DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1
2
3 4
5 6
7 8
Phần 7
ÂM DƯƠNG
Chương 2. Âm Dương
và Vô Cực, Thái Cực
Sự khảo
sát về Vô Cực, Thái Cực đã cho ta thấy bản thể vũ trụ là duy nhất, cho
nên đối với ta, Âm Dương không phải là hai thực thể tự tại, độc lập,
riêng rẽ, mà chỉ là hai chiều hai mặt, hai phương diện của một bản thể
tuyệt đối.
Vô Cực,
Thái Cực là lý Duy Nhất, là Bản Thể của vũ trụ; còn Âm Dương là động cơ
sinh ra mọi biến thiên, chuyển động. Sự nhận định này rất quan hệ vì làm
cho ta trông tỏ hai chiều hằng cửu và biến thiên của vũ
trụ.
Có hay một gốc hai
cành chẽ,
Mới
thấy nghìn con, vạn cháu đông.
Từ Vô Cực,
Thái Cực bước sang lãnh vực Âm Dương tức là chúng ta đã từ lãnh vực vô
vi, tuyệt đối,
bước sang lãnh vực hữu vi, hữu tướng, biến thiên, biến hóa.
Thái Cực
là Đạo, là Lý, thuộc hình nhi thượng, thuộc thế giới tuyệt đối.
Âm Dương
là Khí thuộc hình nhi hạ, thuộc thế giới tương đối. Thái Cực hay Đạo, Lý
vĩnh cửu, vô biên.
Âm Dương,
hay Khí, biến hóa sinh diệt vô thường, nhưng vì sự biến hóa sinh diệt
ấy, luôn căn cốt vào Thái Cực, nên cũng vô cùng tận như Thái Cực.
Để xác
định mối tương quan giữa Tuyệt đối và Hiện Tượng; giữa Vô Cực và khí
chất Âm Dương, về phương diện thời gian, ta ghi nhận mấy quan niệm then
chốt của Nho gia như sau:
1/ Hễ có
Lý thời có Khí, nghĩa là một khi đã có Bản Thể tuyệt đối, thì tất nhiên
là đã có sự hiển dương, sống động.
2/ Âm
Dương, Hình Khí tuy có sinh diệt, nhưng hễ hiện tượng này diệt, thì hiện
tượng kia lại sinh, như vậy vũ trụ sẽ sinh hóa vô cùng tận như Thái Cực,
nghĩa là bao lâu còn có Bản thể, bấy lâu còn có sinh hóa.
3/ Như thế
có nghĩa là Đạo, Lý, Tuyệt Đối Thể thì vô cùng một cách tự nhiên tự tại.
Khí chất
Âm Dương thì sinh sinh, diệt diệt, biến hóa vô cùng, nhưng cũng vô cùng
như Tuyệt Đối Thể vì luôn lệ thuộc vào Tuyệt Đối Thể.
Đó cũng là
quan niệm của vua Trần Thái Tôn về Tuyệt Đối Thể trong sách Khóa Hư.
Đại khái
vua Trần Thái Tôn cũng chủ trương rằng: Thực tại gồm hai phương diện:
Phương diện Bản thể siêu hình thì không sinh hóa. Phương diện
hiện hữu thì có sinh hóa. Cả hai đều vĩnh cửu, tuy rằng hai
phương diện căn bản ấy trái nghịch mâu thuẫn.
4/ Thái
Cực Vô Cực siêu xuất trên thiện ác. Âm Dương biến hóa ở trong vòng thiện
ác. Chu Liêm Khê nói: Thành vô vi, ki thiện ác. (Khi còn là Bản
thể tĩnh lãng thời tinh toàn, khi đã ứng cơ biến hóa thời mới phân thiện
ác.) chính là vì vậy.
Chủ trương
của Áo Nghĩa Thư cũng như của Dịch. Theo Áo Nghĩa Thư, thì Brahman đại
thể gồm hai phương diện:
* Hữu hình
và Vô hình,* Tử vong và Bất tử.
* Biến
động và Thường trụ.
Thế tức là
hai phương diện ẩn và hiện của vũ trụ, hai phương
diện khinh khoát và lệ thuộc của thần trí, đều căn cốt trên
Brahman duy nhất, đấng bao quát mọi phân cực và mọi mâu thuẫn.
Xét về
thời gian, thì Đại Thể cũng có hai phương diện là: Thời gian, và Siêu
Thời gian.
Nói cách
khác, Thời gian và Hằng Cửu là hai phương diện của một Nguyên Lý.
Trong
Brahman, cái Hằng và cái Biến hòa hợp. Maitri Upanishad viết: Cái
có trước mặt trời là vô thời và vô gián (akala). Cái bắt
đầu với mặt trời, lệ thuộc thời gian và có phân bộ gián cách.
Thái Cực
với Âm Dương, hay Bản thể với Hiện Tượng, theo nhãn quan Phật giáo sẽ
được mô tả bằng những danh từ sau:
Chân Như
Bản
Thể
(Réalité, Être)
(Natura Naturans) |
Vạn
Tượng
Vạn
Pháp
(Manifestation, Phénomènes)
(Êtres)
(Natura naturata) |
1/ Bản
thể
2/
Tiềm thể
3/
Viên giác
4/
Niết bàn
5/
Nhất nhất, Như như
6/
Chân tâm
7/ Vô
vi
8/ Vô
lậu
9/ Vô
trụ, vô trước
10/
Chân như môn
11/
Cảnh giới tịch diệt
12/ Lý
13/
Ngã
14/
Thường
15/
Tịnh độ
16/
Giải thoát
17/
Không
18/ Bồ
đề
19/
Trùng dương
20/
Bình đẳng giới
21/
Tuyệt đối, Tuyệt đối giới
22/
Chân |
1/
Hình thức sắc tướng
2/
Hiện thể
3/ Mê
vọng
4/ Khổ
hải, Sinh tử
5/ Vạn
hạnh,Vạn pháp
6/
Vọng tâm
7/ Hữu
vi
8/ Hữu
lậu
9/
Chấp trước
10/
Sinh diệt môn
11/
Cảnh giới vô thường
12/ Sự
13/ Vô
ngã
14/ Vô
thường
15/ Uế
độ
16/
Phiền trược
17/
Sắc
18/
Phiền não
19/ Ba
lãng
20/
Sai biệt giới
21/
Tương đối, Tương đối giới
22/
Giả v.v... |
Sau hết,
để cho cái nhìn viên dung về Thái Cực và Âm Dương, ta nên có nhận xét
như sau:
Triết Gia
Trung Quốc không phải phân để mà phân, nhưng phân rồi, lại cốt để hợp.
Cho nên chỉ tách Âm Dương khỏi Thái Cực về phương diện Khí, nhưng lại
không tách biệt Âm Dương khỏi Thái Cực về phương diện Lý.
Nói cách
khác, nếu coi Âm Dương là Khí, là biểu thị cho hai trạng thái
động, tĩnh của một khí, thì lúc ấy Âm Dương thuộc Hình nhi hạ.
Còn, nếu
coi Âm Dương là Lý tiêu trưởng, doanh hư động tĩnh của vũ trụ, thì lúc
ấy Âm Dương lại thuộc về Hình nhi thượng, và Lý động (Dương) và Lý tĩnh
(Âm) chính là hai phương diện của Thái Cực.
CHÚ
THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1
2
3 4
5 6
7 8
|