TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ
»
MỤC LỤC |
NGUYÊN |
HANH |
LỢI |
TRINH
NGUYÊN TẬP
» 1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14
15 16
17 18
19 20
21 22
23
24 25
26 27
28
29 30
31
32 33
34 35
36 37
38 39
40 41
42 43
44 45
46 47
48 49
50 51
52
2. ĐẠI ĐẠO THUYẾT 大 道 說
Thượng Thánh Bao Hi (Phục
Hi) lập Bát Quái dạy người đạo Dưỡng sinh.
Quảng Thành Tử nói với Hoàng
Đế: «Chí Âm lạnh lẽo, Chí dương nóng nảy. Hàn Lãnh sinh từ đất. Nóng nảy
phát tự Trời. Ta giúp Ngài đạt cảnh giới Thái Dương, đạt tới căn nguyên
của Chí Dương; giúp Ngài vào nơi tăm tối u Minh, đạt tới Căn Nguyên của
Chí Âm.» Hiên Viên (Hoàng Đế) tái bái và thưa: «Quảng Thành Tử thật
thâm hiểu lẽ Tự Nhiên, thật là Trời vậy.»
Chu Công viết trong Hệ Từ:
«Quân Tử chung nhật kiền kiền.» 君 子 終 日 乾 乾.
Khổng tử viết trong Thập
Dực: «Chung nhật Kiền kiền, phản phục Đạo dã.» 終日 乾 乾, 反 復 道也.
ĐẠO LÀ GÌ?
Đạo là cái gì Lập Thiên Địa,
làm cho Trời Đất được chính ngôi chính vị, làm cho muôn vật được dưỡng
dục, cho mặt trời mặt trăng sáng láng, cho Ngũ Hành sinh hoá, đó là Đạo.
Nhiều thì vô số như cát sông
Hằng, cô đơn thì không có ai làm bạn lữ. Đó là Đạo. Nhập vào Hồng Mông
rồi lại trở về Minh Tể, đó là Đạo.
Làm mọi việc của Hoá Công
nhưng cũng siêu phàm nhập thánh được Đó là Đạo.
Trước mắt tình hình chưa rõ,
mà đột nhiên Linh thông được, đó là Đạo. Trước mắt thấy chết không sao
thoát được, đó là Đạo.
Ở nơi thấp hèn, đê tiện
nhưng vẫn đại tôn quí, đó là Đạo. Ở nơi u minh, vẫn cực cao minh, đó là
Đạo. Nhỏ chui lòng bụi, lớn trùm trời đất, đó là Đạo. Từ Vô nhập Hữu là
Đạo. Tác Phật, thành Tiên đó là Đạo.
ĐẠO SINH RA VẠN VẬT CÓ THỨ TỰ, TUẦN TIẾT
A. Truy tới bản nguyên, do
một khí ngưng tập, hỗn hỗn mang mang, thâm thuý khôn lường, tương hỗ tác
dụng mà hoạt động, hoá sinh, bao hàm vạn Linh, tận kỳ thần diệu. Đó là
NGUYÊN KHÍ, đó là trạng thái của một vật bắt đầu khởi thuỷ. Đó là Đạo.
Thế gọi là NGUYÊN THUỶ.
B. Khi trời đất bắt đầu, thì
một khí động đãng, Hư Vô khai hợp, Sống Mái cảm chiêu, Hắc Bạch ngưng
tụ, Hữu Vô hỗ tương tác dụng, hỗ tương chuyển hoán, đạm bạc hư tĩnh, chí
thánh, chí thần, áo diệu, Linh thiêng, thần minh biến hoá.Giữa cái mơ
màng hoảng hốt đó, sinh ra phép tắc tự nhiên cho vũ trụ. Đó gọi là THÁI
DỊCH. Đó là CÁI BẮT ĐẦU. Thế gọi là Đạo sinh Nhất. Thế là NGUYÊN THUỶ.
C. Bản Nguyên Trời Đất là
THÁI CỰC. Một khí chia hai. Thế là thế giới tự nhiên tuỳ tiện phân hoá.
Phân thành ÂM DƯƠNG. Thế là THÁI CỰC. Thế là Nhất sinh Nhị 一 生 二. Thế là
HƯ HOÀNG 虛 皇.
D. Âm Dương đã tách biệt,
thế là có Trời Đất, có Con Người. Thế là Nhị sinh Tam 二 生 三. Thế là HỖN
NGUYÊN 混 元.
Khí Dương khinh thanh bay
lên, sáng láng, rực rỡ, sinh ra Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần. Cho nên Trời
thì xoay trái, Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần thì xoay phải.
Khí Dương trong sáng bay lên
hợp với Trời. Cho nên có Phong, Vân, Lôi, Vũ.
Âm khí trọng trọc, ngưng trệ
xuống đất, thành sông biển, thành núi non, thành ngũ cốc, thảo mộc tốt
tươi.
Hang núi sinh mây, sơn trạch
thông khí. Nếu Âm Dương bế kết không giao nhau, thì có sương tuyết, và
lạnh đóng thành băng. Âm khí trọng trọc sẽ ngưng đọng và ngưng tụ xuống
dưới, sẽ đóng vào hang động, và ta có Ngũ cốc, Bát thạch. (Bát thạch là
những chất Liệu Đơn gia dùng luyện đơn. Đó là: Đơn Sa, Hùng Hoàng, Thư
Hoàng, Không Thanh, Lưu Hoàng, Vân Mẫu, Nhung Diêm, Tiêu Thạch)
Trong cõi trời đất này,
chính khí Âm Dương giao hoán sinh ra thánh, hiền, tiên, phật, thứ dân,
hiền ngu, thọ yểu, các loài do Thai Noãn Thấp Hoá (như Người, Thú vật
(thai), chim chóc, cá rùa (Noãn), các loài sâu bọ như trùng, yết
(Thấp), hay tự nhiên xuất hiện, như Chư Thiên, Địa Ngục (Hoá). Thế là
Tam sinh Vạn vật 三 生 萬 物.
SỐNG TRONG ĐỜI, BẢN TÍNH TRỜI CHO ĐÃ MẤT SỰ TINH
TOÀN, HOÀN THIỆN. CON NGƯỜI PHẢI BIẾT CÁCH TU SỬA LẠI CHUYỆN ĐÓ, BẰNG
PHƯƠNG PHÁP «THỦ KHẢM ĐIỀN LY»
Con ngưới nhờ Âm Dương nhị
khí hun đúc mà sinh trưởng. Khi tròn 16 tuổi, thì Cửu Tam chi Dương đã
thuần, nên cũng sánh được với người ĐẠI NHÂN, THƯỢNG ĐỨC. Nhưng một ngày
kia, con người Càng ngày Càng đục đẽo Thiên Chân, Hỗn Độn, nên quẻ
Kiền không còn tinh thuần, mà biến thành Ly có hào Âm ở giữa, và quẻ
Khôn cũng biến thành Khảm...
Chí thánh, Thần Nhân, hiểu
biết lý do sa đoạ của con người: Sa đoạ vì Kiền đã mất một hào Dương và
đã biến thành Ly, nên tìm ra cách Thủ Khảm Điền Ly, thay hào Âm quẻ Ly
bằng hào Dương quẻ Khảm, cho Ly trờ thành Thuần Kiền như cũ.
Thế là bổ túc đươc Kiền
Nguyên, phục hoàn được Hỗn Độn, làm toàn vẹn lại được bản tính phú bẩm
của Trời, khiến con người trở nên hoàn toàn lại. Cứ thế mà tinh tiến, sẽ
được Kim Đơn, thành Thánh Thai, và Chân Nhân sẽ hiện, biến hoá vô cùng,
ẩn hiện khôn lường, sánh vai cùng Hán Chung Ly, Lữ Động Tân, Vương Trùng
Dương, Mã Đơn Dương có khó chi đâu?
Bởi người ta không biết đạo
ấy, nên lúc Dương khí còn thịnh tráng thì không biết bảo dưỡng, khi
Dương khí đã suy thì không biết cách bổ cứu. Ngày qua tháng lại, Dương
khí tận kiệt, âm khí thịnh mãn, chết đi thành quỉ. Cho nên Tử Dương Chân
Nhân nói: «Thương thay! Thân người khó được, thời gian mau qua, không
biết tu trì, làm sao thoát nghiệp báo. Nếu không sớm tỉnh ngộ, chỉ cam
tâm chờ chết, lúc đó một niệm mà sai, thì sẽ nhập tam đồ, ác triệt (Tam
Đồ là: Hoả đồ, Huyết đồ, Đao đồ, hay Địa Ngục đạo, Súc Sinh Đạo, Quỉ
Đạo). Giả như có kinh qua vạn thế, cũng không thể siêu thoát. Có hối
cũng muộn.»
CON ĐƯỜNG TU: TÌM HIỂU TÍNH MỆNH, TÌM HIỂU
BẢN THỂ CON NGƯỜI, MÀ BẢN THỂ LÀ THÁI CỰC, LÀ TÂM TÍNH.
Cho nên Tam Giáo thánh nhân
lấy cái học Tính Mệnh dạy đời. Dạy người tu luyện đề siêu xuất sinh tử.
Đạo Nho dạy Thuận Tính Mệnh
để trở về với Tạo Hoá. Lý luận thế là đúng công đạo vậy.
Thiền tông dạy coi Tính Mệnh
là hư ảo, để đạt Đại Giác, Đại Ngộ. Nghĩa Lý đó cũng cao diệu.
Lão tử dạy: Tu Dưỡng Tính
Mệnh để đạt Trường Sinh. Những lời lẽ đó thật tha thiết và hợp Nhân ý.
Giáo tuy chia Ba, nhưng Đạo Lý là một vậy.
Nho giáo thánh nhân dạy: An
nhữ chỉ, Khâm quyết chỉ, Chỉ kỳ sở, Tập hi kính chỉ, Tại chỉ chí thiện;
Hoàng Trung thông lý, chính vị cư thể; Tư bất xuất vị; Lập bất dịch
phương; Cư Thiên Hạ chi quảng cư; Lập Thiên Hạ chi chính vị; Hồn nhiên
tại Trung; Tuý nhiên chí thiện; Thành tận xứ xoang tử lýù; Lạc xử phương
thốn; Thần Minh chi xá; Đạo Nghĩa chi môn; Hoạt bát bát dịa, lạc tại kỳ
trung; Chuân chuân kỳ Nhân, Uyên uyên kỳ Uyên; Hạo hạo kỳ Thiên; Thiên
bất qui nhân; Thoái tàng vu mật; Hà tư hà lự chi Thiên; Bất thức bất tri
chi địa, ...
安 汝 止, 欽 厥 止, 艮 其 止, 止 其 所,
緝 熙 敬 止, 在 止 至 善. 黃 中 通 理, 正 位 居 體, 思 不 出 位, 立
不 易 方. 居 天 下 之 廣 居, 立 天 下 之 正 位, 行 天 下 之 大 道 ; 渾 然 在 中 粹 然 之 善. 誠 盡 處 腔
子 里, 樂
處 方 寸. 神 明 之 舍, 道 義 之 門; 活 潑 潑 地 樂 在 其 中. 肫 肫 其 仁, 淵 淵 其 淵; 浩 浩 其
天, 天 不 皈 仁 ;
退 藏 于 密, 何 思 何 慮 之 天 : 不 識 不 知 之 地 ...
Không thể kể xiết, tóm lại
chẳng qua là dạy về: Tính Mệnh chi đạo.[1]
Huyền giáo dạy: Huyền Tẫn
chi môn, Thiên Địa chi căn; Sinh Thân xứ; Phục Mệnh Quan, Kim Đơn chi
mẫu, Huyền Quan chi Khiếu, Ngưng Kết chi sở, Hô Hấp chi Căn, Giáp Ất
đàn, Mậu Kỷ Lô, Tâm Nguyên, Tính Hải, Linh Phủ,Linh Đài, Bồng Lai Đảo,
Chu Sa đỉnh, Yển Nguyệt Lô, Thần Thất, Khí Huyệt, Thổ Phủ, Cốc Thần,
Linh Căn, Bá Bính, Khảm Ly giao cấu chi hương, Thiên Biến Vạn Hoá chi
tổ, Sinh Tử bất tương quan chi địa, Quỉ Thần khuy bất phá chi cơ, không
thể chép hết. Nói tóm lại, vẫn là bàn về Tính Mệnh chi đạo.[2]
玄 牝 之 門, 天 地 之 根, 生 身 處, 復 命
關, 金 丹 之 母 玄 關 之 竅, 凝 結 之 所, 呼 吸 之 根. 甲 乙 壇,
戊 己 爐, 心 源 性 海, 靈 府 靈 台. 蓬 萊 島, 朱 砂 鼎, 偃 月 爐, 神 室, 氣 穴, 土 釜, 谷 神, 靈 根,
把 柄, 坎 離 交 媾 之 鄉, 千 變 萬 化 之 祖 生 死 不 相 矐之 地, 鬼 神 覷 不 破 之 機 ...
Thiền giáo nói: Bất Nhị Pháp
Môn, Thậm Thâm Pháp Giới, Hư Không Tạng, Tịch Diệt Hải, Chân Thật Địa,
Tổng Trì Môn, Bỉ Ngạn, Tịnh Thổ, Chân Cảnh Tâm Địa, Cực Lạc Quốc, Như
Lai tạng, Xá Lợi Tử, Bồ Tát Địa, Quang Minh Tạng, Viên Giác Hải, Bát Nhã
Ngạn, Pháp Vương Thành, Tây Phương Thiên Đường, Không Trung Chân Tế, Giá
Cá Tam Ma Địa, Hoa Tạng Hải, Đà La Ni Môn, Bất Động Đạo Tràng, Ba La Mật
Địa...
不 二 法 門, 甚 深 法 界, 虛 空 藏, 寂
滅 海, 真 實 地, 總 持 門, 彼 岸, 淨 土, 真 境 心 地, 極 樂 國, 如 萊 藏, 舍 利 子, 菩 薩 地, 光 明
藏, 圓 覺 海, 般 若 岸, 法 王 城, 西 方 天 堂, 空 中 真 際, 這 個 三 摩 地, 華 藏 海, 陀 羅 尼 門, 不 動
道 場, 波 羅 蜜 地 ...
Không thể kể hết. Tóm lại
cũng là bàn về Tính Mệnh chi đạo.[3]
Nho nói: Tồn Tâm Dưỡng Tính,
Đạo nói: Tu Tâm Luyện Tính, Thích nói: Minh Tâm kiến Tính. Tâm Tính
chính là Bản Thể.
TU LÀ THỰC HIỆN HAI CHỮ TRUNG, NHẤT
* THỦ
TRUNG
Nho nói: Chấp trung 執 中, là
Chấp cái Trung của Bản Thể. Đạo Nói: thủ trung 守 中, là Giữ cái Trung của
Bản Thể. Thích nói Không trung 空 中, nghĩa là trong Bản Thể vốn không có
gì. Đạo nói Đắc Nhất 得 一, là được cái Nhất của Bản Thể đó; Thích nói Qui
Nhất 歸 一, là quay về cái Nhất của Bản Thể đó; Nho nói Nhất Quán 一貫 là
Quán Triệt cái Nhất của Bản Thể đó.
Chúng ta nhờ đó mà biết: Nếu
chẳng Chấp Trung, chẳng Nhất Quán, thì làm sao nên thánh được như Khổng
Tử; Nếu chẳng Thủ Trung, chẳng Đắc Nhất, thì làm sao mà Thông Huyền như
Lão Tử; Nếu chẳng Không Trung, chẳng Qui Nhất, thì làm sao Thiền quán
được để thành Như Lai?
Cũng là Một Bản Thể, nhưng
thấy nó Hư Không Vô Trẫm thì cưỡng gọi là Trung; Thấy nó hiện ra đầu
mối thì cưỡng gọi là Nhất. Trung là kho chứa Nhất, Nhất là Dụng của
Trung.
* ĐẮC NHẤT
Cho nên Thiên được Nhất mà
càng thêm cao đại; Địa được Nhất mà càng thêm rộng dày; Người được Nhất
mà càng thêm hoàn mỹ; Hoàng được Nhất mà thêm thịnh mỹ; Đế được Nhất mà
càng nên thần thánh; Vương được Nhất mà càng nên hiền trí; Hoàng, Đế,
Vương chi Đạo đều gốc ở đó. Nho Thánh được đạo đó càng trở nên Linh chí;
Đạo Huyền được đạo đó càng trở nên huyền áo; Thiền được Đạo đó càng trở
nên Tĩnh Tuệ. Thánh, Huyền, Thiền chi đạo cũng gốc ở đó.
NHỮNG NGƯỜI ĐẮC ĐẠO XƯA NAY KHÔNG HIẾM
Làm Hoàng, làm Đế mà đắc đạo
thì có Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế. Ẩn cư mà đắc đạo thì có Lão Tử,
Trang Tử, Quan Doãn; Làm Vương Hầu mà đắc đạo thì có Trương Lương,
Hoài Nam; Ẩn cư sơn nham mà đắc đạo thì có Hán Chung Ly, Lữ Động Tân,
Trần Đoàn.
Trong trời đất xưa nay, Tiên
Phật nhiều vô số kể. Khảo sách vở thấy có hơn mười vạn người «bạch nhật
thăng thiên». Những người thành tiên đem cả gia quyến lên Trời cũng có
hơn 8 nghìn. Kỳ diệu hơn nữa: Tử Tấn cười chim loan mà bay; Cầm Cao
cưỡi cá chép chơi nơi vực thẳm; có người sống lâu như Lý Thoát hơn 800
tuổi, như An Kỳ Sinh 3000 tuổi. Có người sống mãi trong dân gian; Có
người lịch thế rồi thi giải; Có những người đạo thành, thân thoái; tự
lực cánh sinh, không lưu danh tại thế. Làm sao nói cho hết. Có những
người sống trong thâm sơn, hang động. Những người thể ấy, thế gian chẳng
có thiếu chi. Họ ẩn hiện khôn lường không sao biết hết được.
ĐỢI KIẾP
NÀO MỚI TU?
Xưa nay vương công, đại phu
biết khuất thân đãi sĩ. Làm được như vậy, chính vì họ thông hiểu lẽ đạo.
Chu tử nói: Trong trời đất,
chí tôn là Đạo, chí qúi là đức, nan đắc là người. Người sở dĩ khó được
là vì phải gồm thâu đạo đức trong mình.
Tiên triết nói:
Nhân thân nan đắc, kim dĩ
đắc,
人 身 難 得 今 已 得 ,
Đại đạo nan minh kim dĩ
minh.
大 道 難 明 今 已 明 .
Thử thân bất hưiớng kim sanh
độ,
此 身 不 向 今 生 度 ,
Cánh hướng hà sinh đô thử
thân?
更 向 何 生 度 此 身 ?
Thân
người khó được, nay đã được,
Đại Đạo
khó hay, nay đã hay.
Thân này
chẳng hướng kiếp này độ,
Đợi đến
kiếp nào, mới độ đây?
Người đời không hiểu rõ thân
này là hư ảo, đó chỉ là Tứ Đại Giả hiệp mà thôi. Một kiếp người qua mau
như bọt nước, như lửa xẹt trong đá, bừng lên rồi tắt ngay. Con người có
thể sống tới trăm tuổi, nhưng sống tới 70 đã thấy hiếm.
Nay mọi người dùng cái thân
dễ bị hư hoại của mình, để bôn ba tìm cầu những gì bất trắc. Một khi hết
thở là chết mất luôn. Mệnh chưa cáo chung, mà Chân Linh đã đầu thai vào
xác khác.
Trong khi đó tuy vinh hoa
cực phẩm, lộc hưởng nghìn chung, nhà cửa khang trang mỹ lệ, đầy châu
báu, ngọc ngà, cũng đều phải bỏ lại, đâu phải của ta. Chỉ còn có một
cái đem theo được là tội nghiệp của ta. Cho nên nói: Cái gì cũng không
đem theo được, chỉ có Nghiệp theo mình.
Hồi Quang Tập có câu:
Thiên niên thiết thụ hoa
khai dị,
千 年 鐵 樹 花 開 易,
Nhất thất nhân thân, tái
phục nan.
一 失 人 身 再 復 難.
Ngàn năm
cây sắt hoa nở dễ,
Một thân
đã mất, khó mà tìm.
Ngộ Chân Thiên có câu:
Thí vấn đôi kim đẳng sơn
nhạc,
試 問 堆 金 等 山 岳,
Vô Thường mãi đắc bất lai
ma?
無 常 買 得 不 來 么 ?
Bạc vàng
ví chất cao như núi,
Nhưng
quỉ Vô Thường mua nổi không?
Lữ Thuần Dương viết:
Vạn kiếp thiên sinh đắc cá
nhân,
萬 劫 天 生 得 個 人 ,
Tu tri tiên thế chủng lai
nhân.
須 知 先 世 種 來 因 .
Tức tốc giác ngộ, xuất mê
tân,
即 速 覺 悟 出 迷 津 ,
Mạc sử luân hồi thọ khổ tân.
莫 使 輪 回 受 苦 辛 .
Muôn
kiếp, ngàn đời được cá nhân,
Mới hay
kiếp trước đã gieo nhân.
Hãy
thoát mê tân, mau giác ngộ,
Tránh
khỏi luân hồi, khỏi khổ tân.
Trương Tử Dương nói:
Hưu giáo chúc bị phong xuy
diệt,
休 教 燭 被 風 吹 滅,
Lục đạo luân hồi mạc oán
thiên.
六 道 輪 回 莫 怨 天.
Đuốc kia
sao gió đừng thổi tắt,
Sáu nẻo
Luân Hồi chớ trách Trời!
Nói đi, nói lại một điều làm
cho mọi người, hãi kinh, thất sắc. Người muốn thoát luân hồi, chẳng rơi
vào lưới đời, không gì bằng tu luyện Kim Đơn, Đó là thang Linh bắc lên
Trời; đó là đường tắt để thoát phàm. Đạo ấy rất là giản dị. Dẫu tiểu
nhân ngu muội, biết được mà tu, cũng có thể thành chánh quả.
Nhiều bậc Chân tu, tuy để
tâm tu đạo nhưng chẳng chuyên tinh, hay chuyên tinh mà không bền vững,
cho nên người tu thì nhiều, mà người thành đạt thì ít.
Kinh Thư nói: «Biết không
khó, mà hành mới khó.» 非 知 之 難 行 之 惟 難.
Đạo Đức Kinh viết: Thượng
đức văn Đạo, Cần nhi hành chi. 上 德 文 道 勤 而 行 之.
Người Thượng đẳng khi nghe
biết Đạo,
Liền ân cần tiết tháo khuôn
theo. (ĐĐK. 41)
Chỉ nghe mà không hành, làm
sao thành Đạo được.
Trần Nê Hoàn viết:
Ngã tích tu hành đắc chân
quyết,
我 昔 修 行 得 真 訣,
Trú dạ công phu vô đoạn
tuyệt.
晝 夜 功 夫 無 斷 絕.
Nhất chiêu hành mãn nhân bất
tri,
一 朝 行 滿 人 不 知,
Tứ diện giai thành dạ quang
quyết.
四 面 皆 成 夜 光 厥.
Ta xưa
tu hành được chân quyết,
Đêm ngày
công phu, không đoạn tuyệt.
Một hôm
hành mãn, không ai biết.
Chỉ thấy
hào quang sáng tứ vi.
Mã Đơn Dương viết:
Sư ân thâm trọng chung nan
báo,
師 恩 深 重 終 難 報,
Thệ tử hoàn tường luyện Chí
Chân.
誓 死 環 墻 煉 至 真.
Ơn Thày
sâu rộng sao đền đáp.
Nguyện
xin Diện Bích luyện Chí Chân.
Lữ Tổ nói:
Tân cần nhị tam niên, 辛 勤 二
三 年,
Khoái hoạt thiên vạn kiếp. 快
活 千 萬 劫.
Khổ sở
một vài năm,
Sung
sướng muôn vạn kiếp.
Trời có khi cũng bị nghiêng
đổ; đất có khi cũng bị sụt tan; núi có khi cũng bị kiệt; biển có khi
cũng bị cạn. Chỉ có tu thành đạo Đao, mới có thể cưỡi gió, cưỡi rồng,
cưỡi mây tím, ngao du ngoài trời, tiêu diêu nơi hư không. Vận số không
hạn chế được ta; vận mệnh không câu thúc được ta. Chân thường bản thể ta
sống lâu vô hạn; nhìn lại cái vui trần tục, thì có gì gọi là vui?
Đạo Đức Kinh viết: Cố lập
thiên tử dĩ chí tam công, tuy hữu củng bích, dĩ tiên tứ mã, bất như toạ
tiến thử Đạo 故 立 天 子 置 三 公, 雖 有 拱 璧, 以 先 駟 馬, 不 如 坐 進 此 道.
[4]
Cho nên
đã tiếng vua quan,
Phải đâu
rỡn ngọc, đùa vàng trêu ngươi.
Phải đâu
tứ mã rong chơi.
Vua quan
cốt để Tiến Trời vào thân.
[1]
Đại cương trong đoạn này, Nho Giáo dạy: Phải biết ngừng nơi Chí Thiện;
Đừng lo gì không thuộc phạm vi bổn phận mình. (Xem Đại Học 1; Kinh Dịch
quẻ Cấn; Trung Dung, chương 14. v.v...)
Kẻ Trượng phu ở trong đức
Nhân là chỗ rộng rãi nhất trong thiên hạ, đứng trên đức Lễ là chỗ đứng
chính đáng nhất trong thiên hạ; noi theo đức Nghĩa là là con đường to
lớn nhất trong thiên hạ. (Mạnh Tử, Đằng Văn Công Chương cú hạ, Tiết 2)
Hiền
nhân thông lý Trung Hoàng,
Tìm nơi
chính vị mà an thân mình,
Đẹp từ
tâm khảm xuất sinh
Làm cho
cơ thể xương vinh mỹ miều.
Phát ra
sự nghiệp cao siêu,
Thế là
đẹp đẽ đến điều còn chi.
Dịch Kinh, Văn Ngôn, hào Lục
Ngũ quẻ Khôn.
Như vậy nghĩa là ta chỉ việc
nghĩ đến những gì đẹp đẽ nhất trong con người, tìm cho ra Bản Thể con
người, ngừng lại nơi Chí Thiện.
[2]
Các Danh Từ trên đều là tên của Huyền Quan Nhất Khiếu hay Nê Hoàn Cung.
Tức là chỉ đề cập đến Thái Cực hay Bản Thể trong con người.
[3]
Các danh từ trên đều có nghĩa như là Cõi Phật hay Niết Bàn, hay Bản
Thể.
[4]
Đạo Đức Kinh, ch. 62.
» 1
2 3
4 5
6 7
8 9
10 11
12 13
14
15 16
17 18
19 20
21 22
23
24 25
26 27
28
29 30
31
32 33
34 35
36 37
38 39
40 41
42 43
44 45
46 47
48 49
50 51
52
|