh đại sĩ
nói: «Khi tâm loạn sẽ thấy vũ trụ là vạn hữu; nhưng khi tâm mà tịnh
thì sẽ không còn thấy thế nữa.»
Sự chuyển động
biến hóa là đặc điểm cố hữu của sự vật, nên cái sức chuyển hóa đó không
thể ở ngoài các vật mà thật đã ở trong lòng mọi vật. Chính vì vậy mà các
Đạo Gia Á Châu, khác với các triết gia Hi Lạp, đã chủ trương rằng Thượng
đế không phải giám sát hồng trần từ trên trời cao mà thực ra đã ở ngay
trong lòng con người.
Upanishads
chủ trương:
Đấng ngự
trong vạn hữu, nhưng không phải là vạn hữu. Tuy vạn hữu là xác thân Ngài
nhưng vạn hữu không hề hay biết. Đấng đó chỉ huy muôn loài từ bên trong.
Ngài là Hồn bạn, Đấng bất tử, đấng chỉ huy từ bên trong.
Frifjop Capra
chứng minh rằng cái nhìn của các Đạo Gia và khoa học gia hiện đại về vũ
trụ là một. Cả hai đều chủ trương vũ trụ này là nhất thể và hỗ tương ảnh
hưỡng đến nhau. Càng đi sâu vào lòng vũ trụ, khoa học càng thấy vũ trụ
là nhất thể hỗ tương ảnh hưởng đến nhau, và người quan sát cũng không
thoát ra ngoài hệ thống đó được.
Chúng ta hãy cùng
Fritjop Capra đi sâu vào khoa học hơn, Ta sẽ sánh vật lý cổ điển của
Newton với Vật lý hiện đại.
Vật lý học Newton
Trước khi vật lý
học hiện đại ra đời, thì có Vật lý học Newton. Vật lý Newton là vật lý 3
chiều. Newton chấp nhận không gian là tuyệt đối, thời gian là tuyệt đối,
và vận chuyển từ quá khứ, đến hiện tại, đến tương lai. Trong không gian
và thời gian tuyệt đối đó có những phân tử vật chất chuyển vận. Vật chất
được coi như là những khối nhỏ (Mass points), rắn chắc, bền vững, không
thể phá tán. Như vậy quan điểm Newton về Nguyên Tử cũng giống Hi Lạp. Cả
hai cũng đều phân biệt cái Có và cái Không (the Full and the Void), vật
chất và không gian. Vật chất có hình thù cố định. Vật chất bao giờ cũng
thụ động. Newton khác với Democritus ở chỗ là Newton tin rằng giữa các
phân tử có một năng lực hoạt động trên nó, mà nay ta gọi là sức hấp dẫn.
Và Thượng đế đã làm cho thế giới này chuyển động, như một cái máy khổng
lồ được chi phối bằng những định luật bất biến.
Vật lý Newton dựa
trên sự vận chuyển của các hành tinh. ông cũng như Laplace (1749-1827),
tin rằng mọi sự là tất định, và có thể dùng toán học mà tính ra được
hết.
Tóm lại, Vật lý
học Newton có 4 đăc điểm là:
1.
Vật chất là thực thể (vì tin rằng nguyên tử
là cái gì bền vững, có thật),
2.
Mọi sự đều tất định, đều có thể dùng toán
học mà tính ra được hết,
3.
Khoa học là khách quan,
4.
Vạn vật đều phân cách, riêng rẽ nhau.
Tuy nhiên cái
nhìn của Newton đã bị sụp đổ từ khi Michael Faraday (1791–1867) và Clerk
Maxwell (1831–1879) tìm ra được Từ Điện Học (Electromagnetism) và Từ
trường. Newton chỉ biết có Sức (force) chứ không biết gì là Trường
(field). Thế là Vật Lý Newton đã bị Điện từ học (Electromagnetism) vượt
qua mặt.
Tiếp theo là nhân
loại biết thêm về Điện động học (Electrodynamics).
Và người ta khám
phá ra rằng ánh sáng cũng có từ trường, từ điện và vượt không gian bằng
những Làn sóng.
Rồi người ta thấy
rằng Truyền thanh, Radar, Ánh Sáng, Tia Quang Tuyến X, tia Gamma, Vũ trụ
tuyến đều là những làn sóng. Điều mà Newton không hề biết tới.
Thế là cho đến
đầu thế kỷ XX, người ta có 2 lối giải thích vũ trụ: Một là lối giải
thích theo Newton, hai là lối giải thích theo Điện động lực học
(Electrodynamics).
Khoa học hiện đại
Ba chục năm đầu
thế kỷ XX, đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn của Vật lý. Người ta tìm ra
được Thuyết
tương đối, và
Vật lý
nguyên tử.
Hai sự kiện này đã phá tan nhãn quan của Newton.
Ngày nay không
còn không gian và thời gian tuyệt đối nữa, không còn có những hạt nguyên
tử riêng rẽ nữa, không còn nói được rằng vật chất hữu hình được khiên
dẫn bằng những nguyên nhân cố định, không còn nói được rằng có thể biết
thế giới một cách khách quan. Vật lý học mới không chấp nhận cái nhìn
trên nữa.
Người có công xây
dựng Vật lý học mới là Albert Einstein (1879–1955). Einstein đưa ra
thuyết Tương đối (Theory of Relativity), và đóng góp vào thuyết lượng tử
(Quantum Theory). Năm 1905, Einstein đưa ra thuyết Tương đối hẹp
(Special theory of Relativity) hợp nhất khoa Cơ Học (Mechanics), và khoa
Điện động lực học (Electrodynamics). ông cũng còn gắn liền thời gian với
không gian, coi thời gian là chiều kích thứ tư của vũ trụ. Einstein cho
rằng vạn sự tùy theo sự đo lường của mỗi người trở nên khác nhau.
Einstein còn cho rằng vật chất là năng lực, theo phương trình E=mc2.
Năm 1915 ông đưa ra thuyết Tương đối rộng (General Theory of
Relativity), và chủ trương sức hấp dẫn có thể làm cong không gian và
thời gian. Như vậy từ nay không còn không gian và thời gian tuyệt đối
của Newton nữa. Từ nay cũng không còn không gian trống rỗng nữa (Empty
space).
Hai bác học tiền
phong khác có công xây dựng khoa Vật lý học lượng tử là Werner
Heisenberg với học thuyết Matrix Mechanics mà ông phát minh ra năm 1925,
và Erwin Schrödinger với học thuyết Wave mechanics của ông. Rồi người ta
tìm ra được quang tuyến X, tìm ra được các chất phóng xạ (Radioactive
substance) và thấy rằng nguyên tử có thể biến hình, và vật chất có thế
thay hình đổi dạng được. Người ta thấy Nguyên tử còn sinh ra được các
tia Alpha, Beta, Gamma. Ernest Rutherford (1871–1927) đã dùng tia Alpha
để bắn phá trong lòng sâu nguyên tử.
Sau đó lại khám
phá thêm rằng nguyên tử được sắp xếp như những hành tinh, và người ta
tìm ra được các định luật về hóa học dựa trên vật lý nguyên tử.
Năm 1920 nhiều
khoa học gia góp sức để tìm ra các định luật đó như Niels Bohr người Đan
Mạch, Louis de Broglie người Pháp, Erwin Schrödinger và Wolfgang người
Áo, Paul Dirac người Anh, Werner Heisenberg người Đức đã chung sức nhau
để tìm ra những định luật trên. Các nhà khoa học trên thấy càng đi vào
lòng vật chất càng thấy vạn vật khó hiểu, và mâu thuẫn. Tại sao ánh sáng
lại vừa là phân tử vừa là ba động. Max Planck (1858–1947) nhận ra rằng
sức nóng chẳng hạn không phả ra đồng đều nhưng từng đợt, mà ông gọi là
những túi Năng lực (Energy packets). Einstein gọi túi năng lực đó là
quantum. Einstein còn cho rằng không cứ gì là ánh sáng mà tất cả điện từ
cũng đều phả năng lực ra như vậy. Thế là chúng ta bắt đầu đi vào Vật Lý
Lượng tử (Quantum Physics). Chúng ta không biết chắc bao giờ Ánh Sáng là
phân tử và khi nào nó là ba động, chỉ đoán chừng được mà thôi. Đó là
Nguyên lý bất định của Heisenberg
.
Vật lý lượng tử
như vậy đã phá tan nhãn quan của Newton, và không còn có những vật cứng
cố định, những định luật tất định nữa. Đi vào lòng vũ trụ, lòng vật
chất, nay chỉ còn thấy những ba động, sự vật tương liên tương ứng lẫn
nhau mà thôi. Thuyết lượng tử cho ta thấy bản chất vũ trụ là một, và
không còn có những nguyên tử cố định, những viên gạch căn bản xây nên vũ
trụ. Xưa người ta tưởng Nguyên tử là nhỏ nhất. Té ra không phải vậy.
Nguyên tử còn có Proton, Positron, Electron. Meson, Baryon v.v...
Năm 1935, người
ta tưởng Nguyên tử chỉ có sáu tiểu nguyên tử, đến năm 1955 người ta tìm
ra được 15 tiểu nguyên tử, nay ta đã tìm ra được hơn 200 rồi.
Như vậy trong Vật
lý hiện đại, vũ trụ này được coi là cái gì linh động, là cái gì toàn
khối, toàn bích, và người quan sát không tách mình ra ngoài nó được. Từ
nay không còn không gian, thời gian riêng rẽ, không còn sự vật riêng rẽ.
Cái nhìn trên rất giống cái nhìn của các Đạo gia Á Châu. Sau khi chứng
minh đại loại như vậy rồi, ta đã thấy Capra đi vào chi tiết để chứng
minh.
Tóm lại, vật lý
học lượng tử chủ trương hoàn toàn ngược lại với Vật lý cổ điển Newton.
Nó chủ trương:
1. Không làm gì
có những nguyên tử vững chắc cố định, mà nay chỉ còn có những ba động có
thể xảy ra.
2. Không có những
định luật tất định như trong Vật lý Newton, nhưng trong thế giới Vật lý
lương tử, vẫn có tự do.
3. Không làm gì
có thế giới khách quan không cần đến người quan sát. Nhưng trong vật lý
lượng tử, vật bị quan sát bao giờ cũng liên quan đến người quan sát.
4. Cái thế giới
vạn thù của Newton đã bị vượt qua, và trong vật lý lượng tử, tất cả đều
là một.
5. Vật lý học
Newton, chỉ có giá trị cho cái thế giới hình tướng bên ngoài. Còn vật lý
lượng tử thì đi sâu vào lòng nguyên tử, lòng vật chất.
Như vậy, Vật lý
học Newton nhìn thấy Vạn, và đã đi từ Nhất đến Vạn, Còn Vật lý Lượng tử
nhìn thấy Nhất, và đã đi từ Vạn về Nhất. Nhìn thấy Vạn thời ai cũng làm
được, nhưng nhìn thấy Nhất xưa nay thực không mấy ai.
Về phía Đạo Giáo chỉ có một số Đạo Gia
thượng thặng mới nhìn thấy Nhất.
Về
phía Khoa Học gia,
ta thấy phải có nhiều người hợp lại mới tìm ra được Nhất. Ta thấy chỉ có
một số khoa học gia thượng thặng như Einstein, Max Plank, Werner
Heisenberg, Schrödinger, Rutherford, Niels Bohr, Louis De Broglie,
Eugene Wigner, Fritjof Capra v.v... mới làm nổi chuyện này. Werner
Heisenberg khi quyết tâm từ giã Vật Lý Newton để đi tìm con đường vào
khoa Vật lý lượng tử đã ví mình như Kha Luân Bố đi tìm Tân Thế Giới. ông
viết đại khái rằng: Cái hay của Kha Luân Bố chính là vì đã dám rời bỏ
vùng mình đã biết, và giương buồm tiến về phía Tây, vượt xa điểm mà
lương thực đã dự trữ để đủ trở về. Đối với với Khoa học cũng vậy, nếu
muốn tìm ra đất mới, thì không thể nào cứ mãi ở yên trong bến bờ của
những học thuyết sẵn có mà phải chịu liều vọt bước ra đi.
Tôi thấy Capra
hợp nhất được khoa học và đạo học không phải là công lao nhỏ. Nó có thể
giúp cho nhiều học giả tới nay chưa có lập trường sẽ hồi tâm chuyển
hướng.
Vạn vật là một đã
được Eckhart xác định. Eckhart viết: Mọi cái mà con người thấy như là
Vạn thù bên ngoài, thật ra chỉ là một. ở đây, cọng cỏ, gỗ, đá mọi sự đều
là một. Đó là cái gì thâm sâu nhất.
Thảo nào mà Dịch
kinh từ mấy nghìn năm nay đã nói âm Dương tương thôi nhi sinh biến hóa.
Và âm Dương luôn biến từ cái này sang cái kia, không có gì là cố định:
rốt ráo chỉ còn có Hư Vô, Không Tịch.
Niels Bohr đã
nhận Hình Thái cực làm phù hiệu của ông, và công nhận rằng Contraria
sunt complementaria (Opposites are complementary), tức là không có gì là
mâu thuẫn nhau cả.
Tuy khoa học đã
tìm ra được rằng vạn vật là nhất thể, như không biết được rằng nhất thể
đó là gì. Ngược lại các đạo gia đã thấy rằng nhất thể đó là Thực tại tối
hậu (Ultimate Reality). Người thì gọi đó là Brahman, là Chân Như, là
Pháp Thân, và Đạo, là Trời. Eckhart gọi đó là Thần của Hồn (The Spirit
of the Soul); Hugh of St. Victor gọi là Mũi nhọn tâm hồn (Acumen
mentis), Thánh Teresa of Avila gọi đó là Tâm Điểm linh hồn (Center of
the Soul); thánh Jerome gọi đó là Tàn lửa linh hồn (Spark of the Soul);
Upanishads gọi đó là Atman (Thou art that; it is Atman (Self) which is
Brahman. Ấn Độ cũng còn gọi đó là Khí Prana, hay Purusha, hay Atman hay
Brahman v.v... Như vậy Prana cũng tương đương với chữ Thần (Spirit, hay
Pneuma). Tuy nhiên các đạo gia đều đồng thanh cho rằng cái thực tại tối
hậu ấy hay con người tối hậu ấy, ta phải tìm cho ra ngay trong tâm thần
của ta, bằng Thiền định, bằng Yoga hay bằng Kundalini. Phương tiện không
quan trọng. Điều quan trọng là cái hiểu biết rốt ráo của mình.
Ta phải biết
chúng ta ai cũng có 2 phần:
Một phần hằng
cửu, bất biến. Đó là Bản thể chúng ta (Noumenon, Essence).
Một phần là biến
thiên, vô thường, vô định. Đó là tất cả những hiện tượng biến thiên
trong ta (Phenomenon, Accidents). Bản thể vĩnh cửu là Niết bàn. Ảo hóa
biến thiên là Luân hồi, sinh tử.
Chúng ta phải
biết dùng đời chúng ta, dùng mọi khả năng biến hóa cúa chúng ta, để mà
thoát khỏi vòng luân hồi ảo ảnh, để mà tìm lại được Chân Nguyên, Chân
thể của Chúng ta, đó là Đạo, là Trời. Ta có thể gọi đó là Phối thiên
(Mystical Union with God), là đạt đạo Yoga (Finding Yoga), là đắc Đạo
(Finding the Tao), hay Giác Ngộ (Enlightenment, hay Self-Realisation).
Trong dĩ vãng đã có vô số người lên tới trình độ này.
Mới hay ta sinh
ra đời không phải là vô mục đích. Rõ ràng là ta phải biết dùng đời ta để
biến thiên, tiến hóa. Chúng ta là những con người Biến Thiên (Becoming)
và Tiến Hóa. Gopi Krishna nói: Chúng ta, bạn cũng như tôi, chúng ta phải
tiến để thực hiện chân ngã chúng ta, để cho tâm hồn ta nhận ra được và
thực hiện được bản thể thần minh của chúng ta...
Ước gì chúng ta
kẻ trước người sau đều bước được vào con đường này. Đó là bổn phận của
mỗi người chúng ta. Không làm được nó kiếp này, sẽ làm trong các kiếp
sau.
Tôi nhớ lời Kinh
Upanishads:
Từ ảo
ảnh xin đưa tôi về thực tại,
Từ tối
tăm xin đưa tôi về ánh sáng,
Từ tử vong,
xin đưa tôi về bất tử.
Đó cũng chính là
nguyện vọng của tôi và của cuốn sách nhỏ bé này.
CHÚ THÍCH
Fritjof
Capra, The Tao of Physics, Bantam Books, 1984, Preface to the
first edition, p. XIX.
The basic
oneness of the universe is not only the central characteristic of the
mystical experience, but also one of the most important revelations of
modern physics. It becomes apparent at the atomic level and manifests
itself more and more as one penetrates deeper into matter, down to the
realm of subatomic particles... -- The Tao of the Physics,
p. 117.
The unity
of all things and events will be a recurring theme throughout our
comparison of modern physics and Eastern philosophy. -- The Tao
of Physics, p. 117–118.
Every word
or concept, clear as it may seem to be, has only a limited range of
applicability. -- The Tao of Physics, p. 15.
What is
soundless, touchless, formless, imperishable, Likewise tasteless,
constant, odorless, Without beginning, without end, higher than the
great, stable – By discerning That, one is liberated from the mouth of
death. (Katha Upa. 3, 15.) The Tao of Physics, p. 76.
(The
little holy war is a war against the infidels, buy the great holy war is
the war against one's own soul.) -- Ravi Ravindra, Science and Spirit,
Paragon House, New York, 1991, p. 338.
Gradually
over the centuries this three-fold division shrank into a two-fold 0ne:
spirit and nature. In Western thought, the coup de grâce was dealt by
Descartes who explicitly identified Spirit with Soul and both with the
Mind. Since his time, in the Western world, Soul is in general regarded
more or less as completly spiritual, as contrasted with natural.
In India also, a partial shrinkage of the
three–fold division into a two–fold one took place. However, there, in
general, Psyche (soul) has been considered to lie in the realm of
matter, and therefore subject to the laws of material nature and
amenable to natural scientific inquiry. The psychic functions, such as
thoughts and feelings, and the psychic phenomena including the so–called
paranormal ones, are in the realm of prakriti (nature) that is to say,
they are in the domain of materiality and causality. — Ib. p. 339.
The
endeavor of seeing the essential nature of all things. -- The Tao of
Physics p. 6.
For the
Eastern mystics, all things and events perceived by the senses are
interrelated, connected, and are but different aspects of the same
ultimate reality. -- Fritjof Capra, The Tao of the Physics,
Bantam Books, 1984, p. 10.
When the
mind is disturbed, the multiplicity of things is produced, but when the
mind is quieted, the multiplicity of things disappears. — Ib. page 10.
He
who, dwelling in all things,
Yet is other than all things,
Whom all things do not know,
Whose body all things are,
Who controls all things from within –
He is your Soul, the Inner Controller,
The Immortal.
Brihad-aranyaka Upanishad, 3,7.15.
We have
pierced completely through the illusion of Newton's world, and have
discovered the strange and wonderful world of the quantum, a world that
is right here and now, veiled beneath the apparent reality of matter,
determinism, naive objectivity, and separation. The world is not made of
hard matter. The world does not
strictly follow deterministic laws. The world is not just a collection
of separate parts. The world does not exist as a collection of objective
entities, independent of observers. No the world is not what we have
thought it to be after all...
Consciousness and Quantum Mechanics,
Thomas j. McFarlane, 1998, trich ra từ Internet, tr. 18.
Principle
of uncertainty: It means that, in the subatomic world, we can never know
both the position and momentum of a particle with great accuracy. --
Fritjof Capra, The Tao of the Physics, Bantam books, 1988, p, 143
What has
the quantum realm revealed beneath the illusion of Newton's universe?
That atomic matter, supposedly the ultimate immutable substance,
dissolves into waves of potential existence.
that
determinism, which rigidly governed Newton's universe like a cosmic
machine, falls apart, giving us a world with spontaneity.
That the
objective world, existing «out there» independent of observers,
vanishes, leaving a world in which the observer and the observed are
interdependent.
That the
manifold world of separate independent objects interacting within space
and time is transcended, revealing a realm where all things unite in an
indivisible whole.
Newton's
laws united the motion of object in heaven and earth – both the moon and
the apple moved according to the same laws he discovered. So in this
grand vision, everything could be reduced to the lawful motion of
atoms....
But as the 20th century drew closer, and
classical physics extended its investigations into the small world of
those fundamental atoms, nature began to defy explanation. The results
no longer agreed with the predictions...
Consciousness with Quantum Mechanics,
Thomas J. McFarlane, 1988, From Internet, p, 4, and p. 3.
This, I
believe, is the purpose for which you and I here – to realize
ourselves... to bring the soul to a clear realization of its own divine
nature.
The Meeting of Science and Spirit,
John White, Paragon house, New York, 1990, p, 126.
From
the unreal lead me to the real,
From darkness lead me to light,
From death lead me to immortality.
(Brihad-aranyaka–Upanishad)
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
|