DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5 6
7 8
Phần 7
ÂM DƯƠNG
Chương 7. Quan niệm
Âm Dương với
khoa siêu hình học Âu Châu
Dịch kinh
với quan niệm Âm Dương dĩ nhiên là khác biệt với Siêu Hình Học Âu Châu
hiện tại.
Dịch phân
biệt Âm Dương, nhưng không phân biệt một cách ráo riết triệt để, ngược
lại vẫn chủ trương Âm sinh Dương, Dương sinh Âm; trong Âm có Dương,
trong Dương có Âm.
Siêu Hình
Học Âu Châu đã phân biệt, thời lại phân biệt một cách triệt để, rứt
khoát. Cho nên đối với Siêu Hình Học Âu Châu, thiện là thiện, ác là ác;
tinh thần là tinh thần, vật chất là vật chất, đôi đàng hoàn toàn đối
đỉnh, hoàn toàn mâu thuẫn nhau.
Sau khi đã
hiểu rõ thái độ và lập trường căn bản ấy của Đông và Tây, chúng ta sẽ
lần lượt so sánh ít nhiều vấn đề:
1. Âm Dương với nguyên lý đồng nhất
Siêu Hình
Học Âu Châu dựa trên nguyên lý đồng nhất (Principe d'identité) nên không
chấp thuận rằng A vừa là A lại vừa có thể là B. Nói cách khác, các sự
vật, các hiện tượng chỉ có thể chuyển Dịch, tăng giảm, chứ không sao
biến thể được. Như vậy vũ trụ này sẽ không thể biến hóa vô cùng, và chỉ
là một sự nhắc đi nhắc lại của một số sự kiện với ít nhiều tăng giảm...
Dịch lý dĩ
nhiên không chấp nhận nguyên lý đồng nhất. Lý do rất là giản dị: Về
phương diện Tiên Thiên, thời Bản thể hằng cửu và duy nhất bất biến,
nên nguyên lý đồng nhất không cần phải đặt ra. Về phương diện Hậu
Thiên, thời mọi sự đều biến thiên, Âm biến Dương, Dương biến Âm, Âm
sinh Dương, Dương sinh Âm; trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, không
có gì là thuần nhất, không có gì là bất biến, mà mọi sự đều chuyển hóa
vô cùng tận. Chính vì thế mà nguyên lý đồng nhất không có chân đứng.
Cho nên
Dịch lý và Siêu Hình Học Âu Châu khác nhau ở chỗ một bên thì uyển chuyển
biến hóa, một bên thì ù lì ngưng đọng; một bên thì đi sát với thực tại,
một bên thì tách rời thực tại.
2. Âm Dương với quan niệm Thần, Hồn
Như trên
đã thấy từ quan niệm Âm Dương các triết gia Đông Á đã đi đến chủ trương
rằng Tâm thần con người có hai phần: là: Thần và Hồn.
Đa số các
triết gia Âu Châu từ lâu nay chỉ phân biệt xác hồn, hay tinh
thần và vật chất. Tuy nhiên, quan niệm Thần Hồn không phải là
không có ở Âu Châu. Một chứng cớ hiển nhiên là từ ngữ đã cho ta thấy di
tích của một thời đại xa xưa, và đã chứng minh một cách hùng hồn rằng
thời xưa, ở Âu Châu, cũng như ở Do Thái, quan niệm ấy đã được chủ
trương. Những tàn tích từ ngữ xưa còn xót lại như: Pneurma (Thần),
Psyché (Hồn); Ruah (Thần), Nephesh (Hồn), Esprit (Thần), Âme (Hồn), hoặc
những chuyện thần thoại xưa như Castor (Thần), Pollux (Hồn),
Eros-Psyché, Osiris-isis, đã chứng minh điều đó.
Gần đây đã
có một vài Triết gia Âu Châu trở lại quan niệm cổ sơ nói trên.
F.W. Myers
(1843 - 1901), một nhà Tâm Lý Học Anh đã chủ trương: Tiềm thức chính là
hồn vũ trụ, chính là Tiềm ngã, và trạng thái Huyền đồng chính là
sự tràn ngập của Tiềm ngã vào tâm thức con người.
William
James cũng theo chủ trương của F.W. Myers. James cho rằng: trạng thái
Huyền đồng chính là sự hợp nhất giữa Tâm thức (Nhân tâm) với Đại Ngã
(Đạo tâm) và nhờ vậy mà con người được giải thoát.
Bergson
chủ trương khác đi rằng: Huyền đồng không phải là tâm thức kết hợp với
vô thức, mà chính là với Thượng Đế. Nhờ trực giác, tâm hồn có thể kết
hợp với Thượng Đế. Lúc ấy tâm hồn bị Thượng Đế xâm nhập chẳng khác
nào lửa nhập vào sắt làm cho sắt đỏ rực lên.
Dung hợp
quan niệm Âm Dương, Thần Hồn của các Đơn gia, Đạo gia, quan niệm Tiềm
ngã của Myers, với quan niệm Huyền đồng của Bergson, ta có thể chủ
trương rằng: Huyền đồng chính là sự hợp nhất của tâm hồn với Thượng Đế,
nhưng Thượng Đế chẳng ở đâu xa, mà đã ẩn ngụ trong tiềm thức, vô thức
con người, mà Thượng Đế chính là Bản Thể con người, là Thần con
người.
Nếu quan
niệm này được chấp nhận, thì sau này Đông và Tây sẽ hợp nhất, Triết học
và Đạo giáo sẽ hợp nhất, và con người sẽ thấy rõ hướng đi của đại đạo,
là vào sâu trong tâm khảm mà tìm đạo, tìm Trời.
3. Âm Dương với quan niệm thiện ác
Như ta đã
thấy, theo chủ trương của Dịch Kinh, thì Âm Dương trên phiến diện tưởng
chừng như là mâu thuẫn nhau, nhưng kỳ thực trong căn cơ lại bổ túc lẫn
cho nhau, lại hằng tìm nhau, sinh ra nhau, muốn hòa hợp với nhau. Suy
ra, thì sự mâu thuẫn trên thế giới này chỉ là phiến diện, còn sự thân
ái, hòa hợp mới là then chốt, mới là căn bản.
Trong cơ
thể chúng ta chẳng hạn làm gì có sự mâu thuẫn nhau triệt để, mâu thuẫn
nhau thực sự. Nếu có sự mâu thuẫn kiềm chế nhau chăng nữa, thời cũng chỉ
cốt để khang kiện cho toàn thân.
Âm Dương
chẳng qua là hai phương diện, hai mặt trái phải của một thực thể. Chúng
hỗ tương ảnh hưởng, tác dụng trên nhau để sinh ra thiên biến vạn hóa,
nhưng đều qui hướng về mục đích là phát huy vũ trụ cho đến hoàn mỹ. Cho
nên sự phân biệt Âm Dương của Dịch Kinh chỉ là một sự phân biệt tương
đối. Âm Dương không phải là hai tử thù, mà chính là hai người bạn.
Cũng một
lẽ, Đối với Dịch, thì ở đời này thiện, ác, cát hung đều là tương đối.
Thời này cho thế này là hay là phải, thời khác cho thế kia mới là hay,
là phải, còn thế này là dở, là trái. Vả trong cái hay vẫn có cái dở,
trong cái thiện vẫn có cái ác.
Lão Tử
viết:
Khi đời
thấy đẹp biết khen
Thế là
cái xấu đã chen vào rồi.
Điều
hay mà rõ khúc nhôi,
Âu đành
dang dở, lôi thôi sinh dần.
Mới hay
không, có chuyên vần,
Dễ
sinh ra khó, vắn nhân thành dài.
Thấp
cao, tùy ngó ngược
xuôi,
Tiếng
ca trầm bổng, dòng đời trước sau...
Trang Tử
cũng cho rằng: Muốn cái hay mà không muốn cái dở, muốn trật tự mà không
muốn hỗn loạn, tức là không biết định luật của trời đất.
Héraclite
cũng cho rằng: Vũ trụ biến hóa để đi đến sự hòa hợp của mọi mâu thuẫn.
Ông còn cho rằng nếu chúng ta coi lành dữ như hai sự kiện mâu thuẫn,
sung khắc, chính là vì quan điểm ta còn hẹp hòi, và vì ta chưa biết qui
chúng về toàn bích, toàn thể. Qui tụ được chúng về toàn thể, toàn bích,
chúng sẽ hòa hiệp với nhau.
Đối với
Thượng Đế, mọi sự là đẹp, là phải, là hay. Nhưng con người cho rằng cái
này phải, cái kia không phải.
Thay vì
hai chữ Âm Dương, Âu Châu dùng hai chữ bóng tối, và ánh sáng. Khảo thư
tịch Âu Châu, ta cũng thấy hai quan niệm khác biệt nhau về Tối Sáng,
Thiện Ác.
1. Một
quan niệm cổ hơn, sâu sắc hơn cho rằng Tối Sáng, Thiện Ác là Nguyên Lý
Song Sinh do Thượng Đế sinh xuất.
Ta thấy
dấu vết này trong Đạo giáo cổ Ai Cập với Lưỡng Thần Osiris-Isis, hoặc
trong đạo Bái Hỏa với những quan niệm Ánh Sáng, Bóng Tối, Tinh thần và
Vật chất.
Sách
Ecclésiastique trong Cựu Ươc cũng viết: Thiện và Ác, Sống và Chết, nghèo
và giàu tất cả đều do nơi Chúa ( Eccl. 11. 14 )
2. Một
quan niệm mới hơn, phiến diện hơn, có tính cách thực dụng hơn coi Sáng,
Tối; Thiện, Ác như hai thực thể hoàn toàn đối kháng, thù địch nhau.
Bái Hỏa
Giáo về sau này cũng cho rằng có thần Thiện là Ahura-Mazdah hay Ormud và
có thần Ác là Angra Manyu hay Ahriman.
Đạo Mani
cũng chủ trương vũ trụ có hai căn nguyên: Ánh sáng và Tăm tối. Phía Bắc
là giang sơn của Ánh sáng, là nơi ngự trị của đấng Hằng Cửu. Phía Nam là
giang sơn của Tăm tối là nơi Satan ngự trị...
Quan niệm
Thượng Đế và Satan như là căn nguyên thiện ác cũng được thấy trong giáo
lý Công giáo...
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5 6
7 8
|