Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1
2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 2
Lúc còn nhỏ, tôi đã từng sống nhiều năm ở
những làng quê Bắc Việt, làm quen với những mảnh vườn nho nhỏ, giồng
cam, chanh, chuối, mít; với những hồ, ao xinh xinh, nước trong veo suốt
đáy, nhìn thấy được cả những đàn cá lội tung tăng. Tôi thích ném xuống
mặt ao những hòn sỏi nhỏ, để tạo nên một tâm điểm và nhiều vòng tròn
đồng tâm xinh xắn, cứ thế lan tỏa ra khắp mặt ao. Tôi thật không ngờ
rằng cái trò chơi trẻ con ấy, sau này lại giúp tôi đi sâu vào cơ cấu vũ
trụ, và tạo nên được một vũ trụ quan.
Số là trong những năm 1956, 1958, khi khảo
về Trung Dung và Dịch Lý, tôi lại thấy hiện ra hình ảnh các vòng tròn
đồng tâm trên mặt ao hồ; rồi tôi lại miên man liên tưởng đến các vòng
tròn do âm thanh và quang tuyến, từ các đài phát thanh, các đài truyền
hình sinh ra trên không trung, mỗi khi các đài ấy hoạt động. Nhân đó tôi
nhận ra rằng đó chính là một định luật phổ quát. Suy ra, thì lớn như
hoàn võ, nhỏ như Thái dương hệ, li ti như nguyên tử, nhất nhất đều được
cấu tạo nên theo mô hình Tâm điểm và Vòng tròn. Cái tâm điểm là trung
tâm sinh xuất ra các vòng tròn hiện tượng bên ngoài.
Và tôi khám phá ra rằng: Vũ trụ hữu hình này đã do một Chân Tâm;
một Trung Tâm vô hình sinh xuất ra. Tâm điểm là Nguồn sinh hóa; các vòng
bên ngoài là những hiện tựợng biến thiên. Tâm điểm là tinh hoa; các vòng
tròn bên ngoài có nhiệm vụ làm bao bì, làm xác, làm da, làm vỏ che chở.
Lại nữa, Cái Bản Thể ấy đã dùng chính năng
lực mình, chính sinh lực mình, chính bản thể mình mà mà sinh hóa ra vũ
trụ, quần sinh. Nói theo danh từ Triết học, tôi thấy rằng: Bản thể vô
biên tế đó đã phóng phát, tán phân thành vũ trụ. Thế tức là, vũ trụ này
đã hình hiện lên từ một Bản Thể, từ một Tâm điểm, có một nguồn năng lực
vô cùng, có những khả năng vô biên tận. Tất cả đều như là một cây pháo
bông muôn màu, tung tỏa miên trường vĩnh cửu. Tôi thấy sinh linh, vạn
hữu, như là những tia ánh sáng, phát huy từ một vừng dương Bản thể; hay
như là những tiểu thể quang hoa, tự nhiên sinh xuất ra từ một nguồn sinh
vô tận đó. Vì Bản thể, và Hiện tượng luôn luôn cặp kè nhau như bóng với
hình, nên tôi thấy không cần phải đặt ra những câu hỏi: Tại sao Bản thể
lại sinh xuất ra Hiện tượng; cũng như tôi không hỏi tại sao mặt trời lại
tung tỏa ánh hào quang.
Quí vị nào rành về triết lý nhà Phật, sẽ
thấy học thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể của tôi, và phương thức
Phóng phát, Tán phân tôi đã dùng để cắt nghĩa sự hình hiện của vũ trụ,
nó hao hao giống với thuyết Chân Như duyên khởi, hay A Lại Da duyên
khởi, hay Lục Đại duyên khởi...
Tôi nhận thấy rằng giữa Bản thể vô biên và
quần sinh vũ trụ, có một cái gì liên tục; cũng như giữa sinh linh với
sinh linh, có một cái gì gắn bó; tất cả đều liên lạc với nhau, tất cả
đều hỗ tương ảnh hưởng đến nhau, tất cả đều như cùng hội cùng thuyền, y
thức như người xưa đã nói: Nhất tức nhất thiết; Nhất thiết tức Nhất: Một
là Tất Cả, Tất cả là Một, để tạo nên một đại thể huy hoàng, toàn bích...
Tôi thấy vũ trụ này, lúc thì như muôn vàn
làn sóng bạc đầu nhô lên trên mặt trùng dương Bản thể vô biên tận; lúc
thì sóng lại trở về với nước; tái tạo lại một mặt biển im lìm, phẳng
lặng như mặt gương.
Vũ trụ lúc sinh hóa thành muôn hiện tượng
bên ngoài, làm liên tưởng đến hơi thở ra của Hóa Công và khi hiện tượng
trở lại về lòng Bản thể, làm liên tưởng đến hơi thở vào của Hóa Công.
Một hơi thở ra và một hơi thở vào lâu lai không biết bao là A Tăng Kỳ
kiếp...
Nhìn vào những hiện tượng phù du, hư ảo
liên tiếp xảy ra bên trên Nguồn Sinh Bản Thể, làm cho nhiều người mường
tưởng như là Hóa Công - một danh từ mà tôi tạm gán cho Bản Thể - đang
nằm mơ một giấc mơ hoa; hay đang phô diễn những trò ảo hóa; hoặc như
đang chơi một trò chơi kỳ thú.
Có lẽ vì vậy, mà trong Cung Oán Ngâm Khúc
ta thấy Nguyễn Gia Thiều đã viết:
Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Và trong bài thơ 'Thăng Long thành hoài
cổ” của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy Bà than thở:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Tới nay thấm thoắt mấy tang thương,
Dấu xưa xe ngựa, hồn thu thảo,
Đền cũ lâu đài, bóng tịch dương...
Từ những khẩu hiệu: Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể; Nhất tán Vạn, Vạn qui Nhất, tôi đã rút tỉa ra một định luật
biến dịch hết sức là quan trọng: Đó là định luật Tán Tụ (Vãng Lai). Mới
đầu, khi Bản Thể tung tỏa ra quần sinh, vũ trụ, thì là Tán, là Vãng, là
đi ra, là tản mạn, tung tỏa ra khắp cùng muôn phương, muôn ngả. Hết Tán
rồi sẽ phải Tụ; hết đi ra rồi lại phải trở về với quê hương cũ; với Bản
Thể uyên nguyên. Người xưa gọi thế là Qui Nguyên phản Bản, hay Qui Căn
phản Bản. Lão Tử đã viết trong Chương XVI Đạo Đức Kinh:
Phù vật vân vân,
Các qui kỳ căn,
Qui căn viết tĩnh,
Phục mệnh viết trường
Phỏng dịch:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn Bản Nguyên.
Hoàn Bản Nguyên, an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi, trường vĩnh vô cùng...
Khảo Thiên Văn Học hiện đại ta cũng thấy
nhiều Thiên văn gia đã chủ trương vũ trụ này đã được phóng phát ra, tung
tỏa ra từ một Tâm điểm, và hiện nay vũ trụ đang ở trong thời kỳ tán
phân. Nhà bác học người Bỉ, Georges Edouard Lemaitre (1894- 1966), là
người đã chủ xướng và chứng minh thuyết Vũ trụ khuếch tán, thường được
mệnh danh là Big bang theory, hay là The Expanding universe theory: Nhờ
phương pháp thâu quang phổ (spectroscopy), và dựa vào định luật Dopler-
Fizeau, các nhà Thiên văn học khám phá ra rằng các giải ngân hà đang đua
nhau tiến về miền biên viễn, và vũ trụ này như là cái bọt xà phòng của
trẻ con chơi, đang được thổi phồng lên, theo lý thuyết của Georges
Lemaitre, một lý thuyết đã được sự tán đồng của những Thiên văn gia cự
phách như Hubble, Edwin Powell (1889-1953), hay Eddington, Arthur
Stanley (1882- 1944)
. Định luật
Dopler-Fizeau cho hay, nhìn vào quang phổ, ta thấy quang phổ các giải
Ngân hà xê dịch dần dần về phía màu đỏ, y như tiếng còi tầu, càng ngày
càng thấp giọng, khi tàu trườn mình phóng mãi xa ta... Sự kiện khuếch
tán này càng ngày càng đưa các vì sao xa dần trái đất; muôn triệu vì sao
không còn đủ soi cho trái đất; sức nóng của các vì sao không còn đủ để
sưởi ấm trái đất trong những đêm băng giá. Dựa vào định luật Tán Tụ,
Vãng Lai, tôi mường tưởng rằng trong một tương lai còn xa xăm mờ mịt,
các vì sao, các giải Ngân hà nói trên, sẽ dần dà trở gót lãng du, để
quay về an nghỉ trong hậu trường Bản thể. Những vì sao đã luống tuổi đời
lúc ấy, sẽ góp ánh sáng tàn của mình để sáng soi cho trái đất, thay cho
ánh sáng đèn điện, đèn dầu, như lời tiên tri trong sách Khải Huyền
(Revelations):
«Lúc ấy, sẽ không còn đêm; sẽ không còn
cần đến ánh sáng của lửa đuốc, hay của vừng thái dương; vì Chúa sẽ sáng
soi cho họ, và họ sẽ trị vì muôn kiếp...» (Khải Huyền 22:5)
Vũ trụ mà đang tán, thì nhân quần cũng
đang ly tán. Trái đất ngày nay đã được chia thành vô số nước. Trời đất
hiện nay được chia thành những mảnh con con, y như những ô trong bàn cờ
quốc tế: trời đất chỗ này là của Mỹ; chỗ kia là của Pháp, của Đức,
của Tàu, của Nhật. Muốn đi đâu, ai nấy phải có sẵn trong túi một giấy
thông hành, nếu không sẽ sinh tai họa. Như vậy tỏ ra chúng ta chưa phải
là những con người "tự do"; chúng ta chưa thực hiện được câu "Bốn bể là
nhà". Còn tán, thì còn chia ly, tranh chấp; chính vì vậy, mà thế giới
của chúng ta, đáng lý phải là đào nguyên lạc cảnh, than ôi, đã bao phen
trở thành những chiến địa hãi hùng...
Sự phân kỳ, tản mạn không phải chỉ nguyên
có trong lãnh vực chính trị; mà nạn sứ quân còn hoành hành cả trong lãnh
vực đạo giáo. Chân lý của đất trời bị phân quang trong các lăng kính đạo
giáo; và biết bao lần, thần thánh đã bị lôi cuốn vào trong những thánh
chiến, làm máu đào nhuộm đỏ đất đai, hoa cỏ...Đáng kính phục thay là
Krishnamurti: Khi Thông thiên học chuẩn bị làm lễ đăng quang, mời ông
lên ngôi Giáo Chủ Thông Thiên, ông đã khẳng khái trả lời đại khái rằng:
Thế giới đã có quá nhiều lồng, nên ông không muốn tạo thêm lồng để nhốt
nhân loại; sau đó ông rũ bỏ, từ khước mọi phú quí, vinh hoa, mà Thông
Thiên Học dành cho ông, để sống một cuộc sống an bần lạc đạo, «kho trời
chung, mà vô tận của mình riêng...»
Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta cũng nên
mừng, vì thấy các lãnh tụ đạo giáo đã bắt đầu rụt rè, giơ tay, bắt tay
nhau, tỏ tình thân thiện. Phải chăng đó là dấu chỉ con người sắp sửa
bước vào con đường qui tụ, hiệp hòa; con người đã bắt đầu nhận thấy cái
Ngã Mạn Độc Tôn là cái raát vô lý, và là mầm mống gây họa hại cho nhân
quần.
Tôi mơ thấy rằng trong một tương lai không
mấy xa, thiên hạ sẽ dần dần thật sự bắt tay nhau trong tình huynh đệ,
bất kể màu da, sắc áo; bất kể tín ngưỡng đạo giáo; trọng kính nhau vì tư
cách, vì kiến thức, vì tác phong, phẩm hạnh của nhau, chứ không phải vì
theo đạo này hay theo đạo nọ. Tôi mơ thấy rằng trong một tương lai không
xa, những đôi uyên ương khác tín ngưỡng tha hồ được tự do lấy nhau, xây
tổ ấm với nhau, chẳng bị một ràng buộc nào. Sau khi đã có gia đình, tình
yêu của họ càng mặn nồng hơn: thay vì dưới mái ấm, có một bông hoa tôn
giáo, nay lại có sẵn hai bông, đua sắc đua hương, dưới cặp mắt từ bi, và
dưới bàn tay chúc phúc của một Cha chung nhân loại...Con cái đẻ ra, dẫu
bên cha cũng kính, bên mẹ cũng vái, cũng chẳng sao.
Tôi cũng có đồng một giấc mơ như mục sư
Luther King: Trong bài diễn văn ứng khẩu tại Washington, ngày 28- 8-
1963, trước 250.000 người, Luther King nói: «Tôi hôm nay nói với các
bạn rằng: Dẫu chúng ta gặp nhiều khó khăn trong ngày mai, ngày mốt, tôi
vẫn có một giấc mơ. Đó là một giấc mơ, ăn rễ sâu vào giấc mơ của dân
nước Mỹ. Tôi mơ thấy rằng một ngày kia quốc gia này sẽ vùng dậy, sẽ sống
thực sự cái niềm tin của nó. Niềm tin ấy là: «Mọi người hiển nhiên đã
được tạo dựng nên bình đẳng.» Tôi mơ thấy rằng một ngày kia, trên những
ngọn đồi đất đỏ xứ Georgia, con những nô lệ xưa, và con những chủ nô lệ
xưa, sẽ cùng nhau ngồi chung chiếc bàn huynh đệ. Tôi mơ thấy rằng một
ngày kia, ngay cả đến tiểu bang Mississipi, một tiểu bang đầy rẫy những
bất công và áp bức, sẽ biến thành một lạc cảnh tự do và công bình. Tôi
mơ thấy rằng đoàn con nhỏ của tôi một ngày kia sẽ sống trong một nước mà
người ta sẽ không đánh giá chúng bằng màu da sắc áo, mà bằng tâm trí
chúng, và tính nết chúng.
Khi chúng ta để tự do rung vang lên trong
mọi thành thị, mọi thôn xóm, chúng ta sẽ làm cho cái ngày ấy chóng đến,
cái ngày mà mọi người đều là con Thiên Chúa, người da đen cũng như người
da trắng; người Do Thái cũng như người ngoại giáo; người Thệ Phản cũng
như người Công giáo, mọi người đều bắt tay nhau hát lên những lời rằng:
«Cuối cùng chúng ta đã tự do; cuối cùng chúng ta đã tự do!.Lạy Chúa toàn
năng, cuối cùng chúng ta đã tự do!»
Cho đến bây giờ, người Âu Châu chưa nhận
định ra rằng sự biến hóa của trời đất diễn biến thành một chu kỳ vãng
lai, phản phục, tuần hoàn. Đối với họ, sự biến hóa chỉ đi theo con đường
thẳng, chỉ có một chiều, y như dòng thác từ cao sa xuống thấp. Lẽ dĩ
nhiên là họ phải bi quan, phải lo sợ cho tương lai. Trong các sách vở,
trong các báo chương, trên tường vách nơi phố xá, ta thường thấy họ
quảng cáo ngày Tận thế, dựa trên những lời tiên tri của sách Khải Huyền
(Revelations), như ca sĩ quảng cáo ngày đại nhạc hội. Chẳng hạn, như
trên đường Fairview, gần góc Sunflower, ta thấy có tấm bảng đề: Marana
tha «Xin Chúa hãy đến». Và đâu đó, trên một bức tường khu vực Santa Ana,
cũng thấy đề: The Lord is coming soon (Chúa sắp giáng lâm). Hăng hái
nhất là Giáo phái Cơ Đốc phục lâm (The seventh day Adventists) đang dùng
chiêu bài Tận thế để thu hút tín đồ mới. Họ tin rằng sắp sửa có những
trận chiến long trời lở đất, giữa binh thần và tướng quỉ, nghe mà hoảng
cả hồn, nhất là đối với những người xấu số vừa trải qua mấy chục năm
binh lửa ở Việt Nam, lại đèo thêm bệnh yếu thần kinh, ấm ức, u sầu, vì
chưa thích ứng được với hoàn cảnh mới, ở đất Mỹ, đầy cạnh tranh, và kích
động này. Họ khuyên chúng ta mau ghi danh vào đạo họ để dự vào số
144.000 người được tuyển lựa, được đưa lên sống an toàn trên không
trung, thoát cảnh khổ đau, lúc nắng lửa, mưa dầu; lúc trăng sao sa xuống
trái đất này, nhiều như những trái vả rụng. Nếu chúng ta lần chần, không
ghi danh kịp bên phía Cơ Đốc Phục Lâm, thì xin tới ghi danh vào giáo
phái Chứng nhân đấng Jehovah (Jehovah's Witnesses) cũng chưa muộn. Nếu
không kịp nữa, thì hãy nhớ đến đạo Mormons, một đạo dành cho những vị
"Thánh nhân của những ngày tàn thời mạt kiếp" (Latter days Saints). Trái
lại, nếu chúng ta chấp nhận một cuộc biến hóa hai chiều thì chúng ta lại
có quan điểm khác: Chúng ta thấy rằng nhân loại sẽ trải qua một khúc
quanh; một khúc quanh có thể được đánh dấu bằng tai họa, bằng chinh
chiến, nhưng rồi cũng sẽ đi đến sự tốt đẹp. Thế là: "Dịch cùng tắc biến,
biến tắc thông, thông tắc cửu." Theo thiển ý tôi, tận thế không theå sắp
xảy ra được vì những lý do sau đây: Thứ nhất, về phía nhân loại, khi con
người tiến tới một nền văn minh vật chất cùng cực, khi mà các siêu cường
đã chất chứa không biết cơ man nào là bom khinh khí, bom nguyên tử, bom
hơi ngạt, bom vi trùng, lúc ấy, các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới
mới phát run lên, vì thấy một lệnh mình truyền ra, sẽ có trăm triệu sinh
linh lập tức lìa cõi tục, bất kỳ là bạn hay là thù. Như vậy sẽ chẳng ai
có lợi; nếu thế, tại sao không thay đổi lập trường, bắt tay thân thiện
với nhau? Thế là, trong khi các đàn em hăng say thề không đội trời chung
với nhau ở phía dưới, thì ở phía trên các bậc lãnh tụ hai khối đối lập,
lại bắt tay nhau, hàn huyên, yến tiệc, du ngoạn cùng nhau, như thể là
trong tình ruột thịt, toan tính một chuyện tương lai chung sống hòa
bình... Thứ hai, về phía Thượng Đế, Ngài lại càng không có lý do
gì chính đáng để nổi trận lôi đình, thịnh nộ, tiêu diệt nhân loại và
hoàn võ. Nếu nhân loại có xấu xa đến mấy chăng nữa, cũng chỉ là vì đã
lây tội tổ tông, lây một cách oan uổng, vì nào có được dự phần vào
chuyện hưởng hương hoa tội lệ ấy đâu. Vả lại, tội ấy tuy tầy trời, nhưng
đã được chính Ngài giáng trần ra tay cứu rỗi. Phải chăng sự cứu rỗi ấy
chưa toàn vẹn, vì thế nên trần hoàn này còn bao nhiêu là chếch mác dở
dang. Hơn nữa, theo kinh nghiệm cho thấy, nếu Ngài phá trần hoàn này đi,
Ngài cũng sẽ không dựng nên được một trần hoàn khác đẹp đẽ hơn. Ngài đã
chẳng phải toàn năng, toàn trí, khi dựng nên trần gian, hoàn vũ này hay
sao? Cho nên, chính là để bảo toàn vinh danh Ngài, Ngài sẽ không để cho
mọi chuyện giữa đường đứt gánh. Vì thế, về mặt nào đi chăng nữa, thì tấn
kịch gian trần này cũng chưa thể nào kết thúc, khi mà mọi sự còn đang
dang dở, khi mà mọi tình tiết còn đang rắc rối, éo le; khi mà con người,
còn như đứa con hoang đàng, đang còn vui gót lãng du, đang còn mê lạc
thú gian trần, còn dùng daèng chưa muốn trở gót tìm về Thiên quốc cũ!
Than ôi, nhân loại đã bao lần gán cho Ngài tiếng bạo chúa, chuyên nổi
giận lôi đình, mặc dầu không biết bao phen Ngài đã phải cải chính «Ta
đây là Đấng từ nhân». Vả lại nếu mọi việc xảy ra mà đúng với dự đoán của
những con người nông cạn, thì hoàn võ này đã trải qua không biết là bao
nhiêu lần thế mạt.
Mong rằng, những lời biện giải chân thành
nói trên không bị phê phán là hoang đường, ngạo mạn. Tôi tin chắc rằng
L.M. Teilhard de Chardin cũng đồng ý với tôi rằng Tận thế chưa thể xảy
ra, vì con người đang và sẽ còn cần rất nhiều thời giờ để tiến tới điểm
Omega; tức là tới giai đoạn Thần Linh như ông đã chủ trương trong học
thuyết lừng danh thế giới của ông gần đây.
Ngược lại, nếu chúng ta chấp nhận cuộc
biến dịch tuần hoàn, chúng ta sẽ thấy sự biến hóa của vũ trụ quần sinh
này hết sức là đẹp đẽ, và hết sức có ý nghĩa. Biến hóa để trở về hội
ngộ, hòa hợp với Hóa Công, để Thủy Chung như nhất. Tất cả chỉ là một
Nguồn sinh lực diễn biến dần dà, từ Trung tâm ra tới các tầng lớp bên
ngoài rồi lại chuyển hóa, xoay mình, băng qua các tầng lớp biến thiên từ
ngoài vào trong, cho tới Trung tâm nguyên thủy, tạo nên một vòng sinh
hóa có giới hạn, có tiết tấu, có mạch lạc, có nguyên ủy, thủy chung.
Ngày nay tan, thì ngày sau sẽ hợp. Vòng đại tuần hoàn của vũ trụ chẳng
qua cũng như tình non nước, mà Tản Đà đã ngâm vịnh bằng những lời thơ
đẹp đẽ sau
Dẫu rằng sông cạn, đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa,
Non cao đã biết hay chưa,
Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn,
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui,
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước chưa nguôi lời thề.
Sách Tu Chân Bất Tử Phương, đạo
Lão, có lời rằng: «Hậu thăng, tiền giáng định nhất chu» nghĩa là «Trước
xuống, sau lên, định một vòng». Ý muốn nói vòng tuần hoàn của trời đất,
phải là Âm trước, Dương sau; nghĩa là mới đầu tinh thần phải nhập thể,
phải lồng vào vật chất để biến cải, phát huy vật chất, thì sau này vật
chất mới giúp cho tinh thần siêu thăng được.
Thiệu Khang Tiết chủ trương: «Vạn vật tòng
Trung nhi khởi, tòng Trung nhi chung» (Vạn vật từ Trung hình hiện, về
Trung lai hoàn).
Chiêm tinh học Âu Châu mô tả quan niệm
biến dịch tuần hoàn trên như sau: «Nguyên Động Lực tự phối ngẫu, để biến
từ thế tiềm phục đến thế hiển hiện; từ Nhất đến Vạn; từ vô tướng đến hữu
hình; từ tinh thần đến vật chất; từ thế giới vô sắc tướng, đến thế giới
hình tướng; từ khinh thanh đến trọng trọc. Trên đoạn đường thoái hóa
này, thần khí càng ngày càng ẩn áo sau nhiều bức màn hiện tượng dày đặc,
cho đến cùng đường vật chất. Khi đã đến điểm thấp nhất của chu kỳ, thần
khí hay Đạo lại lộn ngược lại, băng mình qua nhiều lớp hình thể ngày
càng khinh thanh, tiến dần về các giới vô hình, vô tướng, để cuối cùng
trở về trạng thái Bản Nguyên. Đó là ý nghĩa vòng Hoàng Đạo.»
Nhìn vào cái vũ trụ biến thiên đa tạp bên
ngoài, thay vì bi quan, sầu khổ, tôi lại thấy rằng có biến thiên, có đổi
thay như vậy mới đẹp đẽ, mới sống động. Một khúc nhạc hay, không thể nào
đồng điệu; một tấn tuồng hay, không thể nào tẻ nhạt, ù lì. Cái đổi thay,
cái biến động cốt là làm cho vũ trụ và nhân quần lúc nào cũng mang một
bộ mặt xinh tươi, trẻ trung, đẹp đẽ. Khi lớp người già sửa soạn về chầu
Trời, thì lớp trẻ lại hùng dũng tiến lên thay thế. Chính nhờ sự biến
thiên, sự thay thế, sự tiếp sức nhau như vậy, mà cái tạm bợ, cái phù du
mới chạy đua được với cái bất biến, cái vô cùng. Thu năm nay đi, năm sau
còn trở lại. Đào năm nay tàn đi, nhưng năm sau nở lại, để góp cưôøi với
gió Đông.
Thế tức là:
Từ biến chuyển, nhìn ra trời đất,
Thì đất trời phút chốc đã qua,
Từ trong bất biến nhìn ra,
Muôn loài muôn vật như ta vô cùng.
(Tô Đông Pha, Xích Bích phú)
Nhìn vào cái vũ trụ biến thiên vô cùng
phức tạp này, ta đừng quá bi quan, chỉ nhìn thấy cái loạn, mà không nhìn
thấy cái trị; chỉ nhìn thấy cái mâu thuẫn tương tranh, mà không nhìn
thấy cái hòa ca, tương trợ. Kìa xem muôn triệu sao trời, nhö muôn nghìn
hạt cát vương vãi trên không trung vô tận, thế mà làm sao vẫn "anh đi
đường anh, tôi đường tôi", chẳng hề có va chạm nhau. Xa lộ trời khác với
xa lộ gian trần là không có cảnh trăng sao đâm nhau, gây tai nạn, gây
trở ngại lưu thông cho muôn vì tinh tú khác. Cả đến những sao chổi như
Halley, cũng vẫn len lỏi tìm ra được con đường mình đi, chẳng hề gây
phiền lụy cho ai.
Kìa xem muôn triệu tế bào trong con người:
Chúng luôn luôn hòa hài cộng tác, thường xuyên truyền tín hiệu cho nhau,
luôn luôn hỗ trợ lẫn nhau, chính vì vậy mà con người mới được sung
sướng, khỏe mạnh.
Suy cho cùng, chống đối, mâu thuẫn, là cái
gì phiến diện, cái gì bất thường, cái gì ngoại lệ. Hòa hài, đoàn kết mới
là cái gì cố hữu, cái gì thường xuyên, mới là thông lệ.
Tôi lấy làm lạ là làm sao mặt trời kia
nóng hàng triệu độ, mà khi xuống tới trần hoàn, sức nóng chỉ còn lửng
lơ, từ vài chục độ, tới trăm độ Fahrenheit!
Mỗi lần buổi sáng, mở vòi nước rửa mặt,
tôi lại cám ơn nhân quần, vì tôi đang sống ở sa mạc Cali, mà vẫn có đầy
đủ nước mà xài, với một giá rẻ mạt. Giòng sông Santa Ana tuy hầu như
quanh năm khô cạn, tôi vẫn không lo, vì nước tôi dùng đã được vận chuyển
từ Colorado về.
Tuy chỉ là một phần tử nhỏ nhoi trong trời
đất vô biên, tôi vẫn cảm thấy mặt trời và trăng sao như là của riêng
tôi. Mặt trời soi sáng cho tôi mỗi ngày; mặt trăng làm lịch cho tôi xem
hằng tháng; và tôi thầm trách sương khói Cali đã làm mờ hết bàu trời đầy
sao của tôi, làm tôi không còn thấy Ngưu Lang, Chức Nữ; không còn thấy Ô
Thước bắc cầu Ngân sang; không còn thấy con vịt khi thì cúi mình, khi
thì ngóc cổ, kiếm ăn bên giải Ngân Hà. Tuy đôi khi vẫn thấy sao Lang
(Sirius), vẫn thấy chòm sao Tất, Chủy, chứa đựng lạp thần Orion nơi phía
đầu nhà; nhưng sao Lang, tôi thấy có màu sắc Ai Cập hơn, và chòm sao
Orion có hình thái Hi Lạp hơn, trong khi các bậc tiền bối trưởng thượng
Việt Nam bây giờ lại khuyến dụ tôi phải tìm cho ra hương sắc Việt Nam ở
khắp muôn nơi... Tôi yêu dạ lý hương, đưa mùi hương đến cho tôi lúc ban
đêm. Tôi yêu những bông hồng mà bạn tôi cho phép ngắt, để đem về cắm
bình nhà. Tôi cám ơn bàu không khí trong lành mà không lúc nào trời đất
không dành sẵn cho tôi. Mỗi khi tôi thấy cung cÁch những bệnh nhân vào
nhà thương phải bỏ tiền ra mua dưỡng khí, tôi mới thấy đất trời hết sức
rộng lượng với tôi; tuy nhiên vẫn thầm chê đất trời là không biết tính
toan, buôn bán, làm giàu. Sống an toàn ngày nay, nhiều khi tôi thả hồn
mộng cho thời gian xô lùi về cảnh đời dĩ vãng, tôi thấy tôi mắc nợ biết
bao là chiến sĩ đã xả thân ngoài chiến địa, cho tôi được sống những ngày
thảnh thơi tại Sàigòn, ròng rã trong mấy chục năm trời chinh chiến.
Tôi cảm ơn các chuyến máy bay đã đưa tôi
từ miền Cộng Sản sang tới Mỹ Châu. Khởi hành từ Thái Lan vào 6 giờ chiều
ngày 22 tháng Giêng năm 1982, tôi đã ghé Hồng Kông, ghé Anchorage
(Alaska), giáp ranh Bắc Cực, để rồi đáp xuống phi trường Oakland, (San
Francisco), hồi 7 giờ sáng ngày 22. Thế là tôi đã đi ngược dòng thời
gian, bay qua muôn vạn dặm, mà không mất phút giây nào, lại còn lãi được
11 giờ, làm cho tuổi tác trẻ trung thêm. Thật là ly kỳ hơn chuyện thần
thoại. Tôi rất cảm ơn những người mà tôi xa lạ, đã hết sức niềm nở đón
tiếp tôi, tận tình giứp đỡ tôi, lo lắng cho tôi được «an cư, lạc
nghiệp». Những bài học triết học, những ý nghĩa triết học về
thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, về quan niệm vạn
vật tương ứng, tương thông, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng, tôi
đã tìm ra, mà chẳng cần phải đọc Pháp Hoa, hay Hoa Nghiêm; chỉ việc rút
tỉa từ đời sống hằng ngày, từ những ánh mắt trìu mến, từ những cử chỉ
thân yêu của tha nhân.
Tôi cảm ơn cái màn ảnh vô tuyến đã cho tôi
«thiên lý nhãn», vì bất kỳ giờ nào, phút nào cũng cho tôi
biết tin tức và hình ảnh muôn phương, bất kỳ là ở ngoài, hay ở trong bức
màn sắt, bức màn tre.
Tôi cảm ơn cái điện thoại vô tri bên tôi
đã cho tôi «thiên lý nhĩ». Tôi chỉ cần xoay xoay, hay bấm
bấm mấy con số, là lập tức đã có thể đàm thoại với bè bạn muôn phương.
Tôi thấy tôi gắn bó với đất trời, với
những tinh cầu xa muôn vạn dặm. Thấy các giải Ngân hà đang chạy xa tôi,
tôi cảm thấy lòng như thêm hoang vắng. Thấy hiện ra thêm một tinh vân
mới nào, tôi thấy như gia tài thiên nhiên lại giàu có hơn một mức. Tôi
không thích mặt trời có những vết nhọ nhem trên gương mặt. Tôi lại hết
sức không ưa chuyện trái đất chuyển mình, hờn giận, làm cho dân Cali
nhiều khi xanh cả mặt, nát cả lòng.
Tôi thấy tôi gắn bó với khắp nhân quần:
thương những người Ethiopia đói khổ; thương những người Afganistan,
Nicaragua, đang xả thân, chống lại bạo quyền. Và cứ thế miên man đến
sinh linh:
Thương con quốc rũ kêu mùa hạ,
Thương cánh bèo trôi giạt bể Đông,
Thương vợ chồng Ngâu, duyên chểnh mảng,
Thương cha mẹ nhện số long đong...
Tôi cũng thấy tâm linh tôi keo sơn, gắn bó
với Nguồn sinh của đất trời.
Tôi thấy tôi như đang ngụp lặn trong một
tình yêu vô biên của trời đất, của nhân quần.
Tôi cũng không hiểu sao mà trời đất, mà
muôn vạn sinh linh lại thương yêu tôi đến như vậy. Mỗi khi bước vào các
siêu thị, tôi thấy bày la liệt, nào tôm, nào cá, nào thịt, nào rau;
gừng, nghệ, tỏi, hành, cà chua, su hào, bắp cải, hồng, nho, lê, táo,
chẳng thiếu một thứ gì. Bỗng tôi thấy như thân xác tôi đang được xé
thành nhiều mảnh vụn, bày trong lồng kính, xếp trên quày hàng. Đúng như
vậy, vì nếu tôi mua các thứ đó về nhà, nếu nhà tôi ra tay xào nấu thì
chỉ ít giờ sau, tất cả những thứ đó, sẽ trở thành xương, thịt tôi, không
còn gợn chút nào bóng hình cá, tôm, rau cỏ. Cá tôm đã thoát kiếp vật, mà
sang sống kiếp người! Tôi mới hiểu tại sao mà các bà nội trợ ở Việt Nam,
trước khi cắt tiết gà, tiết vịt lại lẩm bẩm một câu hết sức là khôi hài:
«Tao hóa kiếp cho mày, kiếp này sang kiếp khác.» Tôi thấy tôi, từ
bé đến nay, sở dĩ sống được, chính là nhờ muôn vạn sinh linh đã hóa
kiếp, xả thân vì tôi, một cách trực tiếp, hay gián tiếp. Nghĩ vậy, tôi
cảm thấy hết sức bồi hồi, và nguyện sống sao cho hay, cho đẹp để khỏi
phụ lòng kỳ vọng của trời đất, quần sinh...
Tôi thấy đâu đâu cũng là quê hương thân
yêu của tôi, một quê hương bao la, chỉ có thể được đo bằng những năm ánh
sáng. Tôi thấy ai cũng là ruột thịt, anh em tôi, dù người ấy nói tiếng
Tàu, tiếng Mỹ, tiếng «Xì» (Mễ), hay tiếng Việt. Và niềm tin tôi đối với
Thượng đế trở nên sâu xa, mãnh liệt; tình yêu tôi đối với Ngài trở nên
thắm thiết, keo sơn. Ngài há chẳng phải chính là Nguồn sinh tôi, chính
là Bản Thể tôi, chính là sự dựa nương tôi, chính là sự che chở tôi? Tôi
há chẳng đã thật sự sống trong Ngài, và hoạt động trong Ngài, bởi Ngài,
và vì Ngài?
Tôi càng ngày càng thấy yêu cái thuyết
«Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể», mà ít là tôi cũng có chút công khơi
lên từ lòng sâu thời gian và quên lãng. Nhờ nó, mà tôi tìm lại được
Thiên tính của con người; tìm lại được mối giây liên đới cố hữu gắn bó
người với người, người với quần sinh, vũ trụ. Nhờ nó mà tôi tìm lại được
cho mình một đời sống hồn nhiên, khinh phiêu, hào sảng, tĩnh lãng. Tôi
thấy tôi cần phải chia xẻ học thuyết này cùng quí vị, là những huynh đệ
mà tôi yêu quí. Nếu vạn nhất mà quí vị, vì không hiểu tôi, trách móc
tôi, oán hờn tôi, cái đó cũng không sao, miễn là tôi đã làm được một cái
gì mà lương tâm tôi buộc tôi phải làm.
Như vậy, cái vũ trụ mà tôi vừa trình bày
cùng quí vị, đã tung tỏa ra từ một Nguồn mạch linh thiêng duy nhất. Tuy
vũ trụ này thiên biến, vạn hóa, nhưng không bao giờ rời khỏi được cái
Căn Nguyên vĩnh cửu đó. Và cái Căn Nguyên vĩnh cửu ấy, dù uy nghi, siêu
việt mấy đi chăng nữa cũng không cách nào lìa xa được cái vũ trụ hữu
hình này. Đó là thuyết Thượng Đế nội tại (God's immanence), một học
thuyết sẽ đem lại uy nghi trang trọng cho trần hoàn, đem sang cả lại cho
nhân thế. Thật vậy, nếu Thượng Đế tiềm ẩn trong lòng sâu vạn hữu, thì
muốn tìm ra Đấng vô cùng, ta phải lục lọi trong hữu hạn. Thay vì tìm Vô
Cùng ở đâu đó xa xăm, ta trở vào tâm khảm ta, vượt qua những tầng lớp
tiểu ngã, vọng tâm, những tầng lớp tâm tư, trí lự, lục dục, thất tình,
vượt qua các lớp tứ đại, ngũ uẩn, để vào tới Chân Tâm, tới Lương Tâm.
Lúc ấy ta sẽ thấy Vô Cùng hiện ra sau những lớp màn che, những lớp mây
mù Hữu Hạn.
Đi sâu vào nội tâm, tìm ra được Bản Thể
linh thiêng, tìm ra được «Khuôn thiêng» muôn loài, đối với Nho giáo là
cái học cao siêu nhất. Đại Học viết:
Muốn đức sáng truyền đi thiên hạ,
Người xưa lo cải hóa dân mình,
Trị dân, trước trị gia đình,
Gia đình muốn trị, sửa mình trước tiên,
Muốn sửa mình, tâm nên sửa trước,
Sửa tâm hồn, trước cốt ý hay,
Ý hay, phải học cho dày
Dày công học vấn, sẽ hay Khuôn Trời,
Hay Khuôn Trời, thoắt thôi thấu triệt,
Thấu triệt rồi, ý thiệt lòng ngay,
Lòng ngay, ta sẽ hóa hay,
Ta hay, gia đạo mỗi ngày một yên,
Nhà đã yên, nước liền thịnh trị,
Nước trị bình, bốn bể bình an...
Tôi sở dĩ dịch «Cách» là «Khuôn», vì thấy
trong Tự Tình Khúc, Cao Bá Nhạ có viết:
Bình dẫu phá, còn lề cốt cách,
Gương dù tan, vẫn sạch trần ai...
Tưởng cũng nên lưu ý quí vị rằng: «Thuyết
Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể» của Hiền thánh Á Đông có thể dịch sang
tiếng Mỹ là The Monistic Theory; còn thuyết «Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất
Thể» của Hiền thánh Âu Châu lại thường được mệnh danh là The Emanation
theory (Thuyết Phóng Phát). Một đằng đặt nặng vấn đề Căn Cốt muôn loài;
một đằng muốn nhấn mạnh cung cách mà muôn loài đã tung tỏa ra từ một Bản
thể. Hiền thánh Đông, Tây, Kim, Cổ đều chia sẻ học thuyết này. Dù là
Upanishads của Bà La Môn; dù là kinh tạng Phật giáo; dù là Đạo tạng của
Lão giáo; dù là Tứ Thư, Ngũ Kinh của Nho giáo; dù là cơ bút Cao Đài; dù
là Sepher Yetzirah, hay Sepher ha Zohar của Kabalah (Mật tông Do Thái
Giáo); dù là kỳ thư, bí điển của Tam Điểm (Free-Masonry), hay của phái
Hồng Hoa Thập Tự (Rosicrucians); dù là Pythagoras, dù là phái Tân- Bá-
Lạp- Đồ (Neo- Platonism), dù là phái Bạch Y (Sufism- Hồi giáo); dù là
khoa Chiêm tinh (Astrology), khoa Luyện Kim (Alchemy), dù là khoa Tarot,
nhất nhất đều nói lên một tiếng nói duy nhất: «Vũ trụ này đã được tung
tỏa, phóng phát ra từ một Căn Nguyên duy nhất.» Tôi tìm ra cái mẫu số
chung nhân loại này vào khoảng mùa hè năm 1976, âu là trời đất cũng đem
tặng cho tôi một nguồn yên ủi, trong khi tôi còn kẹt lại ở Việt Nam.
Thật hết sức lạ lùng khi tìm ra được một kho tàng tư tưởng chung cho
nhân loại, lại là lúc hết sức thiếu thốn sách vở, lại là lúc sống hết
sức âm thầm, nỗi riêng không biết ngỏ cùng ai. Lúc ấy, thực là:
Muốn nói, nhưng mà nói với ai,
Muốn làm, ai kẻ bạn đường đời,
Gia vong, quốc phá niềm thương hận,
Huyết lệ đôi dòng, chảy khúc nhôi.
Một ngày nào đó, khi có dịp thuận tiện,
tôi sẽ mời quí vị cùng tôi đi vào cái vườn thượng uyển, đầy hoa hương,
mà trời đất riêng dành cho những mặc khách tao nhân của muôn phương ấy.
Trên đây, tôi đã trình bày cùng quí vị,
Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể, hay Thuyết Phóng Phát Tán Phân,
như là kể lại những mẩu chuyện tâm tình, bây giờ tôi xin được trình này
lại học thuyết này dưới dạng thức một bản toát lược của một Học thuyết
triết học:
Như trên đã nói, vũ trụ này đã do một Bản
Thể duy nhất phóng phát, tán phân, sinh hóa ra. Nó là đối đỉnh của
Thuyết Tạo Dựng bởi không (Creation ex nihilo). Tuy nhiên, có nhiều khía
cạnh của vấn đề, chúng ta cần nắm vững.
1) Trước hết, là khi chưa có vũ trụ này,
thì Bản Thể là Nhất Nguyên Thuần Túy (Absolute Unity). Lúc ấy, Bản Thể
được gọi là Hư, là Vô, là Không (Phật, Lão); là Brahman vô ngã (Bà La
Môn); là Chân Như (Phật); là Cái Đó, là Giá Cá; là Vô Cực (Nho); là Ein-Sof
(Kabalah), và được tượng trưng bằng số 1, số 0, hay là bằng hình tròn
không có tâm điểm. Lúc ấy Bản thể còn ở trong thế Ẩn, thế Tiềm Phục
(latence, non- manifestation), còn ở trong tình trạng vô bỉ, vô thử; vô
nhân, vô ngã; nên các bậc Chánh Giác cũng tránh không dùng những danh
hiệu cụ thể để khỏi mang tiếng giới hạn Vô Cùng vào vòng Hình
(Archetypes), Danh (Names), Sắc, Tướng (Forms & Qualities).
2) Khi bắt đầu hiển dương, thì Nhất Nguyên
Thuần Túy ấy sinh ra Nhất Nguyên Lưỡng Cực (Polarized Unity), tức là tuy
nhất nguyên, nhưng thực ra, đã hàm tàng, bao quát cả Âm, lẫn Dương, cả
hai bề Khinh Thanh, Trọng Trọc, cả hai bề Tinh Thần lẫn Vật Chất của vũ
trụ.
Khi ấy, Bản Thể được gọi là Chân Tâm, Phật
tính, A Lại Da (Phật); Atman (Bà La Môn); Thái Cực (Dịch, Nho); Đạo
(Lão); Logos [Heraclitus khoảng thế kỷ 5 trước C.N., và Philo (30 B.C.-
50 A.D.)]; Kim Đơn (Lão); Minh Triết Thạch (Lapis Philosophorum) (Khoa
Luyện Đơn Âu Châu) v.v... Khi ấy Bản Thể được tượng trưng bằng:
- Hình tròn có chấm giữa. (Chấm giữa là
Sinh cơ; hình tròn bên ngoài là Vạn hữu)
- Hình Thái Cực (gồm cả Âm lẫn Dương).
- Hình Rebis: Re = Res = Vật thể.- Bis =
Lưỡng = Hai (Nhất Vật, Lưỡng Thể).
- Hình Người Á nam, Á nữ (Androgyne; Andro
= Nam; Gyne = Nữ).
- Số 5 (vì 5 = 2+3) (5 là Thái Cực; 2 là
âm, 3 là Dương).
- Số 15 (15 = 6+9) (6 = Âm; 9 = Dương).
Các nhà
Huyền học Do Thái Giáo (Kabalah) đưa ra nhận định rằng: Khi mà Ein- Sof
(Vô Cực) muốn sinh ra Hữu (Kether, Thái Cực), để rồi Hữu sinh ra Vạn
hữu, thì Vô phải co mình lại (Contraction) vào một Tâm điểm Uyên Nguyên,
sau này sẽ là Nguồn Sinh Hóa Vô Tận. Họ gọi sự Co Mình, sự Thu Súc này
là Zimzum. Các nhà Huyền Học Á Châu khi thì nói Hữu sinh ư Vô (Lão), ngụ
ý trọng Vô hơn Hữu; khi thì nói Vô Cực nhi Thái Cực (Chu Liêm Khê), ngụ
ý hai đằng chẳng qua là hai phương diện Ẩn, Hiện; Vi, Hiển của một Thực
Thể Duy Nhất mà thôi.
Nơi
chương I Đạo Đức Kinh, chính Lão Tử cũng lại đưa ra quan điểm Ẩn, Hiện
chỉ là hai bộ mặt của Đạo:
Hóa Công hồ dễ đặt tên,
Khuôn thiêng hồ dễ mà đem luận bàn,
Không tên, sáng tạo thế gian,
Có tên là mẹ muôn ngàn thụ sinh,
Tịch nhiên cho thấy uy linh,
Hiển dương cho thấy công trình vân vi,
Hai phương diện một Hóa Nhi,
Huyền linh khôn xiết, huyền vi khôn
lường
Ấy là chúng diệu chi môn,
Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền
vi.
3) Bản thế duy nhất sinh xuất ra vũ trụ
bằng cách:
- PHÓNG PHÁT (EMANATION), và
- PHÂN HÓA (DIVISION), hay SINH HÓA
(GENERATION).
PHÓNG
PHÁT là phát quang, là tung tỏa chính Bản
Thể mình
ra. Tiếng Pháp lẫn tiếng Anh đều dùng chữ Emanation.
PHÂN HÓA
là phân chia dần ra mãi: 1 sinh 2; 2 sinh 4; 4 sinh 8 v.v... 4) Phóng
phát, phân hóa không thể vô cùng tận. Tới mức độ nào đó, sẽ có sự chuyển
hướng, phản phục. Cho nên, tiếp theo thời kỳ phóng phát và phân hóa
(emanation and division), sẽ đến thời kỳ thâu liễm, hợp nhất
(absorption, re- absorption, reintegration, union, re- union).
4) Hai chiều PHÓNG PHÁT, PHÂN HÓA - THÂU
LIỄM, HỢP NHẤT hợp thành một vòng biến dịch tuần hoàn, để thực hiện một
điều kỳ diệu là: THỦY CHUNG NHƯ NHẤT; ALPHA = OMEGA.
Vòng biến dịch tuần hoàn ấy được gọi là:
- Vòng Biến Dịch (Nho, Lão).
- Vòng Luân Hồi; Pháp Luân; vòng Duyên
Nghiệp (Bà La Môn giáo, Phật giáo).
- Vòng Chu Xà (Ouroboros) (Âu Châu, Thông
Thiên học).
- Vòng Đại Chu Thiên (Á Châu).
5) Thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể
sẽ trở thành một học thuyết đạo giáo hết sức cao siêu, nếu ta thay thế
chữ Bản Thể bằng những danh từ Thượng đế, Allah, Chân Như, Đạo v.v...Tuy
nhiên, nó hết sức khác với tôn chỉ của các đạo giáo công truyền, vì nó
chủ trương:
- Thượng
đế hàm tàng, ẩn ngụ trong lòng sâu vạn hữu.
- Con
người có Thiên tính.
- Mọi
người đều có một giá trị siêu việt, đều có sẵn nơi mình những khả năng
vô biên, vô tận, đều có thể tiến hóa vô biên tận.
- Mọi
người phải tương ái, tương thân, vì đều có cùng một bản thể.
- Mọi
người phải đem tình yêu ban rải tới chúng sinh, vì chúng sinh cũng đồng
bản thể như mình.
- Phải đi
vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời.
- Phải
đoàn kết để giải quyết mọi dở dang, chếch mác còn có trên đời này.
- Mục
đích của đời sống là sống cao khiết, kết hợp nhất như với Thượng đế ngay
từ khi còn ở gian trần này.
- Khi còn
ngây thơ, thì trông vào tha lực; khi đã trưởng thành, đã giác ngộ thì
trông vào tự lực.
- Lương
tâm là Thiên Thư duy nhất, không có nhiễm màu thời gian, và không gian;
không ai có thể manh tâm sửa đổi được.
6) Quan niệm: Vũ trụ này từ một Bản Thể
sinh hóa, phóng phát ra, rồi lại được thâu liễm, qui hoàn hợp nhất lại
nơi Bản Thể, vẽ ra một vòng biến dịch hai chiều:
- Chiều
sinh hóa, phóng phát, tức là chiều tạo dựng nên vạn vật, vạn tượng. Đó
là chiều vãng, chiều hướng ngoại, chiều từ Nhất đến Vạn, chiều ly tâm,
chiều xuôi dòng đời, chiều sinh nhân, sinh vật.
- Chiều
thu liễm, hợp nhất, tức là chiều sinh thánh, sinh thần Đó là chiều lai,
chiều hướng nội, chiều phản hồi, chiều hướng tâm, chiều "qui căn, phản
bản".
Cuối vòng
biến dịch, ta sẽ gặp lại Bản Thể thuần nhất.
7) Quan niệm phóng phát và qui hoàn cũng
vẽ lại định mệnh con người. Con người tự trời xuống trần, rồi lại tự
trần trở về trời. Thế gọi là trở về ngôi vị cũ. Như vậy, giác ngộ là
giác ngộ được căn cơ, gốc gác của mình, tìm ra được con đường đưa mình
về quê hương cũ. Thế là Đắc Nhất, thế là Liễu Nhất, thế là Phối Thiên,
thế là "ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm", thế là "Ly nhất thiết chư tướng"
theo từ ngữ kinh Kim Cương. Đó chính là mục đích tối hậu của con người.
8) Cuối
cùng quan niệm phóng phát và qui hoàn cũng được gắn liền với thuyết luân
hồi, đầu thai, chuyển kiếp (metempsychosis; transmigration), của Đông
Tây, và thuyết hồi ký (Reminiscence) của Plato.
Học thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể
đại cương là như vậy. Tuy nhiên, nó trở nên huyền ảo, linh diệu, biến
hóa khôn lường, phong phú khôn tả, vì người xưa đã trình bày học thuyết
này bằng nhiều thể cách, bằng nhiều loại từ ngữ khác nhau
Ví dụ 1: Tư tưởng muốn
trình bày:
Vạn hữu, vũ trụ này do
một Bản Thể Duy Nhất phóng phát ra.
1.- Trình bày bằng từ ngữ thông thường:
Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể. Nhất sinh Vạn, Vạn qui Nhất .
2.- Trình bày bằng từ ngữ huyền thoại
(mythological language): Prajapati,Purusa, Bành tổ, Yemer v.v...
phân thân thành vũ trụ.
3.- Trình bày bằng từ ngữ ví von
(Metaphorical language): Vũ trụ này đã do một quả trứng nguyên thủy phát
sinh. Nửa quả thành trời, nửa quả thành đất. Vỏ cứng thành núi. Màng mền
thành mây, thành sương. Gân máu trong trứng thành sông. Chất lỏng trong
trứng thành biển cả.(Chandogya Upanishad 3:19)
4.- Trình bày bằng từ ngữ số học
(Numerical language): Nhất sinh Vạn, Vạn qui Nhất.
5.- Trình bày bằng từ ngữ tượng hình
(symbolical language):
Chữ Vạn nhà Phật, trong đó Tâm điểm là Bản
Thể bất biến; bốn cánh là Vạn Hữu biến thiên bên ngoài. Tâm điểm là Niết
Bàn; bốn cánh là Sinh, Tử, Luân Hồi.
Hoặc hình Thái Cực tượng trưng cho Bản thể
ở chính giữa. Các hào quải tượng trưng cho muôn loài, vây bủa chung
quanh.
Hoặc hình Thái Cực, tượng trưng cho Bản
Thể, như là một gốc cây phía dưới. Các hào quải, tượng trưng cho Vạn
hữu, như là cành lá ở bên trên.
Hoặc hình mặt trời (Bản thể) tung tỏa muôn
ánh dương quang (Vạn tượng)
Ví dụ 2: Tư tưởng muốn
trình bày:
Vũ trụ này đã do một
Bản thể phóng phát tán phân ra.
1.- Trình bày bằng từ ngữ thông thường:
Vũ trụ này đã do một Bản thể phóng phát tán phân ra.
2.- Trình bày bằng từ ngữ triết học:
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng sinh Bát
Quái.
3.- Trình bày bằng triết tự
(literal or glyphic language):
YHVH sinh ra:
Y
H H
V
(Henri Serouya, La Kabbale, p. 30).
(YHVH thường được đọc là YAHVEH nghĩa là
Thượng đế. Xin lưu ý chữ YHVH chỉ gồm có bốn mẫu tự, nên còn được gọi là
Tứ Tự (Tetragammaton, hay Tetragram hay Tetrac- tys). Ta thấy chữ YHVH ở
đây đã phân thân thành bốn, khi tạo dựng nên vũ trụ). Người Do Thái
kiêng không dám đọc tên này. Và khi gặp sẽ đọc thành Adonai, y thức như
tục lệ Á Đông, kiêng tên húy.
AUM
sinh ra:
A (Sắc giới, khi ta tỉnh)
U (Dục giới, khi ta mơ)
M (Vô sắc giới, khi ta ngủ say)
(AUM
là danh từ chỉ Atman, hay Tuyệt đối của đạo Bà La Môn. Nơi đây, muốn nói
chính Tuyệt đối đã phân thân thành mọi cảnh giới.)
4.- Trình bày tư tưởng trên bằng Từ ngữ số
học (Numerical language):
(Thượng đế =
khi hợp; Vạn hữu = khi phân)
Đồ hình trên đây cũng còn được gọi là Tứ
Tự (Tetractys, hay Tetragram của Pythagoras. Nó cũng tượng trưng cho
YHVH. Khi hợp thì là Thượng đế chí
tôn. Khi phân thì là sinh linh, vạn hữu.
5.- Trình bày tư tưởng trên bằng Từ ngữ
tượng hình.
A) Nhiều người đã dùng tâm điểm và nhiều
vòng tròn đồng tâm để trình bày tư tưởng trên. Tâm điểm là Bản Thể. Các
vòng tròn bên ngoài là các loại hiện tượng, từ khinh thanh đến trọng
trọc, theo thứ tự từ trong ra ngoài. Càng ở vòng trong là càng cao siêu.
Càng ra vòng ngoài là càng thấp kém.
B) Tam điểm ưa dùng hình Tam giác trong
lòng có hình Thiên nhãn, hay có bốn chữ YHVH
đặt vào trung tâm, để tượng trưng cho Thượng đế, cho Bản Thể. Bên ngoài,
có vẽ một vầng mây tròn tượng trưng cho Vạn hữu.
6.- Trình
bày tư tưởng trên bằng ma phương (Magic square):
Ma phương này có đặc điểm là được cả Á lẫn
Âu dùng: Số 5 bên trong là Thượng đế, là Thái Cực. Các con số bên ngoài
là Vạn hữu. Ta thấy nhìn phía nào beân ngoaøi cũng là 10, nghĩa là do 5
phân thân ra. Bề nào cũng là 15 mà 15 như trên đã nói, tượng trưng cho
Thượng đế.
Cái kỳ diệu ở nơi đây là ta đã học được
với cổ nhân vô số là từ ngữ mới. Trong vòng một khoảnh khắc, ta đã biết
thêm bao nhiêu là thứ tiếng mới.
Ngoài ra, Thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng
Nhất Thể và Thuyết Phóng Phát, Tán Phân của chúng ta đã được tạc thành
những hình tượng khổng lồ ở dưới đất, và được gửi gấp vào các vì sao
trên khung trời thẳm. Trên trời thì Tứ Tượng được ghi tạc bằng bốn cung
trời: Đó là cung Kim Ngưu (Bò), cung Sư tử (Sư tử), cung Ma yết (Phượng)
và cung Bảo Bình (Người). ở trần gian, thì các quái thú, như thấy ở vùng
Assyria, đều có mặt Người, mình Sư tử, cánh Phượng, chân Bò... Lạ lùng
thay Ezechiel đã thấy bốn quái thú trên, bên sông Kebar (Ezec. 1: 4-
12); và đọc Khải Huyền ta cũng thấy 4 quái thú quen thuộc ấy chầu quanh
toà Thiên Chúa (Rev.4:7- 8). Phải chăng đâu có Tứ Tượng, đấy có Thái
Cực? Phải chăng, nếu nhìn vũ trụ này một cách phiến diện, sẽ thấy Sâm
Thương cách trở; Đông, Tây, Nam, Bắc chia phôi; nhưng nếu nhìn sâu sắc,
sẽ thấy Tất Cả là Một. Một chân lý, bao quát không gian, thời gian, được
trình diễn ra bằng huyền thoại muôn phương, muôn nước; được vẽ lại bằng
những hình ảnh của muôn nơi; được tung lên trời; được tạc vào đá; được
Hiền thánh cổ kim chắt chiu, ấp ủ, chẳng phải là Chân Lý đáng cho chúng
ta tiềm tâm suy cứu hay sao? Biết bao Hiền thánh trong quá vãng và trong
hiện tại đã và đang dùng nó như con rồng thiêng để vượt muôn tầm, trở về
với Nguồn Sinh muôn loài; trở về với Trung Tâm hằng cửu bất biến, vừa là
Trung Tâm vũ Trụ, vừa là Trung Tâm con người. Điều đó chẳng đáng cho
chúng ta lưu tâm, chú ý hay sao?
CHÚ THÍCH
|