THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
Chương 15
KHỔNG GIÁO VỚI
THUYẾT THIÊN
ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Đạo Khổng là một
đạo rất hay, chỉ tiếc là khó hiểu, nhưng nếu ta mất công sưu tầm, sẽ tìm
ra mạch lạc của nó.
Chỗ cao siêu của
Đạo, Đức Khổng không phải bất kỳ ai cũng truyền, mà chỉ truyền cho người
có căn cơ, như Nhan Hồi.
Tử Cống than: «Văn
chương Thầy ta thì chúng ta đều được nghe. Còn về Bổn Tánh và Thiên Đạo,
thì chúng ta chẳng được nghe Thầy ta dạy.»
(Luận Ngữ, 5, 12)
Ngài nói:
«Ngô
Đạo, Nhất dĩ quán chi.»
(L.N. chương IV, câu 15): Đạo ta, có thể thâu tóm bằng chữ Nhất. Như
vậy, Nhất đây là thuyết: Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể.
Khi bình về Học
Thuyết Khổng Tử, cụ Trần Trọng Kim đã viết:
«Khổng
Tử là một bậc thượng trí. Ngài nghĩ ngợi mà suy xét mọi việc rồi mới
phát minh ra cái học thuyết, chủ lấy sự theo Thiên Lý làm căn bản. Ngài
cho là trời đất và vạn vật đều có cái Lý ấy cả, TẤT CẢ ĐỒNG CÙNG MỘT
THỂ, cho nên Ngài mới lấy chủ nghĩa THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ làm thống
hệ cho học thuyết của mình. Cái lý ấy là cái Nguyên Nhân của sự sinh hoá
trong vũ trụ... Cái lý vô hình ấy... gọi là Thái Cực.»
(Nho Giáo, Trần Trọng Kim, q.1, tr. 68)
Khảo Khổng Giáo,
ta thấy Thái Cực, Nhất, Trung, Thiên Lý, Thiên
Đạo, Thiên Tâm, hay Tính đều là một.
Qui Nguyên Trực
Chỉ, một quyển sách cổ từ thời nhà Tống có chủ trương Tam Giáo đồng
nguyên, nơi chương 26 có viết: Cái Chân Như Bản Tánh mà mỗi người đều có
sẵn trước khi được cha mẹ mình sinh, nó là một cái Thể chân thiệt, không
dối trá, gọi là Bổn Lai Diện Mục. Thiền Tông
thì gọi nó là Chánh Pháp
Nhãn Tạng. Liên Tông thì gọi nó là
Bổn Tánh Di Đà. Đức Khổng thì gọi nó là
Thiên Lý. Đức Lão Tử thì gọi nó là
Cốc Thần.
Dịch thì gọi nó là
Thái Cực. Mỗi nơi kêu tên một
khác, kỳ thiệt nó vẫn là một Chân Như Bản
Tánh vậy. (Qui Nguyên Trực Chỉ, Đỗ
Thiếu Lăng dịch, ch.26, tr, 339)
Cho thấy cái
chốt, cái căn bản của Khổng Giáo chính là Thái
Cực.
Luận Ngữ viết:
Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sinh. (Luận
Ngữ, ch. I, câu 2). Người quân tử chuyên lo CỘI GỐC. GỐC có vững, đạo lý
mới sinh ra.
Vụ bổn như vậy là
trọng gốc, là lưu tâm, lưu ý đến căn bản vũ trụ, quần sinh; là lưu tâm,
lưu ý đến những vấn đề hệ trọng quan thiết đến vận mạng con người; là
suy khảo về nguyên lý vũ trụ, quần sinh, về bản tính, về chân đạo, chân
lý.
Cái gì là căn bản vũ trụ quần sinh?
Khổng giáo xưa
nay vẫn chấp nhận rằng: Thái Cực hay Trời là căn bản vũ trụ, quần sinh.
Đại Đỗng Chân
Kinh,
một sách của Đạo Lão viết:
Muốn tìm căn bản,
phải tìm nơi Thái Cực (Căn bản do lai Thái Cực tầm. - Đại Đỗng chân
kinh, tr. 4b). Hệ từ viết: Dịch hữu Thái cực. Thị sinh Lưỡng
Nghi, Lưỡng Nghi sinh tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái (Dịch: Hệ Từ
thượng)
Dịch Kinh Đại
Toàn
cũng có một bài thơ, trong đó có câu:
Tu tri
nhất bản sinh song cán,
Thủy tín
thiên nhi dữ vạn tôn.
Dịch:
Có hay một gốc đôi cành rẽ,
Mới thấy nghìn con, vạn cháu
đông.
Một gốc là Thái
Cực. Đôi cành là Âm Dương.
Gốc hay Thái Cực
thời trường tồn, bất biến.
Âm Dương thời hư
ảo, biến thiên.
Trang Tử viết
trong Nam Hoa Kinh như sau: Hư Tĩnh, Điềm Đạm, Tịch Mạc, Vô Vi ấy
chính là Gốc sinh ra vạn vật. Hiểu điều đó, nên Nghiêu làm vua thiên hạ,
Thuấn trở nên hiền thần; ở ngôi trên, áp dụng được nó, nên đế vương,
thiên tử; ở cấp dưới, áp dụng được nó, trở nên huyền thánh, tố vương. (Nam
Hoa Kinh, Thiên Đạo XIII, A).
Nhìn sang Triết
Học ấn Độ, ta thấy sách Áo Nghĩa Thư cũng có chủ trương tương tự.
Shri Aurobindo
toát lược Áo Nghĩa Thư đại khái như sau:
Áo Nghĩa Thư
muốn lập căn bản vũ trụ quần sinh và đưa ra quan niệm Thực Thể duy nhất,
bất biến, lồng trong mọi tạp thù, biến ảo, và là chủ chốt chi phối vũ
trụ hình tướng, biến dịch bên ngoài.
Áo Nghĩa Thư
cho rằng: hai phương diện biến hằng của vũ trụ quần sinh, đều bao hàm
trong những trạng thái động tĩnh của Brahman, Thực thể duy nhất, bất khả
phân, và căn cơ của vũ trụ. Theo Áo Nghĩa Thư, Thực Thể duy nhất
ấy thể hiện và hiển dương trong thế giới chuyển dịch và hình tướng này,
qua trung gian những lớp lang, tiết tấu, những giai đoạn, những trình
độ, những thời kỳ khác nhau.
Sự biến thiên,
chuyển dịch cốt là để thực hiện lại Duy Nhất, cốt là để cho quần sinh
phối hợp được với Duy Nhất. (Shri Aurobindo, Trois Upanishads, p. 20 and
ss.)
Tư Mã Thiên tóm
tắt niềm tín ngưỡng tự nhiên của nhân loại bằng những lời lẽ mộc mạc sau
đây: Trời là thủy tổ của con người, cha mẹ là gốc gác của con người.
Người ta khi cùng khổ sẽ quay về nguồn, về gốc, cho nên khi khổ sở, lao
lung, cùng cực thời thường kêu Trời, thời thường kêu cha mẹ.
(Traduction Couvreur, Annales de la Chine, p. 110)
Đức Khổng cũng
tin rằng Trời là gốc gác muôn vật, quần sinh, gốc gác con người, nên
muốn hiểu con người, trước phải biết Trời, vì Trời là gốc, mà con người
là cành, là ngọn. Trung Dung viết:
Tư tri nhân, bất
khả bất tri Thiên.
Dịch:
Biết
Người, trước phải biết Trời,
Hiểu
Trời chẳng nổi, hiểu Người làm sao?
(Trung Dung ch. XX)
Những người vụ
bản còn là những con người đi sâu được vào tầng lớp làm căn cơ, cốt cách
con người, tìm ra được ĐẠO được TRỜI ở đáy lòng.
Ngày nay, người
ta gọi những người đó là những người có "tâm
địa ban sơ” (mentalité archaique),
nghĩa là những tâm hồn sống kề cận với căn bản, với cốt cách con người (Arche).
Đó là những con người hãy còn hồn nhiên, toàn vẹn, chưa bị pha phôi bởi
vọng niệm, tư tâm, kiến văn, kiến thức. Nói
thế, tức là con người vụ bản đi sâu được vào Vô thức.
Vô thức
đây không phải là thứ Tiềm
thức hời hợt của Freud, chơi vơi giữa óc
não và nhân tâm, nhưng Vô
Thức đây chính là Vô
Thức Đại
Đồng của Jung, là Toàn
Nhất của Hartmann, là
Tự thể của Kant, là
Tuyệt Đối
của Schelling, hay Bản
Tính của Carus.
Đức Khổng gọi cái
Vô Thức ấy là Tính
(Trung Dung, I), Thiên Mệnh (Trung
Dung, I), là Mệnh (Luận Ngữ XX,
3), là Đạo (Trung Dung I), là
Thành (Trung Dung XX, XXI), là
Minh Đức (Đại Học, I), và suy luận
ra rằng ý thức hay nhân tâm không phải là chủ trong con người, ngược lại
chúng phải khuôn theo, thuận theo Vô Thức, thuận theo Thiên Tính để tiến
tới hoàn thiện. Tìm ra được căn cơ, cốt cách, bản tính con người, tức là
tìm thấy Đạo, thấy Trời trong tâm khảm mình.
Ngô Thảo Lư viết:
Đạo, Lý, Thành, Thiên, Đế, Thần, Mệnh, Tính, Đức, Nhân, Thái Cực, lời
tuy có khác, nhưng ý chỉ có một (Tống Nguyên học án, q. 12, tr.
8).
Chính vì thế mà Mạnh Tử
viết:
Thấu
triệt lòng, sẽ hay biết Tính,
Hay biết
Tính, nhất định biết Trời,
Tồn Tâm,
dưỡng Tính chẳng rời,
Ấy là
giữ Đạo thờ Trời chẳng sai...
(Mạnh Tử, Tận tâm chương cú
thượng I).
Đại Học
viết:
Đại Học
có mục phiêu rõ rệt,
Đuốc
Lương Tâm cương quyết phát huy,
Dạy dân
lối sống tân kỳ,
Chưa nơi
hoàn thiện, còn đi chưa ngừng.
Có mục
phiêu rồi lòng sẽ định,
Lòng
định rồi, nhẹ gánh lo toan
Hết lo,
lòng sẽ bình an,
Bình an,
tâm trí rộng đường xét suy.
Suy xét
rộng, tinh vi thấu trọn,
Thấu sự
đời, ngành ngọn đầu đuôi,
Trước
sau đã rõ khúc nhôi,
Thế là
gần Đạo, gần Trời còn chi.
Đã nói rằng Trời
là căn cơ, gốc gác con người, thì con người chẳng thể lìa xa được khỏi
Trời, dù là một phút giây, vì cành làm sao lìa khỏi gốc được? Vì thế
Trung Dung viết: Đạo bất khả tu du li dã.
Quan niệm này đem
so với quan niệm của các nhà minh triết ấn Độ, ta thấy giống nhau hoàn
toàn.
Katha Upanishad viết:
Chân Tâm
chủ tể muôn loài,
Thể thời
duy nhất, Hình thời ngàn muôn.
Biết
Ngài ngự giữa tâm hồn,
Mới mong
hạnh phúc trường tồn, vô chung,
Biết
Ngài bất biến thung dung,
Lồng
trong trời đất lao lung chuyển vần.
Biết
Thần ngự giữa chúng Thần,
Biết
Ngài duy nhất giữa quần sinh ban,
Bao
nhieốu mơ ước chứa chan,
Biết
Ngài phân phát cho toàn sinh linh.
Biết
Ngài ngự giữa lòng mình,
Mới mong
hạnh phúc siêu sinh trường tồn.
(Ketha Up. 5, 14. – Prasna
6, 5 – Brih. 4, 4 – 1–2)
Vì thế mà Kinh Thi mới viết:
Chái Tây
Bắc, góc nhà thanh vắng,
Đừng làm
chi đáng để hổ ngươi.
Đừng
rằng tăm tối chơi vơi,
Đừng
rằng tăm tối, ai người thấy ta.
Thần
giáng lâm ai mà hay biết,
Nên dám
đâu khinh miệt, dể ngươi?
(Mao Thi, Đại Nhã, ức Thiên)
Quan niệm trên
cũng đã được Trung Dung nhắc lại nơi chương XVI.
Đức Khổng vì đã
tìm ra được Trời, được Đạo tàng ẩn trong tâm khảm mình, nên đã sống một
cuộc đời đạo hạnh chân thực, nghĩa là sống phối kết với Trời.
Trung Dung
gọi thế là Phối Thiên (Trung Dung,
ch. XXVI)
Thomas Mann gần
đây cũng cho rằng đạo hạnh chân thực chính là sống phối kết với bản
thể (L'Homme se sente directement branché sur le mystère profond de
l'être.) (Critique, mars, 1961. No 166, p. 218).
Ngoài ra, Đức
Khổng còn cho rằng mọi lề luật chi phối con người và quần sinh vũ trụ
đều đã được ghi tạc ngay trong lòng con người, trong lòng quần sinh, vạn
hữu.
Trung Dung
(ch. XXII) viết:
Đạo luôn
gần gũi người đời,
Những ai
lập đạo xa rời chúng nhân,
Hiếu kỳ,
lập dị là nhầm.
Kinh Thi viết:
Trời
sinh ra khắp muôn dân,
Vật nào
phép nấy định phân rành rành.
Lòng dân
sẵn có căn lành,
Nên ưa
những cái tinh thành, tốt tươi.
(Kinh Thi, Chưng Dân).
Chính vì lĩnh hội
được cái chân đạo ấy, mà Đức Khổng không câu nệ về những hình thức cầu
đảo bên ngoài.
Khi Ngài đau, Tử
Lộ khuyên Ngài nên cầu đảo. Ngài trả lời: Ta cầu
đảo từ lâu rồi. (Luận Ngữ, VII, 30). Yị Ngài muốn nói: tuy
không cầu đảo theo thói thông thường, nhưng thực ra đời Ngài đã là cả
một bài kinh nguyện trường thiên, vì luôn sống phối kết với Thượng Đế.
Ngài khuyên mọi
người nên học cho nhiều để tìm cho ra cốt cách, căn cơ của mình, tìm cho
ra Trời, ra Đạo ở nơi tâm khảm mình, và cho rằng đó là điều kiện thiết
yếu để sống cuộc đời đạo hạnh, chân thực.
Đại Học
viết:
Muốn đức
sáng truyền đi thiên hạ,
Người
xưa lo cải hóa dân mình.
Trị dân
trước trị gia đình,
Gia đình
muốn trị, sửa mình trước tiên
Muốn sửa
mình, Tâm nên sửa trước,
Sửa Tâm
Hồn, trước cốt ý ngay.
Ý ngay,
phải học cho dày.
Dày công
học vấn sẽ hay Khuôn Trời.
Hay
Khuôn Trời thoắt thôi thấu triệt
Thấu
triệt rồi, ý thiệt, lòng ngay.
Lòng
ngay, ta sẽ hóa hay,
Ta hay,
gia đạo mỗi ngày một yên.
Nhà đã
yên, nước liền thịnh trị.
Nước trị
bình bốn bể bình an.
Từ dân
cho tới vua quan,
Tu thân
một mực lấy làm căn cơ.
(Đại Học, I)
Ngài chủ trương
dạy thiên hạ làm bừng sáng ngọn đuốc lương tâm, cố gắng cải thiện không
ngừng, để tiến tới hoàn thiện.
Đại Học
viết:
Đại Học
có mục phiêu rõ rệt,
Đuốc
Lương Tâm cương quyết phát huy.
Dạy dân
lối sống tân kỳ,
Chưa nơi
hoàn thiện còn đi chưa ngừng.
(Đại Học,
I)
Đó chính là chủ trương của các vị đại Thánh, đại Hiền trong thiên hạ.
Thời cổ xa xưa,
Mahagourou, vị thánh Ai Cập, cũng đã dạy thiên hạ phát huy
«ánh
sáng nội tại ấy».
Đó là ánh sáng soi cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Ánh sáng ấy là
«con
người chân thực».
Ánh sáng ấy tiềm tàng khắp nơi, ẩn áo ngay cả trong lòng nham thạch. Đối
với con người... ánh sáng ấy gần gũi họ hơn mọi sự, ánh sáng ấy đã hiện
diện trong lòng mọi người. Thực thể ấy gần gũi con người hơn mọi hình
thức lể nghi, vì con người chỉ cần hồi quang, quán chiếu là tìm thấy
ngay ánh sáng ấy. Khi con người biết ra, mà vượt lên trên mọi lễ nghi
hình thức, là con người lên được tới cùng Osiris, lên được tới ánh sáng.
Ánh sáng ấy chính là thượng thần Amoun-Ra, căn nguyên và cùng đích mọi
sự. (A. E. Powell, Le système solaire, p. 351)
Tóm lại, Đức
Khổng chủ trương chân đạo phát xuất từ
«thâm
tâm con người».
Trung Dung viết:
Nên đạo
quân tử phát xuất tự "thâm tâm",
Đem
trưng bày phổ cập tới thứ dân,
Khảo
chứng tiên vương không có chi lầm lỗi.
Sánh với
luật đất trời không phản bội,
So quỉ
thần đường lối đúng không sai,
Thánh
nhân ngàn đời sau, chẳng có chê bai.
So quỉ
thần đường lối đúng không sai,
Thế là
đã biết lòng Trời đó,
Thánh
nhân ngàn đời sau chẳng có chê bai,
Thế là
đã biết lòng người tỏ rõ.
(Trung Dung, XXIX)
Những con người
vụ bản là những con người hiếu cổ. Hiếu cổ không phải để mua vui, mà
chính là để hướng về nguồn, mà chính là để dùng gương xưa, tích cũ, lèo
lái cho công trình tạo tác thời nay, mà chính là để theo chân người xưa,
khám phá và làm sống động lại các tầng lớp thẳm sâu của tiềm thức. Như
vậy khảo cổ tức là khơi sâu, chẳng những khơi sâu thời gian và lịch sử,
mà còn khơi sâu tâm khảm con người, làm cho con người mở rộng thêm tầm
kích, sống thêm sâu xa linh diệu. Chính vì vậy mà Đức Khổng ưa khảo cổ.
Ngài nói trong Luận Ngữ:
Ta trần
thuật chứ không sáng tạo,
Tin cổ
nhân, mộ đạo cổ nhân.
(Luận Ngữ, Thuật Nhi,
VII, 1)
Trung Dung viết
thêm: Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến
chương Văn, Võ. (Trung Dung XXX).
Các môn đệ Đức
Khổng Nhiều người cũng tỏ ra hiếu cổ. Mạnh tử thuật lại rằng: Các ông ấy
có chí cả, và thường lớn tiếng nhắc đi, nhắc lại: ôi người xưa, ôi người
xưa.(Mạnh tử, Tận Tâm chương cú hạ, 37. Luận Ngữ, VII, 19.
— Luận Ngữ, IV, 21).
Những người vụ
bản còn có tâm hồn định tĩnh. Vì họ chú trọng đến các tầng lớp thẳm sâu
trong tâm hồn, nên có đời sống nội tâm rồi rào.
Các ngài ưa trầm
tư, mặc tưởng, để tìm ra nguyên lý, tìm ra định luật chi phối vũ trụ
Đại Học
viết:
Có mục
phiêu rồi lòng sẽ định,
Lòng
định rồi, nhẹ gánh lo toan.
Hết lo
lòng sẽ bình an,
Bình an
tâm trí, rộng đàng xét suy.
Suy xét
rộng, tinh vi thấu trọn,
Thấu sự
đời, ngành ngọn đầu đuôi.
Trước
sau đã rõ khúc nhôi,
Thế là
gần Đạo, gần Trời còn chi.
(Đại Học, I)
Trang Tử cũng có
chủ trương tương tự ông viết: Nước lặng sẽ chiếu soi thấy được râu mày,
lại được thợ dùng để đánh thăng bằng. Nước lặng mà còn trong, huống chi
là tinh thần? Lòng thánh nhân mà tĩnh lãng, thời sẽ nên gương soi trời
đất, vạn vật. (Nam Hoa Kinh, Thiên Đạo, XIII, A).
Vì vậy mà Đức
Khổng thường trầm tư, mặc tưởng (Luận Ngữ, XV, 30). Ngài cũng dạy
các môn đệ năng xét mình, để trừ khử những điều không hay, không tốt, (Luận
Ngữ, I, 3), để khiến cho tâm hồn trở nên băng tuyết (Luận Ngữ,
II, 2).
Chính nhờ sống
một cuộc sống nội tâm sâu sắc như vậy mà đức Khổng thường ung dung thư
thái (Luận Ngữ, VII, 4). Có thể nói được rằng ngày nay chúng
ta thường buồn bực, khổ sở, bất mãn, một phần là vì đã bỏ quên mất nếp
sống tâm hồn, mà sống phiến diện nơi óc não, nơi giác quan, hay vùi đầu
vào ngoại cảnh, đem hết tâm lực chạy theo tiền bạc, lợi danh, hoặc thú
vui nhục dục.
Thế là trạng thái
đánh mất tâm hồn mình, theo từ ngữ Thánh Kinh (Mat. 16, 26), hoặc
theo từ ngữ của Harvey Cox trong cuốn The Feast of Fools (While gaining
the whole world, Western men has been losing his own soul), hay làm thất
lạc con tim theo Mạnh Tử (Mạnh Tử, Cáo Tử chương Cú thượng, 2).
Nhờ vụ bản, mà
Đức Khổng đã tìm ra được nguyên lý duy nhất, do đó suy ra vạn sự.
Đức Khổng đã nói:
Đạo ta là do một nguyên lý mà suy ra (Ngô đạo, nhất dĩ quán chi, Luận
Ngữ, IV 15), và Luận Ngữ, XV, 2).
Nguyên lý
duy nhất ấy chính là gốc, mọi sự khác chỉ là ngọn. Biết được nguyên lý
duy nhất rồi sau sẽ suy ra các điều khác. Không biết được nguyên lý duy
nhất thời mọi sự sẽ rối mù.
Đoàn Trung Còn
bình: Nhất dĩ quán chi là một môn học cao
vi của nhà Nho. Người ta bắt đầu từ chỗ gần, mà xét tới chỗ xa, từ chỗ
hiển mà đạt tới chỗ mật. Nhà học Đạo cần phải có tâm bình đẳng, đạt mức
trung dung, do một mối mà phăn lần ra, thì có thể bắt từ ngọn mà đi đến
gốc. Nhờ quan sát như vậy, nhà Đạo hiểu tâm tánh người đời. Cao hơn nữa,
nhà Đạo biết ra lẽ bí mật trong vũ trụ vậy. (Đoàn trung Còn, Luận
Ngữ, XV, 2)
Chính vì thế mà
Trang tử đã nói: Thông kỳ nhất, vạn sự tất.
(Biết được nguyên lý, thời vạn vật cũng biết xong xuôi. (Nam Hoa Kinh,
Thiên Địa XII, A). ông cũng còn nói: Trước hết phải nắm được tâm điểm,
Sau đó sẽ ứng dụng được vô cùng (Đắc kỳ hoàn trung, dĩ ứng vô cùng
Nam Hoa Kinh, Tề vật luận II, C).
Đức Khổng còn
dùng nguyên lý duy nhất mà suy ra lẽ tuần hoàn biến hóa của mọi sự biến
địch trong hoàn võ. Ngài cho rằng mọi sự biến hóa chung qui đều trở về
lại căn nguyên, và sự tu luyện học hỏi của con người cũng cốt là để nhập
thần, huyền hóa. Vì thế mà Ngài đã viết trong Hệ Từ, khi bình về Hào Cửu
Tứ quẻ Hàm như sau:
Dạy rằng
muôn sự trên đời,
Cần chi
lo lắng, rối bời mà chi.
Muôn
đường nhưng vẫn đồng qui,
Trăm
chiều lo lắng qui về một căn.
Cần chi
mà phải băn khoăn,
Việc gì
mà phải bận tâm lo lường.
Vầng
trăng đắp đổi vầng dương,
Vầng
dương đắp đổi đài gương Quảng Hằng.
Mặt trời
cùng với mặt trăng,
Luân
phiên đắp đổi, nên hằng sáng soi.
Lạnh đi,
nóng lại tới nơi,
Nóng đi,
lạnh lại trở lui thay liền.
Hàn ôn
đắp đổi thường xuyên,
Cho nên
niên tuế miên triền sinh ra.
Trôi vào
quá vãng là co,
Vị lai
là giãn, giãn là triển dương.
Khuất
thân, co giãn thời thường
Đôi bên
cảm ứng, mở đường lợi sinh.
Sâu đo
có lúc co mình,
Co mình
cốt để duỗi mình dễ hơn.
Long xà
đông tới chập chờn,
Ngủ vùi
tháng lạnh, bảo tồn tấm thân,
Học sao
tinh nghĩa nhập thần,
Rồi ra
áp dụng muôn phần hay ho,
Đã rành
đã tỏ hóa cơ,
Rồi ra
lợi dụng ấm no thân mình.
Thân
mình sung túc, an ninh,
Rồi ra
nhân đức thi hành sùng tôn,
Băng
chừng từ đó tiến lên,
Là vào
tới cõi siêu nhiên, thánh thần.
Thần
minh khế hợp vào tâm,
Hóa cơ
đã tỏ, siêu nhân đã đành.
(Hệ từ hạ, chương V)
Đức Khổng đã áp
dụng nguyên lý duy nhất ấy vào công cuộc tu thân, tề gia. trị quốc, bình
thiến hạ.
Sau khi đã định
được căn bản của vũ trụ quần sinh là Thái Cực, là Trời, mà Trời hay Thái
Cực thời:
-Bất biến,
-Hằng cửu,
-Siêu vi.
-Vừa lồng trong vạn vật, vừa
siêu xuất vạn vật
-Vừa là căn cơ, vừa là cùng
đích muôn loài.
-Lại hoàn thiện, tuyệt đối.
Ở nơi con người
thì Thái cực là Lương Tâm, Lương tri, tuyệt đối, hoàn thiện, nên chính
là Tính con người, là phần Thiên nơi con người. Nó khác hẳn với nhân
tâm, vì nhân tâm chỉ là thất tình, lục dục, luôn luôn biến thiến, thay
đổi.
Cho nên trong
công trình tu luyện phải luôn theo tiếng lương tâm, giữ gìn cho lương
tâm được luôn luôn trong trẻo, và phải trở về với lương tâm là mới trở
về được với Đạo, với Trời.
Kinh Thư
gọi Lương Tâm là Đạo Tâm. (Kinh Thư, Đại Vũ Mô, 15)
Trung Dung gọi là
Tính. (Trung Dung, I)
Đại Học gọi là
Minh Đức. (Đại Học, I)
Kinh Dịch gọi là
Thái Cực. (Dịch, Hệ Từ)
Mạnh Tử gọi là
Xích tử chi tâm (Mạnh Tử, Ly Lâu hạ, 12).
Ngoài ra chư nho
còn gọi là Nhất, là Trung, là Thành, là Mệnh v.v...Chính vì thế nên Bản
Tính con người thời hoàn thiện. (Nhân chi sơ, Tính bản thiện). (Tam Tự
Kinh)
Chính vì thế mà
trong công cuộc tu thân con người phải tiến tới hoàn thiện (Đại Học,
I), tiến tới chí thành, chí thiện
Thành giả Thiên
chi đạo dã,
Thành chi giả,
nhân chi đạo dã.
Dịch
Hoàn toàn là Đạo
của Trời,
Trở nên hoàn
thiện, đạo người xưa nay.
(Trung Dung, XX).
Như vậy, cá nhân
và xã hội đều phải theo một khuôn mẫu, là tiến tới choồ hoàn thiện.
Khổng tử nói: Trò Sâm, Đạo ta do một nguyên lý mà suy ra. Tăng tử đáp:
Dạ...Đạo Thày là đem hoàn thiện vào lòng mình và làm cho người khác trở
nên giống mình (Luận Ngữ, Lý Nhân, IV, 15).
Mạnh Tử cũng nói:
Mạnh tử chỉ bàn về tính thiện, và không ngớt ngợi khen Nghiêu
Thuấn...Đạo Lý chỉ có một mà thôi (Mạnh Tử, Đằng văn Công chương cú
thượng, 1)
Chính
trị chính là sửa sang mọi người và đưa mọi người về tới Hoàng Cực
hoàn thiện.
Trung Dung
viết:
Đạo quân
tử có 5 hình thức,
Nương 3
chồi, thịnh đức sum sê.
Quân
thần, phụ tử, phu thê,
Anh em
cốt nhục, bạn bè tất giao.
Ấy 5 đạo
tối cao thiên hạ,
Trí,
Dũng, Nhân, đức cả 3 chồi,
Năm
cành, 3 cỗi tốt tươi,
Tinh
thành do một gốc Trời trổ sinh.
(Trung Dung XX)
Trung Dung
còn viết:
Thành
vốn dĩ tự mình hoàn thiện,
Đạo thời
thường tự khiển, tự do.
Thành là
cùng đích, duyên do,
Duyên
do, cùng đích khắp cho muôn loài.
Bỏ lẽ ấy
khôn bài có vật,
Nên hiền
nhân quí nhất chữ Thành.
Hoàn
thành không những riêng mình,
Rồi ra
hoàn thiện quần sinh muôn loài.
Hoàn
thành mình là người nhân đức,
Tác
thành vật, là bực thông minh.
Thiên
nhiên tự tính uy linh,
Trong
ngoài hai mặt, một mình quán thâu.
Nên quân
tử biết câu sau trước,
Xếp thời
giờ, tổ chức cho hay.
(Trung Dung XXV).
Như vậy, về
phương diện chính trị, phải liệu lý từ trong ra ngoài. Căn cơ có tỏ, thì
tâm mới định; thần có linh, thì tâm mới thiện; Tâm có thiện, thì thân
mới an; thân có an, thì gia đình mới tốt; gia đình có tốt, thì quốc gia
mới thịnh; quốc gia có thịnh, thì thiên hạ mới mong bình. Mới hay có
thấu đáo căn cơ, cốt cách của mình, thì thân mới tu, gia mới tề, quốc
mới trị, thiên hạ mới bình. Cái gốc có vững, thì cái ngọn mới không
xiêu.
Ngày nay,
thế giới trở nên đảo điên, suy vi, loạn lạc, chính là vì người ta đã trở
nên vong bản, đã quên mất gốc, hoặc không biết rằng
cái
gốc hoàn thiện đã ở ngay trong tâm cơ con người.
Thành
thử, người ta cầu mong hòa bình mà chỉ thấy loạn lạc; người ta hứa hẹn
an lạc, mà chỉ thấy toàn gian khổ, điêu linh. Tất cả những cái thống
khổ, khốn nạn, tất cả những chén phiền não, tân toan mà con người đã,
đang, và sẽ uống hằng ngày, đều là do đã lạc mất tâm, đã quên mất gốc.
Chúng ta muốn an
bình ư? Hãy tìm về gốc, trở về nguồn. Chúng ta muốn có một nền học vấn
cao siêu ư? Hãy khảo về gốc, suy về nguồn. Chúng ta muốn tìm ra giải
đồng thân ái, liên kết ta được với người, với chúng dân trong hoàn võ ư?
Hãy tìm ra gốc, tìm ra nguồn.
Căn cơ, nguồn gốc
của chúng ta, chúng ta khỏi tìm ở khởi điểm lịch sử. Nguồn gốc vũ trụ
nhân quần, chúng ta khỏi suy khảo cho tới phút lập địa, khai thiên. Muốn
tìm về gốc nguồn chúng ta, chúng ta chỉ việc phạt quang hết những lau
lách dục vọng hay tạp niệm nội tâm (Mạnh Tử, Tận tâm chương cú
hạ, 21), rồi ra chúng ta sẽ thấy hiện ra một con đường quang, đưa tới
nguồn, tới gốc, rồi ra chúng ta sẽ thấy hiện ra
trong Não Thất 3, tức là trong Nê Hoàn Cung
chúng ta một viên ngọc quí sáng ngời, đó là Lương Tâm chúng ta,
mà Đạo Lão gọi là Kim Đơn, mà khoa luyện đan Âu Châu gọi là
Philosopher's Stone. Đó là cái Đạo mà sáng nghe biết rồi, chiều chết
cũng cam của Khổng giáo. (Triêu văn Đạo, tịch tử khả hĩ. Luận Ngữ,
Lý Nhân IV, 8). Tìm ra Đạo này là một công trình
khó khăn, nhưng thích thú.
Tóm lại, Thái Cực
hay Trời, khi sinh ra ta thì gọi là Căn Cơ, khi kêu ta về thì gọi là
Cùng Đích. Giữa thời nở ra rồi lại khép lại.
Như vậy
Trời không ở đâu xa, mà đã nằm sẵn trong lòng sâu
con người. Ta đã thấy bất kỳ đạo giáo chân chính nào trên thế
giới cũng đều chủ trương như vậy.
Sách Trung
Dung đã viết theo kiểu này: Sách bắt đầu bằng chữ Thiên, rồi nở ra
thành Tam Đức, Ngũ Luân, Cửu Kinh, đoạn khép lại thành Đạo Thánh Nhân,
rồi lại trở về với Trời vô thanh, vô xú. Thật là hoàn hảo tuyệt vời.
Thế là:
Tung ra
tản mạn khắp muôn phương trời,
Thu tóm
lại dấu nơi ẩn áo.
Hay sao
hay, kỳ ảo khôn cùng
Đó là
thực học chính tông,
Ai hay
tìm hiểu, sẽ thông ý mầu,
Thông ý
mầu, rồi sau ứng dụng,
Dùng cả
đời, cũng chẳng hề vơi.
(Trung Dung, Chu Hi
chương cú)
Sau đây, chúng ta
sẽ dùng Kinh Dịch để giải thêm thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất
Thể.
Kinh Dịch
chủ trương: Vũ trụ này do một đại thể duy nhất, một căn nguyên duy nhất
phân hóa ra. Bản theỗ duy nhất ấy Dịch gọi là Thái cực, là âm
Dương hợp nhất, là Thổ, là Nhất, là 5, hay 15.
Dịch trình bày tư
tưởng trên bằng:
a) Hình vẽ Thái
Cực, gồm âm lẫn Dương.
b) Bằng chữ Dịch
gồm 2 chữ Nhật, và Nguyệt. Nhật thời Bất Biến, Nguyệt thời Biến Thiên.
c) Bằng chữ Thổ,
gồm hai nét âm Dương, và nét Sổ hợp nhất.
d) Bằng số 5 vì
năm là 3 (Dương) + 2 (âm).
e) Bằng số 15 vì
15 là 9 (Dương) + 6 (âm).
Thái
Cực thời Bất Biến.
Âm
Dương thời Biến Hóa vô cùng.
Bản Thể ấy đã
sinh hóa, phóng phát ra vũ trụ, bằng cách phân hóa.
1 chia 2.
2 chia 4
4 chia 8
8 chia 16, chia
32, chia 64
Dịch diễn tả tư
tưởng ấy bằng chữ: Thái Cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng,
tứ tượng sinh bát quái...
Hoặc bằng hình
vẽ:
a/ Bản thể vũ trụ
và vạn hữu vẽ thành vòng Dịch tròn.
Lúc đó:
Tâm điểm là Thái
Cực.
Vạn hữu là hào
quải vây quanh bên ngoài..
Thái Cực hay Bản
Thể như vừng dương sinh xuất muôn ánh hào quang vạn hữu.
b/ Bản thể vũ trụ (Thái Cực)
và Vạn Hữu (Hào quái) xếp theo hình ngang. Lúc ấy, Bản Thể (Thái Cực) là
gốc cây, vạn hữu (hào quái) như cành, như lá bên trên.
Vòng biến dịch tuần hoàn của
vũ trụ được tượng trưng bằng:
a/ Vòng Dịch Tiên Thiên bát quái
Đồ hình này có 2 nửa phải,
trái. Nửa phải có 4 quẻ là Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Hào trong cùng của 4
quẻ này đều là Hào Âm. Hơn nữa, Hào Âm ngày càng tăng. Hào Dương càng
ngày càng giảm: (Tốn có 1 hào Âm, Khảm có 2 hào âm cách nhau, Cấn có 2
Hào âm liền nhau, Khôn có 3 hào Âm), vì thế, chiều này gọi là chiều
Âm trưởng, Dương tiêu.
Như vậy, ta thấy rằng, ở
chiều này, Vật Chất ngày càng thịnh, Tinh Thần ngày càng suy
Nửa trái có 4 quẻ là Chấn,
Ly, Đoài, Kiền. Hào trong cùng của 4 quẻ này đều là Hào Dương. Hơn nữa,
Hào Dương ngày càng tăng, Hào Âm ngày càng giảm. (Chấn có 1 hào Dương,
Ly có 2 hào Dương cách nhau, Đoài có 2 hào dương liền nhau, Kiền có 3
hào Dương), vì thế chiều này gọi là chiều Dương trưởng, Âm tiêu.
Như vậy ta thấy rằng ở chiều này Tinh Thần ngày càng thịnh, Vật Chất
ngày càng suy.
b/ Bằng
Vòng Dịch Tiên Thiên 64 quẻ.
Nơi vòng Dịch
Tiên Thiên 64 quẻ, ta thấy nửa phải có 32 quẻ, từ Cấu đến Khôn. Tất cả
các Hào trong cùng của 32 quẻ này đều là Hào âm. Đó là Chiều Âm, vì Âm
ngày càng thịnh, đó cũng gọi là chiều Thuận.
Nửa trái có 32
quẻ, từ Phục đến Kiền. Tất cả các hào trong cùng của 32 quẻ này đều là
Hào Dương. Đó là Chiều Dương vì Dương ngày càng thịnh, đó cũng còn gọi
là Chiều Nghịch,
Thế là:
Gẫm Đạo
Lý có sau, có trước,
Lẽ Âm
Dương có ngược, có xuôi.
Xuôi là
gió cuốn bụi đời (Thiên Phong Cấu),
Đẩy đưa
vào chốn trần ai, cát lầm,
Có thử
thách mới phân vàng đá,
Có lầm
than mới rõ chuyện đời.
Ngược là
sấm chớp tơi bời (Địa Lôi Phục),
Tầng sâu
bày giãi căn trời nội tâm,
Trông tỏ
đích chí nhân, chí chính,
Biết mục
phiêu sẽ định, sẽ an.
Rồi ra
suy xét nguồn cơn,
Con
đường phối mệnh chu toàn tóc tơ.
Dịch Kinh
quí nhất chiều nghịch. (Dịch nghịch số dã.
Kinh Dịch, Thuyết quái, chương III, câu 2), vì Chiều Nghịch là
Chiều sinh Thánh, sinh Thần, còn chiều Thuận là Chiều sinh Nhân, sinh
Vật.
c/ Hoặc giản dị
hơn, bằng vòng Dịch Thập Nhị quái khí.
Thập Nhị quái Khí
là 12 quẻ rút ra từ Vòng Dịch 64 quẻ nói trên.
Nửa phải có 6 quẻ
là Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn. Đó là Chiều Âm.
Nửa trái có 6 quẻ
là Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quải, Kiền. Đó là chiều Dương.
d/ Hoặc bằng 1 đồ
bản vẽ Thái cực nằm chính giữa, với 6 vòng tròn đồng tâm bên ngoài.
Ngoài cùng có 12 quái khí.
Trông vào hình đồ
trên ta thấy:
1/ Thái Cực ở Tâm
Điểm.
2/ Vạn Hữu được
tượng trưng bằng 6 vòng tròn bao quanh bên ngoài.
3/ Vòng biến dịch
bắt đầu từ tâm điểm đi ra tới biên, rồi lại quay ngược trở về Tâm.
4/ Càng đi ra bên
ngoài, âm càng thịnh, dương càng suy (âm từ 1 hào, dần dần tăng lên cho
tới 6 Hào).
5/ Lúc vòng Dịch
quay trở về được đánh dấu bằng quẻ Phục. (Quay trở lại)
Như vậy, Phục là
con đường hồi tâm, qui tâm, hồi hướng, hướng nội.
Phục cũng là Kiến
Thiên Địa chi Tâm: Thấy được Tâm (Bản Thể) của Trời đất. Tâm của Trời
đất cũng là Tâm của mình.
6/ Càng đi sâu
vào tâm, càng trở nên trong sáng. âm căn càng ngày càng giảm, dương
quang càng ngày càng tăng.
Vào đến vòng dịch
thứ 6, là đạt thuần dương, thuần Kiền.
7/ Vào tới Tâm
Điểm là Đắc Đạo, đắc Nhất, đắc Thiên.
8/ Vòng biến
dịch, tuần hoàn trên vẽ lại đời sống con người lý tưởng, cũng như đời
sống nhân quần và toàn bộ lịch sử tiến hóa con người. Chẳng những thế,
còn vẽ lại được vòng biến dịch luân lưu của mặt trời, mặt trăng, hay nói
rộng hơn là toàn thể chu kỳ biến hóa của vũ trụ.
9/ Vòng biến dịch
này có 2 chiều:
Con người nói
riêng, nhân loại nói chung, khi còn trẻ sẽ hướng ngoại, đem tinh thần
phục vụ giang sơn, tổ quốc, cải thiện ngoại cảnh, đổi lấy miếng cơm,
manh áo, đóng góp với đời...
Khi đã luống
tuổi, khi đã trở về già, sẽ hướng nội, qui tâm, sẽ dùng ngoại cảnh hỗ
trợ cho tâm thần, tu luyện bản thân, tiến mãi trên con đường huyền
hóa...
Thiệu Khang Tiết
viết:
Vạn
Vật tòng Trung nhi khởi, tòng Trung nhi chung.
Vạn
Vật từ Trung Tâm sinh xuất, lại qui hoàn về
Trung.
Dịch lại viết:
Nhất Âm, nhất Dương chi vị đạo. Kế chi giả, thiện dã, thành chi giả,
tính dã (Hệ từ thượng, chương V).
Một Âm,
một Dương là Đạo (Đạo có 2 chiều: Âm trước, Dương sau: Vật chất trước,
tinh thần sau). Theo đường đó thời tốt, đi tới cùng đường sẽ thực hiện
được Tính Trời.
Chỗ cao siêu của
Dịch là cốt dạy con người: Tẩy Tâm, thoái tàng ư
mật (Hệ từ Thượng, ch. 11), tẩy rửa tâm hồn, trở về với tâm
linh.
Các chính Tính,
Mệnh, Bảo hợp Thái Hòa.
(Kiền Quái, Thuyết quái) Giữ cho Tính, Mệnh được ngay
chính, bảo vệ, hiệp nhất được với Thái Hòa (Thái Cực).
Quan niệm Nhất
thể vạn thù đã đưa đến những hậu quả sau đây:
1. Nho gia
đều tin vào thuyết Thiên địa vạn vật nhất thể, tin rằng mình có thể sống
kết hợp với Đạo, với Trời.
Trình Y Xuyên
(1033-1107) nói: Dịch giả, Thiên Nhân Hợp Nhất nhi dĩ hĩ (Dịch chỉ là
Người và Trời hợp nhất mà thôi).
Trương kỳ Quân,
tác giả bộ Trung Quốc ngũ thiên niên sử đã viết: Dịch chi vi thư
quảng đại tất bị, vô sở bất bao, nhi ngữ kỳ yếu qui, tắc vi minh Thiên
Nhân hợp nhất chi đạo. (Sách Dịch mênh mông bao quát, nhưng nói cho
ngay, chỉ dạy lẽ Thiên Nhân hợp nhất mà thôi).
Ngày nay người ta
đọc sách Nho, xưng mình hiểu Nho Học, nhưng ít người hiểu được rằng Tính
con người chính là Thái Cực, thật là vẹn hảo. Con người không biết
chuyện đó, chính vì xã hội đã làm cho họ sai lầm mà thôi.
Hai nữa người ta
không biết rằng con người có 2 tính: một là Tính Trời hay Thiên địa chi
Tính, hai là tính người, hay khí chất chi tính. Tính người chính là thất
tình, lục dục cần phải gột bỏ. Tính Trời thì quang minh chính đại, nó là
ngọn đuốc lương tâm, luôn luôn ở trong con người, để soi sáng cho con
người. Chính vì thế mà Nho Gia sau trứớc chỉ dạy: Khử nhân dục (Nhân
tâm), tồn Thiên Lý (Thiên Tính hay Thái Cực) mà thôi.
Ngày nay mở mồm
ra, là người ta chê mình là kẻ xấu, kẻ hèn mọn, tội lỗi. Những người có
tư tưởng sai lầm như vậy, dẫu tu suốt đời cũng không sao tiến bộ được.
Thực là uổng phí cuộc đời.
Người ta cũng
không biết rằng: Tuy vạn tượng thời biến hóa khôn lường, nhưng Bản thể
hay Bản Tính chúng ta thời trường tồn bất biến. Nên nếu chúng ta muốn
trường sinh bất tử phải rũ bỏ những gì biến thiên, tức là Vọng tâm hay
nhân tâm, mà chắt chiu cái gì vững bền muôn thủa, đó là Thái Cực hay
Thiên Tâm, Thiên tính của chúng ta.
Dịch kinh
nơi quẻ Hằng đã viết: Thiên địa chi Đạo hằng cửu nhi dĩ dã. Quan kỳ
sở Hằng, Thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ. Đạo Trời thời
thường hằng vĩnh cửu. Hiểu lẽ đó, sẽ biết tình ý của muôn loài. Tiếc
thay nay có ai hiểu thế nào là Hằng, Biến đâu.
Dịch gọi Hằng cửu
đó là Thái Cực. Nó đã nằm sẵn trong lòng sâu con người. Dịch gọi đó là
Điểm Trung Hoàng. Tìm ra được nó, nhiên hậu mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp.
Văn Ngôn hào Lục
Ngũ quẻ Khôn viết:
Hiền Nhân thông
lý Trung Hoàng,
Tìm nơi chính vị
mà an thân mình.
Đẹp từ tâm khảm
xuất sinh,
Làm cho cơ thể
xương vinh, mỹ miều.
Phát ra sự nghiệp
cao siêu.
Thế là đẹp đẽ đến
điều còn chi.
Trung Dung là
sách dạy ta tìm về Tâm Điểm bất biến đó của vũ trụ. Trung dung gọi đó là
Đạo Trung Dung, hay đạo Trời.
Trung ấy
là không nghiêng, không ngửa,
Trung ấy
là muôn thuở y nguyên.
Trung là
Đạo Chính mọi miền.
Dung kia
là lý hiển nhiên mọi đời.
Tâm pháp
này truyền nơi cửa Khổng,
ông Tử
Tư sợ chóng sai ngoa,
Bút thần
tay thảo thiên hoa,
Truyền
cho Mạnh tử thành pho sách này.
Sách mới
thoạt trình bày một lẽ,
Sau dần
dần mới tỏe thành muôn.
Tung ra
tản mạn khắp muôn phương trời,
Thu tóm
lại, dấu nơi ẩn áo,
Hay sao
hay, kỳ ảo khôn cùng.
Đó là
thực học chính tông,
Ai say
tìm hiểu sẽ thông ý mầu,
Thông ý
mầu rồi sau ứng dụng,
Dùng cả
đời cũng chẳng hề vơi.
(Trung Dung, Chu Hi
chương cú).
Trung Dung
chia con người thành ba phần:
-Tính (Thiên
tính, Thiên Tâm, Lòng Trời = Thiên đạo).
-Tâm (Nhân tâm,
nhân dục, khí chất chi tính, lòng người = Nhân
Đạo).
-Xác (vật chất =
Vật đạo).
Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa
cũng chủ trương như vậy.
Kinh Thư,
thiên Đại Vũ Mô, 15 viết:
Nhân tâm duy
nguy,
Đạo tâm duy vi,
Duy tinh duy
nhất,
Doãn chấp quyết
Trung.
Dịch:
Lòng của
Trời siêu vi, huyền ảo,
Lòng con
người điên đảo, ngả nghiêng.
Tinh
ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra công,
ra sức giữ nguyên lòng Trời.
Lòng Trời thì bất
biến, lòng con người thì biến thiên. Thế là thấy được lẽ Biến, Hằng
trong ta vậy.
Bất kỳ là theo
đạo giáo nào, không hiểu những điều căn bản trên là không biết gì về Đạo
(Thái Cực), về duyên do và cùng đích của Đạo, của con người.
2. Thực ra, con người là một phân bộ
trong thống thể vũ trụ, nên có liên quan mật thiết đến vũ trụ.
Trình Minh Đạo
(1032-1065) viết: Vạn vật dữ ngã nhất thể dã
(Ta và vạn vật đếu chung một bản thể.)
Lục Tượng Sơn
(1140-1192) viết: Việc ở trong vũ trụ chính là việc trong bổn phận mình;
việc ở trong bổn phận mình, tức là việc ở trong vũ trụ. (Phan Bội Châu,
Khổng Học Đăng, II, tr. 715)
Linh Mục Vương
Xương Chỉ, trong quyển Triết Học Luân Lý của Vương Dương Minh đã
viết: Tin rằng vũ trụ này là một thống thể, trong đó sự thác loạn của
một bộ phận có ảnh hưởng đến toàn bộ vũ trụ, tin rằng con người là tâm
điểm vũ trụ, tâm con người là tâm vũ trụ, đó là tư tưởng hàm tàng trong
kinh điển, và đã được các triết gia thời Tống chủ trương.
Cũng như các
triết gia Trung Hoa khác, Vương Dương Minh (1472-1528) cũng nhắc
lại: Con người là tâm điểm vũ trụ. Vũ trụ và ta là một thống thể.
Linh Mục Matteo
Ricci (1552-1610) sang giảng đạo bên Trung Hoa vào cuối thế kỷ 16, đầu
thế kỷ 17 đã nhận định như sau: Trào lưu tư tưởng mà nhiều người đã theo
hiện nay, theo tôi có lẽ đã vay mượn ở một giáo phái tà thần từ 500 năm
nay (Tống Nho). Quan niệm ấy là: Thiên địa vạn vật nhất thể. Hóa công
cùng với trời đất, người vật, cỏ cây, tứ tượng đều hợp thành một phân
bộ. Từ quan niệm nhất thể ấy, họ rút ra nhiệm vụ bác ái đối với mọi
người, và chủ trương mọi người đều có thể trở nên giống Trời.
Một học thuyết
cao siêu như vậy, mà một nhà truyền giáo trứ danh như Ricci lại cho là
tà giáo, tà thần, thì thật là đáng thương cho Ricci vậy.
3. Mọi người đếu giống nhau về phương diện bản thể.
Mạnh Tử nói: Phàm
những vật đồng loại thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại,
người ta lại nghĩ rằng bản tính chẳng tương tự? Những bậc thánh nhân với
chúng ta đều cùng một loại...
(Mạnh Tử, cáo tử
chương cú thượng, tiết 7).
4. Con người có thể tiến tới Đại thể, có thể hoà đồng với Đại Thể vũ
trụ.
Đó chính là
chủ trương: Cao minh phối Thiên, Bác hậu phối địa của Trung Dung, (Trung
Dung, 26)
Trình tử cũng cho
rằng: Thánh nhân phải có một tầm kích mênh mông như vũ trụ. (Thánh nhân
hữu Thiên Địa chi lượng dã. Uyên Giám loại hàm, nơi chữ Thánh,
tr. 4670).
5. Thế giới là một nhà, người trong bốn biển đều là anh em.
Trương Hoành Cừ
(1020-1077) làm bài Tây Minh tóm tắt đại khái nhân sinh quan mình
như sau: Lấy thế giới làm một nhà, Trời đất làm cha mẹ, nhân loại làm
anh em, vạn vật làm đồng loại của mình. Vì xem thế giới là một nhà, trời
đất là cha mẹ, nên người ta phải giữ cho tròn bổn phận làm người, vì xem
nhân loại đều là anh em, vạn vật đều là đồng loại, nên người ta phải
rộng lòng nhân ái.
Lễ Ký nơi thiên Lễ Vận đã đề ra một thế giới đại đồng.
Kinh Dịch,
nơi quẻ Đồng Nhân, cũng đã đưa ra một viễn tượng đại đồng mai hậu.
Thế mới hay đức
Khổng là vị thánh nhân. Ngài chẳng những dạy con người phải tổ chức một
đời sống quốc gia xã hội cho hoàn hảo, để mọi người sống trong an bình,
hạnh phúc, tương thân, tương ái, mà còn truyền dạy đạo Trời, hay đạo
Trung Dung, một thứ Đạo huyền đồng, mà Kinh Thi đã trình bày trong Đại
Nhã, mà Luận Ngữ đã khen là "sáng mà nghe biết, chiều chết cũng cam” (Luận
Ngữ, IV, 8).
Tôn chỉ đạo ấy
là:
a- Trong Tâm ta
còn có Thần Trời, nghĩa là trong Nhân Tâm còn có Đạo tâm.
b- Con người có
bổn phận dùng đời mình để siêu xuất phàm tâm, phối hợp với Thiên Tâm.
Mục đích của công
phu tu luyện của cuộc đời đạo hạnh chân chính là sống phối kết với
Thượng Đế.
Tất cả tôn chỉ ấy
đã được cô đọng trong mấy câu khẩu quyết mà xưa vua Nghiêu đã truyền cho
vua Thuấn:
Nhân Tâm duy
nguy,
Đạo tâm duy vi,
Duy tinh, duy
nhất,
Doãn chấp quyết
Trung.
(Kinh Thư, Đại Vũ Mô,
15)
Lòng của
Trời siêu vi huyền ảo,
Lòng con
người điên đảo, ngả nghiêng.
Tinh
ròng, chuyên nhất ngày đêm,
Ra công,
ra sức giữ nguyên lòng Trời.
CHÚ THÍCH
[1]
... Considérer l'Univers comme faisant un tout et où le désordre d'une
partie se répercute dans le Tout; considérer encore l'homme comme au
centre de cet Univers et faire du coeur de l'homme le coeur de l'Univers
telle est l'idée contenue dans les livres classiques et exprimée surtout
par les philosophes des Song... Avec tous les penseurs chinois, il (Wang
Yang Ming) répète que l'homme c'est le coeur de l'Univers, l'univers
avec moi constitue un seul corps. -- Wang Tch'eng Chi, S. J., La
philosophie morale de Wang Yang Ming, pp. 74–75.
[2]
Mais l'opinion la plus suivie actuellement et qui me parait (pare)
empruntée à la secte des idoles depuis 500 ans (Philosophie des Song)
c'est que tout ce monde est fait d'une seule substance, et que le
Créateur du monde avec le Ciel et la Terre, les hommes et les animaux,
les arbres et les végétaux, et les quatre éléments forment un corps
continu dont les divers êtres sont les membres. C'est de cette unité de
substance que l'on déduit le devoir de la charité envers les hommes et
la possibilité pour tous de devenir semblables à Dieu. -- Henri Bernard
Maitre, Sagesse Chinoise et Philosophie chrétienne, p. 108.
»
Mục lục |
Phi lộ | chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18 19
|