DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5 6
7 8
Phần 7
ÂM DƯƠNG
Chương 3. Quan niệm
Âm Dương
Quan niệm
Âm Dương thoạt nhìn thì giản dị, nhưng càng suy khảo càng thấy khúc mắc,
khó khăn.
Cho nên,
muốn hiểu rõ Âm Dương, ta sẽ khảo cứu Âm Dương dưới nhiều khía cạnh.
1. Ta có
thể coi Âm Dương không phải là hai thực thể riêng rẽ đối lập, mà chỉ là
hai chiều hai mặt của một Thực thể duy nhất.
2. Ta cũng
có thể coi Âm Dương như hai thực thể riêng rẽ có nhiều loại tác dụng
trên nhau.
3. Ta có
thể khảo Âm Dương trên phương diện Tiên Thiên.
4. Ta có
thể khảo Âm Dương trên phương diện Hậu Thiên. Mỗi quan điểm, mỗi khía
cạnh nói trên sẽ cho ta những nhận định khác nhau về Âm Dương.
1. Âm Dương, hai chiều hai mặt của một
thực thể duy nhất
Nếu ta
khảo sát Âm Dương trên giòng biến Dịch chuyển hóa, thì ta có thể coi Âm
Dương như là hai chiều, hai mặt của một thực thể duy nhất.
Chu Hi
viết: Âm Dương tuy là hai chữ, nhưng lại chỉ là một
Khí tăng giảm, một tiến một thoái, một sút
một lớn; khi tiến thì là Dương, khi thoái thì là Âm; khi tăng trưởng thì
là Dương, khi giảm thiểu thì là Âm. Chỉ nguyên có một Khí giảm hay tăng
mà tạo nên muôn vạn sự trong trời đất từ xưa tới nay. Cho nên gọi Âm
Dương là một cũng được, mà là hai cũng được.
Gần đây
bên phía trời tây, Teilhard de Chardin cũng viết: Vật chất và tinh thần
không phải là hai thực thể, mà là hai trạng thái, hai phương diện của
một Bản Thể vũ trụ, tùy như ta nhìn theo chiều sinh, hay chiều diệt,
chiều tăng, hay chiều giảm.
Trương Tải
viết: Không có Hai đứng ra, thời Một không trình hiện, thời công dụng
của Hai cũng chẳng còn. Hai thể là hư và thực, động và tĩnh, tụ và tán,
thanh và trọc, nhưng suy cho cùng thì cũng là một vậy...
Một vật mà hai thể là Khí.
Một nên là Thần, Hai nên là Biến hóa.
Có Hai thì
có Một, ấy là Thái Cực vậy... Một vật là hai thể, ấy gọi là Thái Cực ư?
Như vậy
đối với Trương Tải, thời Âm Dương chính là hai phương diện của một thực
thể duy nhất. Chu liêm Khê viết: Vô Cực rồi Thái Cực. Thái Cực động nên
sinh Dương, động cực rồi lại tĩnh; tĩnh nên sinh Âm. Tính cực rồi lại
động trở lại. Một động, một tĩnh, làm căn cơ lẫn cho nhau; phân Âm, phân
Dương, nên Lưỡng Nghi lập vậy.
Tóm lại,
chúng ta thấy rằng các Triết gia Trung Hoa không bao giờ cho rằng Âm
Dương là hai thực thể riêng biệt thực sự, mà trái lại có liên lạc mật
thiết với nhau, cái nọ có thể sinh ra cái kia, cái kia có thể biến thành
cái nọ...
Dịch Kinh
rất trọng Âm Dương. Đầu Thượng kinh để hai quẻ Kiền, Khôn. Đầu Hạ kinh
để hai quẻ Hàm, Hằng.
Kiền, Khôn
ở Thượng kinh còn tách rời nhau để định vị, để phân tôn ti.
Nhưng ở Hạ
kinh, thời Sơn (Dương), Trạch (Âm) hòa hợp nhau (Sơn Trạch thông khí) để
thành quẻ Hàm; Phong (Âm), Lôi (Dương) tăng cường lẫn nhau (Phong Lôi
tương bác) để thành quẻ Hằng.
Ở Thượng
kinh, Kiền, Khôn là khí hóa chi thủy
(khí trời khí đất bắt đầu biến hóa) thời Thoán truyện quẻ Kiền lại có 4
chữ phẩm vật lưu hình.
Ở Hạ kinh,
Hàm là hình hóa chi thủy (hình hài bắt đầu
biến hóa) thời lại có 4 chữ nhị Khí cảm ứng.
Ý muốn nói Hình và Khí, Âm và Dương không hề rời nhau.
Thoán
truyện quẻ Kiền đề cập đến chữ Tính, Thoán
truyện quẻ Hàm đề cập đến chữ Tình. Thoán
truyện quẻ Phục nói đến Thiên địa chi tâm,
Thoán truyện quẻ Hàm nói đến Nhân tâm.
Thế là
Tính, Tình không hề rời xa nhau; Trời, Người chẳng hề xa nhau, Hình Khí
chẳng hề xa nhau. Âm Dương có hòa hài, thì vạn vật mới sinh. Trong nhân
quần, Âm Dương có hòa hài, thì nhân luân mới có cơ bền vững, xã hội mới
có cơ thanh bình.
Ngoài vũ
trụ, Âm Dương là Đất Trời; trong nhân quần Âm Dương là nam nữ. Vũ trụ là
một từ trường bao la, nhân quần là một từ trường rộng lớn. Vạn vật hấp
dẫn, cảm ứng nhau không ngừng, nên mới có được thế giới ngày nay.
Vạn vật
cũng như con người không thể sống riêng rẽ, cũng không phải sinh ra để
mà chống đối lẫn nhau, nhưng chính là để cộng tác, hòa hài cùng nhau.
Vì thế
người xưa mới nói: Cô Âm tắc bất sinh, Cô Dương
tắc bất trưởng, cố Thiên Địa phối dĩ Âm Dương. Nam dĩ nữ vi thất, nữ dĩ
nam vi gia, cố nhân sinh ngẫu dĩ phu phụ. Âm Dương hòa nhi hậu vũ trạch
giáng; phu phụ hòa nhi hậu gia đạo thành.
Tạm Dịch:
Cô Âm,
không thể sản sinh,
Cô
Dương, không thể hoa vinh, xương phồn.
Cho nên
Trời Đất đôi đàng,
Hòa
hài, chẳng có quải gàng khi nao.
Trai
thời tìm gái tất giao,
Gái
mong chắp nối tơ đào với trai.
Cho nên
từ có loài người,
Gái
trai phối ngẫu, nên đôi vợ chồng.
Âm
Dương, Trời Đất hòa đồng,
Rồi ra
vũ trạch, non sông ơn nhờ,
Vợ
chồng chắp nối duyên tơ,
Rồi ra
gia đạo có cơ vững vàng.
Như vậy
thời Dịch kinh cho rằng nhờ có khí Trời, khí Đất hòa hài, nên vạn vật
mới có thể hóa sinh, trưởng dưỡng; nhân quần có hòa hài, thì xã hội mới
có cơ thanh bình, thịnh trị.
Dịch chủ
trương hòa hợp chứ không chủ trương chia ly; Dịch đề cao sự giao hòa,
chứ không cổ súy sự mâu thuẫn, chống đối. Những mâu thuẫn mà ta tưởng là
thấy có ở trong hoàn vũ này chỉ là những mâu thuẫn phiến diện, nhưng suy
cho cùng đó chỉ là một sự phân công, để mỗi đằng lo chu toàn về một
phương diện, để lúc hòa hợp lại sẽ có một sự hoàn hảo toàn bích.
Thoán
truyện quẻ Khuê viết:
Đất
Trời đôi ngả phân phôi,
Nhưng
mà công việc, thời thôi một vành.
Gái
trai, đôi ngả phân trình,
Nhưng
mà ý chí, tâm tình cảm thông.
Muôn
loài, cách biệt giống giòng,
Nhưng
mà công việc cũng không quải gàng.
Sự đời,
ngang trái, dở dang,
Mà dùng
nên chuyện, ấy trang hiền tài...
2. Âm Dương hai thực thể riêng rẽ có
nhiều loại tác dụng trên nhau
Tuy nhiên,
nếu ta tạm quên thời gian, tạm quên mọi cuộc biến hóa, thì ta thấy như
Âm Dương là hai thực thể đối đãi nhau, tách biệt nhau, tuy vẫn có liên
lạc với nhau về phương diện cơ cấu, cũng như về phương diện tác dụng.
Các Triết
gia Trung Quốc đại khái cho rằng:
1/ Trong
Âm có Dương, trong Dương có Âm.
2/ Âm cực
sinh Dương, Dương cực sinh Âm.
3/ Âm có
thể biến thành Dương, Dương có thể biến thành Âm.
4/ Cô
Dương bất sinh, Cô Âm bất hóa. Nói cách khác Âm Dương riêng rẽ, cô lập
thì không làm nên công chuyện gì.
5/ Âm
Dương phải tác dụng trên nhau mới sinh ra mọi cơ vi biến dịch.
Những tác
dụng giữa Âm và Dương rất là đa đoan, phức tạp. Ta có thể ghi nhận ít
nhiều hình thức tác dụng chính như sau:
1/ Tương
thừa (invasion réciproque)
2/ Tương
khắc (Antimonie ou antagonisme)
3/ Tương
chế (Inhibition)
4/ Tương
hóa (Catalyse réciproque)
5/ Tương
thành (Réalisation réciproque)
6/ Kế tục
luân phiên nhau (Alternance)
7/ Tương
sinh (Génération réciproque)
8/ Tương
hại (Destruction réciproque)
9/ Phản
phúc (Bouleversement ou Révolution)
10/ Tương
giao (Échange)
11/ Bất
tương giao (Indifférence)
12/ Thắng
(Dominance)
13/ Phụ
(Récession)
14/ Tương
đãng (Recouvrement réciproque)
15/ Phục
(Latence)
16/ Khởi
(Manifestation) v.v...
Cho nên,
nếu chúng ta chỉ nói là Âm Dương mâu thuẫn chống đối nhau thì thiệt là
thiếu sót; hoặc cô Âm, cô Dương (duy vật, duy linh) thì cũng hết sức chủ
quan, không bao quát được hết thực tại...
Suy cho
cùng, thì muốn hiểu về Âm Dương, phải hiểu nhẽ đối đãi trong Trời Đất.
Đối đãi là hai chiều, hai hướng, hai
cực, hai trạng thái đối đỉnh, đối lập nhau. Vũ trụ này đã được xây dựng
trên nền móng đối đãi.
Ngay Tuyệt
đối cũng có đối đãi là Tương đối. Cho nên đã có Hằng thời có Biến; đã có
khiếm khuyết tất thị phải có viên mãn; đã có Vật, thế tất phải có Thần;
có gian lao thế tất phải có hạnh phúc...
Thế giới
tương đối chúng ta này dĩ nhiên là tràn đầy những cặp đối đãi.
Chu Hi
viết: Đông Tây, trên dưới, lạnh nóng ngày đêm, sống chết đều tương phản
lại nhau, và sóng đôi với nhau. Trong Trời Đất, chưa từng có vật nào lại
không có cái đứng sóng đôi với mình.
Như trời
sinh vật, không thể sinh một mình Âm, ắt là phải có Dương, không thể
sinh một mình Dương, ắt phải có Âm, ấy đều là đối đãi cả.
Như vậy,
nếu hiểu nhẽ Âm Dương đối đãi cho rành rẽ, hễ đã biết một, tất sẽ biết
hai, biết được một phương diện, sẽ suy ngược lại, mà tìm ra phương diện
đối đãi, sau đó hợp nhất cả hai phương diện lại, sẽ tìm ra được bộ mặt
thực của vật thể, của vũ trụ cũng như của con người...
3. Âm Dương trên phương diện Tiên Thiên
Người xưa
đã phân biệt Âm Dương Tiên Thiên và Âm Dương Hậu Thiên. Dịch Kinh Đại
Toàn nơi trang 38 có câu:
Vô Cực chi tiền, Âm hàm Dương dã. Hữu tượng chi hậu, Dương phân Âm dã.
Ở trong
Tiên Thiên thì Âm hàm Dương, như vậy tức là Dương ở trong, Âm ở ngoài.
Ở nơi Hậu
Thiên, thì dĩ nhiên là cục diện sẽ đảo ngược: Dương sẽ ở ngoài mà Âm sẽ
ở trong.
Dựa vào
các đồ bản Dịch trong quyển Chu Dịch Xiển Chân của Lưu nhất Minh, nhất
là đồ bản Tiên Thiên Viên Đồ thường thấy trong các sách Dịch, chúng ta
có thể suy diễn về Âm Dương Tiên Thiên như sau:
Âm Dương
sở dĩ sinh là do sự phân cực của một thực thể duy nhất.
Để dễ suy
luận, ta hãy tưởng tượng thực thể duy nhất như một hình cầu. Như vậy sự
phân cực sẽ có ba chiều hướng: Trong - Ngoài ; Trên - Dưới ; Tả -
Hữu.
Nếu ta
chấp nhận Trung Tâm Điểm của hình cầu nói trên như là nguồn gốc phát
tiết ra ánh sáng và sự sống, nếu ta chấp nhận qui ước của Dịch lấy phía
tả làm phía Đông, phía mặt trời mọc, phía ánh sáng; phía hữu làm phía
Tây, phía mặt trời lặn, phía tối tăm; nếu ta chấp nhận khinh thanh thì
bốc lên trên, trọng trọc thì lắng xuống dưới, ta sẽ gọi:
Phía trên,
phía Tả, phía trong là Dương.
Phía dưới,
phía Hữu, phía ngoài là Âm.
Từ trên
xuống dưới, từ trái sang phải, từ trong ra ngoài là chiều Âm. Từ dưới
lên trên, từ phải sang trái, từ ngoài vào trong là chiều Dương.
Như vậy ta
thấy ngay được rằng cơ cấu vũ trụ cũng như cơ cấu con người, không có
đồng đẳng ở mọi chiều hướng, mà trên dưới khác nhau, phải trái khác
nhau, trong ngoài khác nhau, ngay trên bình diện cơ cấu và tổ chức.
Ở nơi con
người, ta thấy một cách dễ dàng rằng tinh thần thời ở trên, ở trong, vật
chất thời ở dưới, ở ngoài. Suy ra thì tinh thần phải qui tụ nơi đầu não
con người...
Đi từ trong ra ngoài, là đi xa lìa Chân
tâm, xa lìa Thượng Đế, để tiến về phía ngoại cảnh vật chất.
Đó là đi theo chiều Âm, vì càng
ngày tâm thần càng trở nên u tối, đối với những vấn đề siêu nhiên, thần
bí; vì con người càng ngày càng trở nên thực tiễn, thực tế. Đó là
những con người hướng ngoại, và tinh thần
họ càng ngày càng tản mạn, phá tán. Họ sẽ chịu ảnh hưởng của
lực ly tâm (force centrifuge).
Đi từ ngoài vào trong, là tiến từ vật chất trở
ngược về tâm thần, để tìm về Chân tâm, tìm về Bản thể hằng cửu, tìm về
Thượng Đế. Đó là chiều Dương, vì càng ngày tâm thần càng trở nên
sáng suốt, dễ dàng lĩnh hội được các vấn đề siêu nhiên, vì con người
càng ngày càng trở nên khinh khoát tiêu sái, lý tưởng. Đó là
những con người hướng nội; họ sẽ chịu ảnh
hưởng của định luật hướng tâm (force
cetripète), nghĩa là tinh thần họ càng ngày càng được tập trung, càng
được định tĩnh, trở nên vô trước, vô lậu.
Đi từ
trong ra ngoài cũng y như đi từ các tầng trên xuống các tầng lớp dưới,
đi từ trời xuống đất. Đó là trạng thái Âm càng ngày càng thắng Dương, và
con người càng ngày càng trở nên sa đọa về tinh thần, tiến bộ về vật
chất.
Đi từ
ngoài vào trong, cũng y thức như đi từ các tầng lớp dưới lên các tầng
lớp trên, đi từ đất lên trời, từ vật đến Thần. Đó là trạng thái Dương
càng ngày càng thắng Âm, và con người càng ngày càng tinh tiến trên
phương diện tinh thần, càng thoát ly vòng kiềm tỏa của vật chất.
Người
thường cho Hữu là Dương, Tả là Âm, nguời tu đạo thì lại cho Tả là Dương,
Hữu là Âm. Nguời tu đạo như vậy sẽ đi ngược với đường lối thế nhân.
Cái gì thế nhân cho là hay là phải (Dương: phải,
droit, dextre, right), thì người tu đạo lại cho là dở là trái
(Âm: gauche, sinistre, left, trái).
Như vậy
càng thấy rõ chuyện đời tất cả đều tương đối. Nhận định về Âm Dương như
trên, tuy ngược với nhận định thông thường về Âm Dương, nhưng lại giúp
ta tìm ra được những định luật thiên nhiên chi phối quá trình tiến hóa
của cá nhân cũng như của nhân loại.
Ở nơi cá nhân, ta thấy từ bé cho đến
lớn, cho tới khi đứng tuổi, khoảng 40-45, con người thường hướng ngoại.
Khi ấy con người càng ngày càng xa lìa các giá trị tinh thần, để lăn
mình vào đời sống thực tiễn và vật chất.
Nhưng khi mái tóc đã hoa râm, khi đã
đứng tuổi, khi mà tâm sự đã bắt đầu ngả sang thu, thì con người lại bắt
đầu chuyển hướng. Lúc ấy con người lại muốn đi tìm những giá trị tinh
thần, lại muốn quay trở về lòng mình để mà tu tâm, luyện tính.
Vả lại,
thể chất và tinh thần chúng ta thịnh suy, tiêu trưởng theo những nhịp
điệu ngược nhau.
Thể chất
mới bắt đầu thì yếu đuối, nhưng theo đà tuế nguyệt, sẽ nở nang, cường
tráng mãi thêm ra cho tới một cực điểm và khoảng 40-45, sau đó dần dần
lại suy vi tàn tạ cho tới khi chết.
Tinh thần
thì ngược lại, càng nhỏ càng thanh tao càng hùng mạnh, nhưng theo đà
thời gian, tinh thần một ngày một trở nên phôi pha, tản mạn, cho tới một
cực độ vào khoảng 40-45. Sau đó, nếu như biết tu luyện, tâm thần sẽ có
cơ phục sinh, và phát triển cho tới khi chết. Lúc chết, chính là lúc
tinh thần phải lên tới cực điểm tinh hoa. Vì thế mà, khi muốn kỷ niệm
các vị Thánh Hiền, người ta thường chọn ngày các ngài viên tịch, thành
đạo...
Xét lịch
sử nhân loại, từ khi có văn tự, văn hóa đến nay, ta thấy nhân loại tiến
dần từ những trạng thái thần linh, đến những trạng thái vật chất.
Khi mà
sinh hoạt vật chất bắt đầu thịnh, thì thiên hạ lại xúm vào chê bai những
sinh hoạt tâm linh cho đó là mê tín, dị đoan, lạc hậu, lỗi thời... Lúc
mà sinh hoạt tâm linh thịnh, thì mọi người đều khinh chê vật chất.
Trên đà
tiến về vật chất ngoại cảnh, mỗi sự thoát ly khỏi vòng ảnh hưởng tâm
linh, thường được coi như là một thắng lợi, một tiến bộ. Nhưng kỳ thực,
chặng đường từ tâm linh, tâm thần xuống tới vật chất, ngoại cảnh, phải
được coi là một sự sa đọa, thoái hóa.
Sau này
khi văn minh vật chất lên đến cực điểm, con người lại sẽ thật sự hoài
vọng tinh thần, sẽ lại chuyển hướng về phía tâm linh và mỗi một hành
động thoát ly khỏi sự kiềm tỏa vật chất, lại sẽ được coi là một sự vươn
lên, một sự tiến bộ chân thực.
Âu cũng là
câu chuyện nợ đồng lần...
Có một
điều cũng nên ghi nhận là Âm luôn muốn tiến về Dương, Dương luôn muốn
tiến về Âm. Vì thế mà, sống trong những tổ chức sinh hoạt tinh thần, con
nguời thường mơ ước những lạc thú vật chất; sống trong những xã hội vật
chất con người lại khao khát những lạc thú tinh thần.
Cũng vì
thế mà khi còn trẻ, ta thường có những khuynh hướng vật chất, thế tục,
hướng ngoại; đến lúc trở về già, ta lại có những khuynh hướng siêu
nhiên, hướng nội...
4. Âm Dương trên
phương diện Hậu Thiên
Bây giờ
chúng ta hãy dở thư tịch Trung Hoa, xem họ nhận định về Âm Dương một
cách thực tế, thực tiễn ra sao. Tạ vô Lượng viết: Dương là cứng, là
mạnh, là con giai, là vua, là động, là sáng, là
phía ngoài, là giãn, là Trời, là Kiền, là mặt trời, là Thần, là
ngày, là con đực, là hiển.
Âm là mềm,
là yếu, là con gái, là bầy tôi, là tĩnh, là tối,
là phía
trong, là co, là đất, là Khôn, là mặt
trăng, là Quỉ, là đêm, là con mái, là ẩn...
Quỉ Cốc tử
cho rằng: Dương là mở, là nói, là mọi điều hay như sống lâu, an lạc, phú
quí, tôn vinh, hiển danh, đắc ý, hỉ dục v.v...
Âm là
đóng, là yên lặng. Âm gồm mọi điều xấu như chết non, ưu hoạn, bần tiện,
khổ nhục, vong lợi, thất ý, hình lục v.v...
René
Guénon, trong bài khảo luận của ông về Âm Dương, trong quyển La Grande
Triade đã cho rằng:
Dương là
tất cả những gì thuộc tinh thần, vì tinh thần và ánh sáng là một, còn Âm
là tất cả những gì thuộc vật chất. Ông dùng từ ngữ Triết học mà cho rằng
Dương là cái gì hiện hữu, Âm là cái gì tiềm ẩn.
Đổng Trọng
Thư, trong quyển Xuân Thu Phồn Lộ đã viết: Vật gì cũng phải có cái để
hợp. Đã có hợp tức là có trên có dưới, có Tả có Hữu, có trước có sau, có
trong có ngoài, có tốt có xấu, có thuận có nghịch, có vui có giận, có
lạnh có nóng, có ngày có đêm, đó đều là hợp nhau vậy. Âm là để hợp với
Dương, vợ là để hợp với chồng, con là để hợp với cha, tôi là để hợp với
vua. Vật nào cũng có cái hợp, mà hợp là có Âm Dương... Vua là Dương, tôi
là Âm; cha là Dương, con là Âm; chồng là Dương, vợ là Âm...
Nhiệm Ứng
Thu, trong quyển Âm Dương Ngũ Hành của ông xuất bản gần đây, tại lục địa
Trung Quốc, đã nhận định về Âm Dương như sau:
Dương là
một khái niệm hết sức rộng rãi, Dương là động, Âm là tĩnh; Dương là
xướng, Âm là tùy; Dương là cương, Âm là nhu; Dương là ban phát, Âm là
thâu nhận; Dương là thăng, Âm là giáng; Dương là trước, Âm là sau; Dương
là trên, Âm là dưới; Dương là trái, Âm là phải. Tiến là Dương, thoái là
Âm. Dương thời đi nhanh, Âm thời đi chậm v.v...
Như vậy
thì bất kỳ việc gì đã có đối đãi, lập tức có thể
phân thành Âm Dương...
Tố Vấn cho
rằng: Trong con người, thì ngoài là Dương, trong là Âm, bụng là Âm, lưng
là Dương; tạng là Âm, phủ là Dương.
Cho nên
Ngũ tạng: tâm, can, tì, phế, thận đều thuộc Âm. Lục phủ: đởm, vị, đại
tràng, tiểu tràng, bàng quang, tam tiêu đều thuộc Dương.
Đối với Y
học Trung Hoa, thì Dương chủ khí lực; Âm chủ huyết.
Các
mạch nơi cổ tay phải đều thuộc Dương:
Mạch Thốn : Phổi (Kim)
Mạch Quan : Tì (Thổ)
Mạch Xích : Thận hỏa (Hỏa)
Các
mạch nơi cổ tay trái đều thuộc Âm:
Mạch Thốn : Tim (Hỏa)
Mạch Quan : Gan (Mộc)
Mạch Xích : Thận thủy (Thủy)
Người cũng
chi làm ba hạng:
Dương tạng
Âm tạng
Bình tạng
Dương tạng
là những
người có khí lực mạnh mẽ, da nóng, mặt mũi hớn hở, tóc đen rậm và tốt,
tiếng nói to, hơi thở mạnh, ăn uống dễ tiêu, tính tình nóng nảy, sống
lâu...
Âm tạng
là những người sợ lạnh, da mát và ướt,
mặt mũi hơi xanh, tóc mềm, lông thưa, người mau mệt, tiếng nói yếu ớt,
hay đày hơi, hay bị tiêu chảy, lộ hầu, thịt mềm nhẽo, tính tình trầm
tĩnh, v.v...
Bình tạng
là những người cả hai phương diện khí huyết đều mạnh ngang nhau.
CHÚ
THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3 4
5 6
7 8
9
| chương 1 2
3 4
5 6
7 8
|