DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5 6
7 8
Phần 7
ÂM DƯƠNG
Chương 5. Âm Dương
với y học Trung Hoa
Quan niệm Âm Dương được triệt để áp dụng
trong y học Trung Hoa.
Trước đây
chúng ta đã đề cập đến ba hạng người. Dương tạng, Âm tạng, Bình tạng.
Về phương
diện bệnh học, người Trung Hoa cũng phân biệt Dương bệnh và Âm bệnh.
Dương bệnh là những bệnh ngoại cảm. Âm
bệnh là những bệnh nội thương.
Dương bệnh nhiều khi còn được gọi là thực
chứng; Âm bệnh được gọi là hư chứng.
Dương bệnh
cũng là những bệnh do khí lực hư hao, hoặc thận hỏa suy. Âm bệnh là
những bệnh sinh ra vì huyết Dịch hư hao, hay thận thủy suy.
Khi con bệnh đã suy kiệt Dương khí,
thì y học gọi là Dương thoát. Dương thoát
có những triệu chứng sau đây: Mạch hầu như đã tuyệt; Tứ chi giá lạnh;
Trán vã mồ hôi; Thở hắt ra; Khó thở; Nấc; Hôn mê; Lưỡi co v.v...
Khi con bệnh mà Âm suy kiệt,
huyết Dịch suy kiệt, thời y học
gọi là Âm hư. Âm hư có những triệu chứng
sau đây: Mạch vi, mạch khẩn; Nhiệt độ cao; Mặt đỏ, Người khô đét như
củi; Vật vã; Khát nước nhiều; Mê sảng.
Khi con bệnh mà khí huyết đều hao kiệt,
thời Y học gọi là Âm hư Dương Thoát. Triệu
chứng như sau:
- Tứ chi
giá lạnh; Trán vã mồ hôi; Hôn mê, Thở như suyển, Nấc cụt.
Nguyên tắc chữa bệnh, chính là bồi bổ Âm Dương,
điều hòa Âm Dương. Dương thịnh thì bổ Âm để chế bớt ánh Dương. Âm
thịnh thì bổ Dương, để làm tiêu tan cái u uất cửa Âm. (Bổ thủy dĩ chế
dương quang; bổ hỏa dĩ tiêu âm ế.)
Các vị thuốc cũng chia thành Âm, Dương,
hay Bình vị.
Dương dược là những thuốc nóng,
có hiệu lực làm gia tăng sự tiêu
hóa, thúc đẩy sự hô hấp, sự tuần hoàn, bồi bổ khí lực.
Âm dược là những thuốc mát,
có hiệu lực bồi bổ huyết Dịch, làm cho con người bớt nóng, bớt háo.
Những vị
thuốc bình vị, là những vị thuốc hòa hoãn, vừa bổ Dương, vừa bổ Âm.
Phương
dược dùng để trị liệu điều hòa Âm Dương, khí huyết có thể toát lược như
sau:
a/ Trị liệu Dương khí
1 - Khi
dương khí gần thoát tuyệt, người xưa thường
cấp trị bằng: Nhân sâm, hoặc Quế, Phụ.
2 - Khi
dương khí hao tổn, giao động vừa phải, thời
dùng:
- Bài Tứ
quân (để bổ khí)
- Bài Bổ
Trung Ích Khí thang, hoặc Phụ Tử Lý Trung
3 - Khi
dương khí, thận khí suy tổn đã lâu, thời
dùng:
- Bài Bát
vị
- Bài Sinh
Mạch
b/ Trị liệu Âm huyết
1 - Khi
huyết dịch suy tổn thời dùng: Bài Tứ Vật,
bài Qui Tì.
2 - Khi
thận thủy suy tổn thời dùng bài Lục Vị.
c/ Bình bổ
Muốn
bình bổ cả Âm lẫn Dương, cả khí lẫn huyết,
nguời ta dùng bài Bát Trân hay Thập Toàn...
Để nhận
định được tầm quan trọng của quan niệm Âm Dương đối với Y học, ta hãy
đọc một đoạn của Trương Cảnh Nhạc: Phàm chẩn bệnh
trị liệu, trước hết phải thẩm định Âm Dương. Đó là cương lĩnh của
Y học.
Luận về Âm
Dương không sai, thời trị bệnh làm sao mà sai được? Y học tuy phiền tạp,
nhưng có thể bao quát bằng một câu: Âm Dương mà thôi.
Cho nên
bệnh có Âm Dương, mạch có Âm Dương, thuốc có Âm Dương.
Lấy bệnh mà nói, thời bệnh
bên ngoài là Dương, bên trong là Âm; nhiệt là Dương, hàn là Âm; trên là
Dương, dưới là Âm; khí là Dương, huyết là Âm; động là Dương, tĩnh là Âm;
nói nhiều là Dương, không nói là Âm; thích sáng là Dương, ưa tối là Âm;
Dương yếu không thể thở ra, Âm yếu không thể hít vào; Dương bệnh khó
cúi, Âm bệnh khó ngửa.
Nói về
mạch, thì mạch phù, mạch mạnh, mạch hoạt, mạch xác là Dương; mạch trầm,
mạch vi, mạch nhỏ, mạch rít là Âm. Nói về thuốc
thì thăng tán là Dương; liễm giáng là Âm; tấn nhiệt là Dương, khổ hàn là
Âm. Chạy vào khí là Dương, chạy vào huyết là Âm; tính động mà
chạy là Dương, tính tĩnh mà giữ là Âm. Đó là đại pháp trong nghề
thuốc...
Dương đã mạnh còn bổ Dương, thời Dương
càng bốc lên mạnh, Âm càng tiêu hao.
Dương đã không đủ mà lại còn dưỡng Âm,
còn dùng Âm phương, thời Âm càng thịnh, mà Dương bị diệt vong vậy.
Nếu minh
biện Âm Dương thời dẫu y lý tuy huyền vi, nhưng cũng đã suy ra được quá
nửa rồi vậy...
CHÚ THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5 6
7 8
|