Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7
8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 8
BÀN VỀ CHÂN LÝ
Đối với
những người «có đức tin», thì chân lý là cái gì chắc như cục gạch. Mà đã
tin rồi, thì đến chết, thì dù chết vẫn còn tin.
Dù ai nói Đông, nói Tây,
Ta đây cũng vững như cây giữa rừng.
Dù ai nói ngả, nói nghiêng,
Thì ta cũng vững như kiềng ba chân!.
Thế
nhưng đối với những hạng «ăn không, ngồi rồi» như các triết gia, thì
chân lý lại xổng như hoãng, lẩn như trạch. Mỗi chỗ, mỗi đạo, Chân lý lại
đeo một mặt nạ hóa trang mới. Pontius Pilatus, trong cuộc chạm trán với
Chân Lý, với đấng tự xưng: «Ta là Đường, là Sự Sống, là Chân
Lý.» (John, 14:6), lại dám ngạo nghễ đặt vấn đề: «Chân lý
là gì?» (John,18:38) Lạ lùng thay câu hỏi này đã chẳng được Hiện
thân Chân Lý trả lời. Tuy nhiên Ngài cũng cho biết trong một trường hợp
khác rằng: «Chân lý sẽ làm cho chúng ta được tự do.» (John 8,32).
Nữ sĩ Tùng Long, trong một cuộc đàm đạo với tôi, đã nói: «Có nhiều
điều ở xa, tưởng là chân lý; đến gần xem, lại thấy không còn là chân lý
nữa.» Câu nói này làm tôi suy tư rất nhiều. Thực vậy, có điều thì
vùng này cho là «chân», vùng kia lại cho là «ngụy»; thời này cho là
chân, thời khác lại cho là ngụy. Pascal đã phải nói: «Bên này dãy núi
Pyrénées là chân, bên kia lại cho là ngụy.» Có điều Tây cho là Chân;
Đông lại cho là Ngụy, v.v... Nhân loại xưa nay cứ như vậy mãi mãi, cứ
luôn luôn «sư bảo sư phải; vãi nói vãi hay.» Khẩu chiến không đủ,
lại bút chiến; bút chiến chưa hả, quay sang chém giết lẫn nhau, không
phải là một vài giờ, mà là trải nhiều năm tháng. Công giáo đã so gươm
với Hồi giáo trải qua năm cuộc thánh chiến (1096–1099; 1147–1149;
1189–1192; 1202–1204; 1216–1217); so gươm với Tin Lành cũng khoảng mấy
chục năm. Mãi đến thỏa ước Augsburg (1555), đôi bên mới chấp nhận thế da
beo, qui thành những vùng Công giáo riêng, và Tin Lành riêng.
TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐOÁN
ĐỊNH CHÂN LÝ
Giáo Hội
Công Giáo đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn để đoán định thế nào là Chân Lý.
1.- Chân
lý phải được xây dựng trên các lời Thánh Kinh, vì Thánh Kinh là Lời
Chúa; mà Lời Chúa thì không sai.
2.- Phải
được 12 Tông Đồ truyền lại. Kinh Tin Kính mà các giáo hữu Công giáo
thường đọc, tương truyền là do các Tông đồ truyền lại. Nhưng thực ra nó
mới được thành hình vào khoảng thế kỷ thứ tư, và hoàn tất vào năm 1543.
3.- Nó
phải được các thánh Giáo Phụ (nghĩa là những vị Thánh Công giáo trong
những thế kỷ đầu tiên) tin và giữ như Clement, Ignatius, Polycarp,
Justin, Irenaeus, Athanasius, John Chrysostom, Cyril, Basil, Gregory of
Nyssa, Ambrose, Augustine, Tertullian rao giảng, v.v...
4.- Nó
phải được các Công đồng Giáo hội tuyên xưng. Có 21 Công đồng lớn từ
trước tới nay: I Nicene (325); I Constantinople (381); Ephesus (431),
Chalcedon (451); II Constantinople (553); III Constantinople (680); II
Nicea (787); IV Constantinople (869); I Lateran (1123); II Lateran
(1215); III Lateran (1779); IV Lateran (1215); I Lyon (1245); II Lyon
(1274); Vienne (France) (1311); Constance (1414- 1418); Basel (1431); V
Lateran (1512- 17); Trente (1545- 63); I Vatican (1869 - 1870); II
Vatican (1963- 65)...
5.- Nó
phải được Giáo hội dạy tuân giữ.
6.- Nếu
có thể, nó phải được mọi người chấp nhận (hominum consensus).
Nói nghe
thì to tát như vậy, nhưng chung qui vẫn là: Chân lý là cái gì do Giáo
hội chỉ dạy.
Giáo hội
mới là cơ quan đoán định tối hậu, quyết định tối hậu.
Về phương
diện Thánh kinh, Giáo hội đã quyết định sách nào là Thánh kinh.
Ví dụ
trường hợp Thánh Kinh cũ: Giáo hội Công giáo đã có thêm nhiều sách mà Do
Thái Giáo, hay Tin Lành không có, hay không chấp nhận là Thánh Kinh. Ví
dụ như: Esther; Judita; Tobya; Macabê I & II; Khôn ngoan; Huấn ca
(Ecclesiasticus); Baruch 1- 5; Baruch 6; nhiều chương nhiều đoạn của
sách Daniel (xem Daniel 3: 24- 90.- Daniel 13; Daniel 14).
Công giáo
cho những quyển trên là Chân thư. Tin Lành cho đó là Ngụy thư. Và nếu
chúng ta có trong tay một quyển Thánh Kinh, dở ra xem, thấy có sách
Macabê chẳng hạn, chắc chắn là Thánh thư Công giáo; nếu không có, chắc
chắn là của Tin Lành.
Trong số
gọi là Tân ước cũng đã được tuyển lựa từ một số lớn sách. Những quyển
không được Giáo Hội lựa là Tân ước, nay trở thành những Ngụy thư như:
Phúc âm người Do Thái; Phúc âm Phêrô; Phúc âm thời thơ ấu (của Chúa);
Công vụ Paul và Thecla; Công vụ John; Công vụ Thomas; Khải Huyền Phêrô.
Mới hay sách vở cũng như con người có may, có rủi. «Để thì là hòn đất,
cất thì thành ông Bụt.» Đúng là:
Thời
lai, phong tống Đằng vương các,
Vận khứ,
lôi anh tiến phúc bi.
Dịch:
Lúc may, gió thổi lầu Đằng tới,
Vận bĩ, bia chôn sấm cuốn đi...
Cho mãi
tới khoảng năm 180, thì toàn bộ Kinh thánh mới chỉ mới có là 22 quyển.
Đến năm 326, nhờ uy thế của thánh Athanasius, toàn bộ tân ước lên tới 27
quyển như ngày nay.
Mới hay,
thời gian có một uy lực vô biên. Và con người cũng có một quyền lực vô
biên không kém!
Giáo hội
chẳng những quyết định đâu là Thánh kinh, mà còn giữ độc quyền tùy thời
giải thích Thánh kinh, cắt nghĩa Thánh kinh theo đường hướng thuận lợi
cho mình.
Ví dụ như
xưa kia, khi khoa học chưa tiến bộ, thì Giáo hội cho rằng những điều
Kinh Thánh dạy về sự tạo dựng nên vũ trụ, và con người, là sự kiện lịch
sử; là chân lý hoàn toàn. Trời đất thực sự đã được tạo dựng nên trong
vòng 7 ngày. Ngày thứ hai, Chúa thực sự đã dựng nên một «vòm trời» cong
cong, và chắc chắn, giống như vòm trần của Convention Center ở Anaheim.
Cái vòm đó gọi là trời (Genesis 1:6- 7). Vòm đó có đục những cửa, có gắn
thêm những cửa như là những cửa đập nước. Nước phía trên vòm, thường thì
không đổ xuống, trừ khi Trời muốn làm lụt cả, lúc ấy mới mở các cánh cửa
đập trời ra (Genesis 7; 11- 12), và mưa mới đổ xuống như thác lũ (Gen.
7: 12). Trên vòm trời đó đã gắn những vì sao; và hai ngọn đèn trời, là
mặt trăng mặt trời, thì đi lại trên đó để sáng soi cho trái đất (Gen. 1:
15- 19.- Josuah,10: 10- 15). Vòm trời đó có nhiều cột chống, và mỗi khi
Chúa thịnh nộ thì thảy đều rung chuyển (Job 26:11). Trái đất thì đứng y
nguyên tại chỗ (Ecclesiastes 1:4), và cũng có nhiều cột chống đỡ (Job,
9:6; Psalm 75 (74):4). Đất phẳng và có bờ, có mép.
Trời có
thể «cầm bờ, cầm mép» đất đó mà lắc, mà rung chuyển đất, cho kẻ dữ phải
sợ hãi...(Job, 38: 13).
Trời,
đất, người và vạn vật đã được tạo dựng nên khoảng vào năm 4004 trước
C.N.
Galileo
(1564–1641), là người đầu tiên chủ trương trái đất quay quanh mặt trời,
đã bị Giáo Hội trừng phạt, vì dám nói sai Thánh Kinh. Nhưng càng về sau,
khi mà Darwin ra đời, khi mà khoa học bắt đầu dùng đủ mọi phương pháp
đào bới, xới lộn đất đai để khảo về cổ sinh vật; khi mà họ đã dùng mọi
phương pháp tối tân, để chứng minh thái dương hệ đã có từ nhiều tỉ năm;
vạn vật đã có từ nhiều triệu nay, thì Giáo hội lui về thế chống đỡ.
Thoạt đầu thì cắt nghĩa lại chữ Yôm. Chữ Yôm không còn được cắt nghĩa là
«Ngày» như xưa nữa, mà phải hiểu là một «thời kỳ địa chất», tức là nhiều
triệu năm. Sau cùng, thấy lối giải thích đó cũng không ổn,
các vị
lãnh đạo Giáo hội đã có một chủ trương mới mẻ rằng: Các tác giả các
thánh thư không có ý dạy về khoa học, mà chỉ có ý cứu rỗi nhân loại, nên
nhiều khi các Ngài cũng dùng những kiểu nói bóng bảy của dân gian,
và
ủy ban nghiên cứu Thánh Kinh cho rằng ba đoạn đầu Sáng Thế Ký không có
tính chất khoa học chính xác, mà chỉ là nói theo sự nhận biết của dân
gian đương thời.
Đúng là chủ trương «lý, sự vô ngại; sự sự vô ngại» của Phật giáo, và như
vậy chân lý hết sức là uyển chuyển, biến thiên.
Dở Kinh
Thánh ra ta thấy luôn luôn là Trời phán thế này, Trời phán thế nọ. Có
điều rất lạ là khi thì Chúa nói rằng ai mà thấy mặt ta thời sẽ chết
(Exodus 33: 18- 24); khi thì lại cho Moses thấy mặt (Exodus,33:11), cho
dân Do Thái thấy mặt (Deuteronome 5:4); khi thì lại cho Jacob thấy mặt
(Genesis 33:31), mà chẳng bắt ai phải chết cả. Ngài hứa chính tay sẽ
khắc lại 10 điều răn trên bia đá (Exodus 34:1), nhưng sau đó không biết
làm sao, Ngài lại sai Moses chép Mười điều răn (Exodus, 34: 27- 28). Xem
như vậy, thì Chúa cũng rất là uyển chuyển, và hết sức là «dơ cao, đánh
sẽ», y như người cha ở gian trần này.
Có điều
lạ là trong khi bên trời Âu, thì nói Chúa phán thế này, Chúa phán thế
nọ, thì ông Khổng bên trời Đông lại cứ tuyên bố: «Thiên hà ngôn tai!»
天 何 言哉
(Trời có nói gì đâu! – Luận ngữ, Dương Hóa XVII, 18).
Bên trời
Âu, nhờ quyền uy của Giáo hội Công giáo, mà «đức tin» đã bất biến trong
vòng 15 thế kỷ. Thế nhưng rồi Luther ở đâu lừng lững tiến ra. Ông không
chấp nhận quyền Giáo Hoàng và Giáo Hội. ông chỉ biết theo tiếng lương
tâm, và tin vào sách Thánh. Giáo Hội Công Giáo gọi ông ra trình diện tại
Hội nghị Worms năm 1521, và bắt ông phải trừu lại mọi lời ông đã tuyên
bố. Ông khẳng khái trả lời: «Lương tâm tôi bị chi phối, bị chinh phục
bởi lời Thiên Chúa. Tôi không thể phản lại lời tôi, vì đi ngược lương
tâm thì đâu có tốt, có hay. Đây tôi đây, tôi chẳng làm gì khác được. Xin
Chúa giúp tôi. Amen!» Thời ấy mà dám tuyên bố như vậy, là ký vào bản
án tử hình của mình. Thế mà Luther đã dám làm. Thật là hào hùng! Thật là
khẳng khái! Và chỉ trong vòng ít năm trời, ông đã có hàng vạn, hàng
triệu người theo. Thật là hết sức lạ lùng. Và từ ấy, bên trời âu, có
thêm một tôn giáo mới: đó là đạo Tin Lành...
Đạo Do
Thái, đạo Công giáo, đạo Hồi đều cho rằng Chúa hay Allah cũng đều là một
Chúa. Nhưng Do Thái tin rằng Yavê là duy nhất. Ngài không bao giờ có đến
Ba Ngôi, và viện dẫn vô số lời Thánh Kinh để bảo vệ lập trường mình
(Deuteronomy, 6:8; Isaia 45: 5; 45:6; 45: 21; 44: 6- 7; 44:24; 43:11-
13; 40: 25- 26, v.v...). Do Thái cũng không có ý niệm rằng tội tổ tông
có thể truyền cho cả loài người, và khiến cho con người bị trừng phạt
muôn đời, và viện dẫn lời Thánh Kinh cho rằng Chúa chỉ phạt ba đời
(Deuteronomy 4: 9), hoặc một đời (Ezechiel 18:. 2- 4). Do Thái cũng
không bao giờ tin rằng Chúa Jesus là đấng Cứu thế, vì từ khi có đạo Công
Giáo, dân Do Thái đã bị cơ cực, đốn mạt hết sức, thay vì là nếu có đấng
Cứu thế giáng trần, thì Do Thái sẽ được vinh quang, hiển hách, như lời
Thiên Chúa đã phán xưa (Jeremiah, 23: 5- 6). Và dân Do Thái muôn đời vẫn
là dân riêng của Thiên Chúa (Jeremiah, 33:19- 26).
Đối với
Công giáo, thì Chúa 3 ngôi là niềm tin cốt tủy; tội tổ tông, và chuyện
Chúa giáng trần cứu chuộc là một niềm tin cốt tủy. Họ cho rằng đạo Do
Thái – mà theo thánh kinh, thì đạo Do Thái là chính Chúa Trời lập ra –
là một thứ đạo lạc hậu, không cần thiết nữa, vì chính Chúa giáng trần đã
lập ra đạo mới.
Đạo Hồi
giáo, cũng rất kính trọng Chúa Jesus,, nhưng chỉ coi Ngài là một vị tiên
tri, nhưng tiên tri thua kém Mohammed. Mohammed mới là tiên tri đệ nhất
hạng. Chúa Allah là duy nhất không thể nào có con, có cái (Koran, Sura
2, 116). Một ngày 5 lần, người giáo hữu Hồi Hồi phải sấp mình quay về
hướng La Mecca (nếu ở Costa Mesa, thì phải quay đầu lạy về hướng
Tustin!) mà kính cẩn cầu nguyện rằng Allah là đấng Duy Nhất, và Muhammed
là Tiên tri Ngài.
Người
Công giáo tin rằng Đức Mẹ suốt đời đồng trinh, và hết sức tôn sùng Đức
Mẹ, tôn xưng Ngài là Nữ Vương trên trời, là Mẹ Thiên Chúa. Người giáo
hữu Tin Lành thì lại chủ trương, sau khi sinh hạ Chúa Jesus rồi, Đức Mẹ
sau còn có nhiều con trai, con gái khác nữa (Mat. 1:25; Mark. 6:3- 4.-
Mat. 12:46), và chê rằng sự sùng bái Đức Mẹ như vậy là phi lý. Họ gọi đó
là Mariolatry.
Phái Tin
Lành Lutherans (theo Luther) chỉ tin vào Thánh Kinh; không phục quyền
Giáo hoàng; không có lễ Misa – mà Công giáo trọng nhất– ; chỉ còn giữ
hai phép Bí tích là Phép Rửa tội và Phép Mình Thánh. Nhưng họ lại không
tin rằng sau khi Thày cả đọc lời truyền, thì bánh và rượu trở thành Mình
thánh, Máu thánh (transsubstantiation) như Công giáo vì, theo họ, từ khi
Chúa Jesus sống lại, Ngài đã ở khắp mọi nơi như Thiên Chúa, không cần
phải đọc «thần chú», Ngài mới đến được trong bánh và rượu. Họ không chấp
nhận các Bí tích khác như Thêm Sức, Giải tội, Truyền Chức, Hôn Phối, Xức
Dầu.
Họ không
tôn sùng Đức Mẹ và không chấp nhận rằng Đức Mẹ đã linh hồn và xác lên
trời. Tin Lành theo Calvin cũng không chấp nhận lễ Misa, và viện dẫn lời
thánh Paul trong Thánh thư gửi cho giáo dân người Do Thái (Hebrews,
10:12,13,14.- 13:15), để chứng minh quan điểm mình là đúng. Họ không tôn
sùng Đức Mẹ, cũng chẳng tuân phục quyền Giáo hoàng. Thảo nào mà Giáo hội
La Mã gọi họ là «những kẻ rối đạo».
Giáo Hội
Công giáo đến năm 1054 chia thành hai: Giáo hội miền Tây gọi là Giáo Hội
La Mã; Giáo Hội miền Đông gọi là Giáo Hội Chính Thống. Chia rẽ nhau, vì
Giáo Hội La Mã tin rằng Ngôi Ba bởi Ngôi Nhất và Ngôi Hai mà ra. Tiếng
La- tinh dùng chữ Filioque (và bởi Con). Còn Giáo Hội miền Đông thì
không chấp nhận rằng Ngôi Ba lại có thể do Ngôi Con mà sinh ra.
Tóm lại,
Giáo Hội La Mã thì rằng «Filioque»; Giáo Hội Chính Thống thì rằng «không
Filioque»... Quan trọng tới mức độ có một lần Giáo Hội miền Đông bị
quân Hồi giáo vây đánh, sai sứ giả sang cầu cứu giáo hoàng La Mã. Giáo
hoàng La Mã đồng ý kêu gọi các nước Công giáo ra quân cứu trợ, với điều
kiện là từ nay Giáo Hội Chính Thống phải thêm vào kinh Tin Kính của họ
chữ Filioque. Bên Giáo Hội Chính thống lập tức trả lời: thà rằng để cho
Hồi giáo cai trị, còn hơn là phải thêm chữ Filioque vào kinh. Đức tin
của cả hai bên ghê gớm như vậy!
Giáo hội
La Mã bắt linh mục phải ở vậy, còn Giáo Hội Chính Thống thì không. Giáo
Hội La Mã cho rằng mình có quyền trên. Giáo Hội Chính Thống cho rằng tại
sao mình lại phải ở dưới. Đôi bên rút phép thông công, tẩy chay, chúc dữ
lẫn cho nhau trong vòng nhiều thế kỷ. Tuy nhiên trong những năm gần đây,
nhất là sau Vatican II, đôi bên tha tội, tha vạ lẫn cho nhau, và chủ
trương sống huynh đệ hơn.
Cho nên
đúng là phúc cho kẻ nào không hề kiểm điểm lại những điều mình tin.
Không hề dòm ngó sang các đạo giáo bạn, cứ dắm mắt tin theo những người
lãnh đạo tinh thần của mình, cho đến lúc nhắm mắt tắt hơi. Có người kể
chuyện một người chồng theo đạo, để cưới vợ. Khi được vợ hỏi rằng có tin
Chúa có Ba Ngôi hay là không. Ông chồng trả lời: «Em nói Ba Ngôi, thì
anh tin có Ba Ngôi, em nói Bốn Ngôi, thì anh tin có Bốn Ngôi. Có gì mà
phải thắc mắc đâu!» Thực là một đức tin tuyệt vời.
Người Á
Đông là những người cứng đầu, khó dạy. Nhất là các ông nhà nho. Họ cứ
chủ trương «tận tín thư tắc bất như vô thư»
盡
信
書
則
不
如
無
書
(quá tin vào sách thà đừng có
sách) (Mạnh Tử, Tận Tâm hạ - 3). Thiền tông cũng chủ trương: «Bất lập
văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật»
不
立
文
字,
直
指
人
心,
見
性
成
佛
(Bất chấp sách vở, đi thẳng vào
tâm, thấy Tính thành Phật). Thế lại là một hạng cứng đầu, bất trị khác!
Từ non
một thế kỷ nay, các đạo giáo Đông Phương bắt đầu thẩm thấu vào óc chất,
vào tâm hồn Âu Mỹ. Người Mỹ bắt đầu thích Yoga, thích Thiền. Nhiều người
Mỹ lấy vợ Nhật cũng theo đạo của vợ là đạo Phật, thuộc phái Liên Hoa
Nichiren. Tôi thấy họ tụng thần chú «Nam mô ô ran gi kô» (Nam mô Diệu
Pháp Liên Hoa) rất là sùng bái và cho rằng đó là phương tiện cứu độ hết
sức là bảo đảm. Thiệt là giản dị, thiệt là hấp dẫn! Về kinh Phật, giáo
phái này giản lược và miễn trừ hết chỉ cần đọc hai phẩm của kinh Diệu
Pháp Liên Hoa là Phẩm Phương tiện đệ nhị, và Phẩm Như Lai thọ lượng thập
lục. Cũng chẳng cần phải hiểu là phẩm đó nói gì, vì thế nên được khuyến
cáo tụng bằng tiếng Nhật, như vậy sẽ bảo đảm sự không hiểu của mình!
Chính nhờ thế mà mỗi tuần có cả trăm người xin qui y; Mỹ, Mễ, Đại Hàn,
vô số...
Nhiều
người Mỹ bây giờ cũng có những chủ trương hết sức cởi mở.
Cuối
đường Victoria ở Costa Mesa có một giáo phái gọi là Universalist -
Unitarian Church. Họ chủ trương Chúa chỉ có một ngôi; tính con người vốn
lành; sách thánh thiên hạ đều là những sách đáng tôn kính. Không sách
thánh nào chiếm địa vị độc tôn. Giáo đường của họ chỉ là nơi mà mỗi tuần
giáo hữu tập họp lại để kể cho nhau nghe những kinh nghiệm của bản thân
mình, những điều hay mình đã thâu lượm được. Bất kỳ ai thuộc tôn giáo
nào, dù ngay là người chủ trương vô thần cũng được hoan nghênh. Chỉ có ở
thời đại này, chỉ có ở xứ Mỹ này, mới lại có một giáo phái ngang chướng
như vậy, mà vẫn được tự do hoạt động! Chả bù cho Servetus Michael
(1511–1553), có thể nói là một trong những vị tiên phong của Giáo phái
này, chỉ vì ông chống đối vấn đề Chúa Ba Ngôi; không tin Chúa Jesus có
thiên tính; đả kích chuyện rửa tội cho trẻ con từ thủa lọt lòng, mà đã
bị cả Công giáo, cả Tin Lành lùng bắt. Tuy trốn thoát khỏi tòa Hình Án
Công giáo ở Lyon (Pháp), nhưng lại bị lộ thân thế ở Geneva (Thụy Sĩ), và
đã bị Calvin, một Giáo Chủ Tin Lành bắt và cho lên giàn hỏa. Tuy rằng
ngày nay người ta dựng tượng ông ở Geneva, kể như là thống hối chuyện đã
xảy ra, nhưng nào có đem được cái thân «mây khói» của ông cho nhập thể
lại ở trần hoàn này thêm một ngày nào nữa đâu?...
Thi hào
Anh, Robert Browing (1812–1899) đã dám khơi khơi làm thơ chủ trương Chân
lý tại nhân tâm, mà cũng chẳng bị hình phạt nào. ông viết đại khái rằng:
Thiên Chân ở sẵn lòng ta,
Chẳng từ ngoại cảnh sinh ra bao giờ.
Thiên chân ngự giữa tâm tư,
Mà tường ngũ uẩn mịt mù lấp che!
Cái thân tứ đại gớm ghê,
Ra tay già tỏa, gây mê, gây lầm!
Làm cho bừng sáng Thiên Chân,
Ấy là giác ngộ, khỏi cần ngoại quang!
Thật đúng
là trái bom nổ trong vòm trời Âu Mỹ. Tuy nhiên, đối với người Á Châu,
thì chuyện đó cũng là thường thôi.
Vương
Dương Minh (1472–1528) từ ngót 500 năm nay đã nói:
Thiên
thánh giai quá ảnh,
Lương
tri nãi ngô sư.
Dịch
Thần thánh ngàn xưa đều quá vãng,
Lương tri mới thực đúng thày ta.
Vả
Trung
Dung, chương 29, cũng đã viết:
Nên đạo quân tử phát xuất tự thâm tâm,
Đem trưng bày, phổ cập tới thứ dân,
Khảo chứng tiên vương không có chi lầm
lỗi,
Sánh với luật đất trời không phản bội,
So quỉ thần, đường lối đúng không sai.
Thánh nhân ngàn đời sau, chẳng hề có chê
bai.
So quỉ thần đường lối đúng không sai,
Thế là đã biết lòng Trời đó,
Thánh nhân ngàn đời sau chẳng có chê bai,
Thế là đã biết lòng người tỏ rõ.
CẢM NGHĨ CỦA TÔI VỀ
CHÂN LÝ
Khảo kỹ
lưỡng về các đạo giáo trong thiên hạ, tôi thấy rõ ràng hiện ra hai trào
lưu:
– Một
trào lưu dành cho quần chúng do các Giáo Hội hướng dẫn. Mỗi đạo giáo lại
đưa ra một số điều phải tin, và cho đó là chân lý. Không tin những chân
lý đó, sẽ không thể nào nhập đạo.
– Đạo
Công giáo, đạo Tin Lành đặt điều kiện tiên quyết là phải tin Chúa Jesus
là Thiên Chúa giáng trần, cứu chuộc tội lệ muôn loài.
– Đạo
Mohammed đặt điều kiện là phải tôn xưng Đức Mohammed là vị Tiên Tri sáng
giá nhất, vượt trên cả Chúa Jesus.
– Theo
trào lưu này, thì đạo nào cũng cho rằng mình mới nắm giữ được Chân Lý,
còn các đạo khác dĩ nhiên là lầm lạc. Và nếu mở lòng từ bi, với sự khoan
dung vượt bực, thì cũng chỉ chấp nhận rằng, ngoài đạo mình là chân
truyền, chính thống ra, thì các đạo giáo khác, chỉ là những bóng mờ, chỉ
là những sứ giả dọn đường cho đạo mình mà thôi.
– Các đạo
giáo dành cho quần chúng nói trên, tuy có khác nhau, về nhiều phương
diện, nhưng đại khái giống nhau, vì cho rằng:
1.- Vũ
trụ này đã được Thiên Chúa tạo dựng nên bởi không, và rất là mau, khoảng
sáu ngày. Ahura Mazda, Thiên Chúa của Bái hỏa giáo, theo như lời vị mục
sư của Bái Hỏa, mà tôi đã gặp, có lẽ đã dựng nên trời đất lâu hơn, vất
vả hơn, nhưng cũng chỉ trong vòng mấy tháng!
2.- Con
người là con người. Trời là Trời. Tính con người hoàn toàn khác với tính
Trời.
3.- Con
người là cái gì hèn hạ, cái gì ngu muội, cái gì yếu đuối, nên cần phải
có sự hướng dẫn của giáo quyền, và vị Giáo Chủ chính là đấng Cứu thế.
Phật là đấng Cứu thế; Jesus là đấng Cứu thế.
4.- Chân
lý là cái gì ở bên ngoài con người, đã được các bậc thượng trí, thượng
nhân, được Trời đặc biệt «phụ nhĩ, rỉ tai», đã ghi chép nguyên văn lại
cho mọi người.
5.- Sự
cứu rỗi hoàn toàn ở ngoài con người. Sự cố gắng của con người, là một sự
cố gắng vô ích. Sự cứu độ của thần phật bên ngoài mới là tất cả.
6.-
Sự cứu rỗi, sự thưởng phạt là ở
lai sinh. Và con người bất quá
là lên những thiên đàng, được coi như là những vườn thượng uyển, theo
kiểu Hồi giáo; Tịnh độ (Tịnh thổ) theo kiểu Phật giáo; hay là Thiên quốc
theo kiểu Công giáo. ở những nơi đó dĩ nhiên là sẽ hưởng đủ mọi sung
sướng, và dĩ nhiên là sẽ được chiêm bái Thiên Nhan đời đời kiếp kiếp.
7.- Càng
đi chùa, đi nhà thờ nhiều bao nhiêu lại càng tốt bấy nhiêu. Càng đọc
kinh nhiều bao nhiêu, càng niệm Phật nhiều bao nhiêu, càng lần tràng hạt
nhiều bao nhiêu lại càng tốt bấy nhiêu.
Càng chấp
nhận hết mọi điều giáo huấn của giáo đoàn, lại càng được coi là có đức
tin mạnh bấy nhiêu.
Ngoài ra
còn một luồng tư tưởng thứ hai là của chung cho những bậc thượng trí,
thượng nhân trong thiên hạ. Tuy nhiên cũng đừng nên tâng bốc họ lên như
vậy. Cũng đừng nên gọi họ là những bậc thượng căn, vì làm như vậy sẽ làm
cho quần chúng giận. Vì chẳng nhẽ quần chúng đông đảo như vậy lại là
những kẻ hạ căn hay sao. Vì số lượng của những người này quá ít, và trên
thực tế chẳng có quyền hành gì, chẳng chăng trói, đánh đập, chẳng bắt
bớ, chẳng giết lát được ai, cho nên chúng ta có thể gọi họ bằng những
danh từ khinh dể hơn ví dụ như là bọn lập dị, bọn rối đạo, bọn bất kính,
bọn cứng đầu, hay là bọn tà ma, ngoại đạo.
Họ là
những người lập dị, và hết sức ngạo nghễ vì cho rằng:
1.- Căn
nguyên vũ trụ không phải là một vị Thượng Thần tạo dựng nên, nhưng là do
một Đại thể siêu việt sinh xuất, phóng phát ra. Đại thể vô biên này đã
sinh xuất ra chư thần, vũ trụ và quần sinh. Ví dụ Ấn Độ, về phương diện
tôn giáo thì tin có Ba Ngôi: Brahma (Ngôi tạo dựng); Vishnu (Ngôi bảo
tồn) và Shiva (Ngôi hủy diệt); nhưng về phương diện Minh Triết, lại chủ
trương ba vị Thượng Thần kia chỉ là những hiện thân của một Đại thể, vô
biên, siêu việt, tối thượng. Đại thể này mới chính là căn nguyên vũ trụ,
quần sinh.
Sau này dẫu có vị thần nào cao siêu mấy mặc lòng, cũng đều từ đó phóng
phát ra.
2.- Vũ
trụ này đã do Đại thể đó phóng phát, tán phân ra. Cho nên vũ trụ và vạn
hữu đều là hiện thân của Đại thể ấy, đều là phân thể của Đại thể ấy.
3.- Đại
thể ấy không hề cách xa vạn hữu, sinh linh.
4.- Đại
thể ấy là căn cốt vạn loài. Chính vì vậy mà con người có Thiên Tính.
5.- Con
người sinh ra ở đời này cốt là để trở thành Thần, Phật, Thánh, Tiên.
6. - Các
sách thánh trong thiên hạ đều không phải là chân lý, tuyệt đối. Đối với
các nhà Minh triết, dẫu là sách gì, cũng vẫn là do con người viết ra. Mà
đã do con người viết ra, thời hẳn có chỗ đúng, có chỗ sai. Nên «tận tín
thư tắc bất như vô thư». Thế tức là:
«Vị ngộ,
Pháp Hoa chuyển,
Ngộ thời
chuyển Pháp Hoa.»
(Pháp
bảo đàn kinh)
Dịch:
Khi mê, kinh Pháp Hoa sai sử ta,
Ngộ rồi, ta thao túng lại Pháp Hoa.
Lúc còn
ngu si, thì trông vào tha lực; khi giác ngộ rồi, trông vào tự lực.
Hoằng
Nhẫn sau khi truyền y bát cho Huệ Năng, đã tiễn đệ tử ra thuyền. Huệ
Năng lên thuyền cầm sào. Hoằng Nhẫn đứng trên bờ, lấy tay đẩy thuyền, ra
ý tiễn đưa. Huệ Năng liền ứng khẩu rằng:
Khi mê, thày đẩy thuyền cho,
Bây giờ giác ngộ, chính ta đẩy thuyền...
7.- Vũ
trụ này đã do một Đại thể phóng phát tán phân ra. Mỗi con người là một
thành phần của Đại thể ấy, cho nên sau khi đã ruổi rong nơi trần hoàn
này, lúc chung cuộc lại trở về với Nhất Thể đó, như muôn sông cuối cùng
lại đổ vào trùng dương, trở về đại hải; không còn coi mình là sông riêng
rẽ nữa.
Lão tử
viết
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn Bản Nguyên.
Hoàn Bản Nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
(Đạo đức kinh XVI)
Áo Nghĩa
thư viết:
Kìa sông tới biển thời tiêu,
Hết danh, hết sắc, hết điều riêng tây.
Trở thành biển cả từ nay,
Gọi là biển cả mảy may khác gì.
Con người nhìn lại cũng y,
Khi "mười sáu bộ" đã qui về Ngài,
Còn đâu danh tướng lôi thôi,
Rồi ra cũng chỉ là ngôi chân thần,
Thế là vĩnh cửu bất phân,
Chẳng còn bộ phận, còn thuần tinh hoa.
Đã điều qui tụ hiệp hòa,
Như đũa liền trục, ắt là Chân Nhân,
Chân nhân là chính Chân Thần,
Tử sinh thôi hết bận tâm lo lường.
Cho nên
cứu rỗi, đối với họ là thoát vòng sinh tử, luân hồi, trở về với Đại thể
vô biên, chứ không hiểu cứu rỗi là do một vị Cứu thế xuống xá tội cho
con người, rồi cho con người lên cõi trời nào đó.
Nhân loại
thực ra đang sống theo hai tầm nhìn, lối nghĩ này.
Quần
chúng thời theo phía tôn giáo.
Thánh
hiền Đông, Tây, kim cổ theo Minh triết (hay Đại Đạo).
Tôn giáo
hiện nay có nhiều. Nhưng mạnh nhất, đông nhất phải kể là Công giáo. Cho
nên, tôi lấy Công giáo là đại diện cho phía quần chúng. Và một lần nữa,
tôi toát lược sự khác biệt nhau từ xưa tới nay, giữa Tôn giáo và Minh
triết như sau:
Đạo Công
giáo, đại diện cho tôn giáo quần chúng, chủ trương như sau:
a.- Thoạt
kỳ thủy có Thiên Chúa.
b.- Thiên
Chúa đã dựng nên trời đất, muôn vật bởi không (ex nihilo).
c.- Thiên
Chúa và quần sinh hết sức xa cách nhau.
d.- Tổ
tông đã phạm tội và truyền tội ấy cho dân gian
e.- Chúa
Jesus là Thượng đế ngôi Hai giáng trần, chuộc tội thiên hạ.
f.- Sự
cứu rỗi là sự Chúa rửa sạch tội khiên cho con người (thực ra là cho một
số ít con người), và cho họ lên hưởng phúc trên thiên đàng, đời đời,
kiếp kiếp. Còn những kẻ tội lỗi, những kẻ không tin vào Chúa, vào ơn cứu
rỗi của Chúa sẽ bị trừng phạt trong hỏa ngục vô cùng, vô tận.
g.- Con
người như vậy muôn kiếp vẫn là người. Thánh chẳng qua cũng chỉ là những
người "sống đẹp lòng Chúa".
Phía Minh
triết, đại diện cho những bậc đại giác, đại ngộ, và như vậy họ hết sức
ít ỏi. Đại khái, họ sẽ chủ trương như sau:
a.- Thoạt
kỳ thủy có một Đại thể, linh minh vô cùng tận.
b.- Đại
thể ấy đã phóng phát (emanation), tán phân (division) thành vũ trụ, quần
sinh, Thượng Thần, hạ vật.
c.- Đại
thể ấy và vũ trụ quần sinh (phân thể) không hề xa cách nhau; chỉ là một
trong (đại thể), một ngoài (phân thể); một ẩn (Đại thể), một hiện (phân
thể) mà thôi.Cho nên trong lòng biến thiên, vẫn có bất biến; trong lòng
hữu hạn, vẫn có vô cùng; trong lòng sinh tử, vẫn có bất diệt; trong lòng
phiền não, vẫn có Bồ đề...
d.- Tội
lệ là do sự ngu si của con người, nghĩ mình sống tách rời, sống riêng
biệt với Đại thể,
e.- Chúa
Jesus, hay Phật, hay Lão, hay Mohammed, hay Khổng cũng chỉ là những
người giác ngộ, những người tiên phong trên con đường trở về hợp nhất
với Đại thể mà thôi.
f.- Sự
cứu rỗi không phải để rửa sạch tội khiên con người, mà chính là để biến
con người hữu hạn thành con người vô biên, là giúp con người thoát kiếp
người, thoát vòng kiềm tỏa của không gian thời gian, thoát vòng sinh tử
biến hóa, trở về nhập một lại với Đại thể vô biên.
g.- Như
vậy, con người có lúc làm người, có lúc làm Trời, làm Phật. Lúc chung
cuộc tất cả quần sinh đều trở về nhập lại với Vô biên.
Minh
triết với đạo giáo có khi đi song song với nhau; có khi sống một ẩn một
hiện; có rất nhiều khi Minh triết đã bị bách hại, thành ra Minh triết
nhiều khi phải hóa trang để sống còn. Vì thế mới có các hội kín, mới có
những Khoa học huyền bí như Tarot (bài Tarot), Alchemy (Thuật luyện
kim), Astrology (Chiêm tinh học) v.v...
Học các
môn Khoa học huyền bí phải đi tìm Minh triết, dấu diếm bên trong, mà
phải vất vả, đọc nhiều sách, mới thấy nó hiện ra. Vì đời xưa, nói hở
mồm, là có thể lạc vào tử địa ngay!
Ở Ấn Độ,
ở Đông Phương, ai căn cơ ra sao, cứ việc theo những hình thức tôn giáo
nào mà họ cho rằng thích hợp với họ. Chẳng ai cấm ai. Âu Châu, thì không
thế, nam nữ, già trẻ, lớn bé, khôn dại, nhất luật chỉ có một khuôn. Cái
đó có lẽ cũng là phản ảnh thái độ của hai dân tộc.
Còn như ở
Mỹ ngày nay, tổ chức chính quyền rất là cởi mở. Hiến pháp đã qui định
Chính quyền và Giáo hội tách rời nhau, và như vậy Chính phủ không ủng hộ
một đạo giáo nào, hơn đạo giáo nào. Không một đạo giáo nào, dù to, dù
nhỏ, dù Đông, dù Tây, dù Nam, dù Bắc mà không được cấp giấy phép. Các
hiệu sách bán các sách Huyền bí thả giàn. Thực là nghìn năm một thủa.
Đúng là quang cảnh «Thiên gia tề phóng; bách hoa tề khai!». Trong giáo
đường, dạy thuyết Tạo dựng (Creationism); ngoài học đường dạy thuyết
Tiến hóa (Evolution). Thế mà «Thuỷ hỏa» vẫn «ký tế» được với nhau. Từ
chữ «Melting pot» (nồi đúc) và chữ «E Pluribus Unum» (do nhiều dân,
thành một dân), tôi hình dung nước này chính là «Lò cừ Tạo Hóa» giúp ta
đi từ Vạn trở về Nhất...
Sự phân
biệt Tôn giáo và Minh Triết của tôi thực sự mang một nội dung mới mẻ. Âu
Châu xưa nay chỉ phân biệt giữa tôn giáo và triết học. Trước hết họ định
nghĩa tôn giáo là sự tin kính và thờ phượng Thiên Chúa, nên nhiều khi đã
coi các tôn giáo Đông Phương như là những môn phái triết học. Phật giáo
cũng có khi chỉ được coi là một thứ triết học, vì đã không chủ trương
tin Trời, thờ Trời. Trong quyển The world's great Religions, một ấn bản
dành cho thanh niên, do Tạp Chí Life xuất bản, Golden Press New York in
năm 1969, ban biên tập Life chủ trương sẽ bàn về 6 tôn giáo lớn trong
thiên hạ. Nhưng lại liệt kê như sau:
1.- Ấn độ giáo (Hinduism)
2.- Phật giáo (Buddhism)
3.- Các triết học Trung Hoa (Khổng và Lão)
4.- Hồi giáo (Islam)
5.- Do Thái giáo (Judaism)
6.- Thiên Chúa giáo (Christianity). (Xem
sách trích dẫn, tr.7)
Mới hay
biên cương tôn giáo và triết học vẫn còn rất mù mờ. Tất cả đều tùy theo
định nghĩa mà mình gán cho từ ngữ mình dùng. Như vậy ban biên tập Life
đã không coi Khổng giáo (Confucianism), Lão giáo (Taoism) là những tôn
giáo. Đó chỉ là những triết học.
Âu Châu
chủ trương triết học chỉ là sản phẩm của sự suy tư, tìm hiểu của con
người. Còn đạo giáo là sản phẩm của Đức tin; sản phẩm của sự sáng soi và
dìu dắt của Thượng đế. Từ trí khôn con người lên tới đức tin; từ triết
học lên tới tôn giáo, phải đi qua một trung gian là Thần học (Theology).
Tôn giáo
vì bàn về những chuyện quá trí con người, nên nhiều khi con người thấy
nó vô lý, nhưng vẫn phải tin. Giáo phụ Tertullian xưa nói: «Tôi tin
vì vô lý.» (Credo quia absurdum).
Phái Minh
Triết (Theosophy hay Mysticism) chủ trương: Tuy óc chất thông thường của
con người không tìm ra được những vấn đề siêu nhiên; nhưng vì con người
thông phần bản tính Trời; vì con người ai ai cũng có một tàn lửa Thiên
Chân ở đáy lòng, nên thực ra đã có những khả năng vô biên tận. Đã có Vô
Cùng trong dạ, thì sao lại chẳng hiểu được Vô Cùng. Cho nên dĩ nhiên là
các bậc đại giác, đại ngộ trong thiên hạ, ai ai cũng có đồng đều khả
năng tìm thấy được Chân Lý. Tuy rằng thoạt kỳ thủy, họ ở trong các tôn
giáo khác nhau, nhưng khi đã giác ngộ; thành chân, chứng thánh, thì lập
tức họ có luận điệu giống nhau. Họ là những người như Eckhart
(1260?-1327?) (Công giáo); Plotinus (203-279) (Do Thái giáo); Ibn
al-Arabi (Môn phái Sufi - Bạch Y- Hồi giáo); Vivekananda (1863-1932) (Ấn
độ giáo); Moses Cordovero (1522-1570) môn phái Kabalah (thuộc Do Thái
giáo); Boehme Jacob (1575-1624) (Tin Lành); Spinoza Benedict (1623-1677)
(Do Thái giáo bị khai trừ) v.v... Thực đúng như lời Mạnh tử đã nói:
«Tiên thánh, hậu thánh, kỳ quĩ nhất dã.» Max Muller đã có lần chủ trương
muốn tìm lẽ nhất quán trong thiên hạ, phải học hỏi với các bậc minh
triết trong thiên hạ.
Tuy các
bậc minh triết chỉ là thiểu số trong thiên hạ, và thường cũng chẳng lập
môn, lập phái; giỏi lắm là có một vài đồ đệ, như Plotinus có Porphyry.
Nhưng quan niệm của họ về con người hết sức là cao siêu, mục đích cuộc
đời của con người, đối với họ hết sức là sang cả. Như trên đã nói, đối
với họ, thì con người ai ai cũng có Tính Trời, nên định mạng tối hậu của
con người là sống Phối Thiên, kết hợp với Trời; hòa mình với Đại thể của
vũ trụ.
Cho nên
Minh triết phải được xếp hạng trên tôn giáo. Trong tương lai, nhân loại
sẽ tiến dần dần từ phía các tôn giáo khác nhau, tới một nền Minh triết
duy nhất. Vì thế mà tôi đã gọi nền Minh triết trên là Đại Đạo. Nó không
còn Đông, còn Tây; còn kim, còn cổ; không còn Phật, còn Lão, còn Khổng,
còn Hồi, mà tất cả đã được gạn lọc, mà tất cả đã được thăng hoa, để trở
thành một viên ngọc chí quí, chí bảo, tặng cho những người có công đi
kiếm, đi tìm. Viên ngọc đó sẽ không còn bị che, bị đậy bằng những lời dụ
ngôn, bằng những lời ẩn dụ, nhưng sẽ được trao tặng trực tiếp cho người
hữu duyên, hữu phúc (Mark 4:34; Mat. 13:35; Luke 8:9; Mat. 13:10- 15).
Chân lý đối với họ là những gì trực tiếp chiêm nghiệm được (Mat.13:16),
chứ không phải là chuyện chấp nhận quàng xiên; ai nói sao, thì «đâm
nhao» làm vậy; không còn phải là câu chuyện «nghe hơi nồi chõ»; «gãi
ngứa ngoài giày». Đây không còn chuyện tha tội, tha vạ; mà là chuyện
đích thực trao quyền trở thành những «Con Thiên Chúa», những người cộng
hưởng gia tài với Chúa (Romans 8:14- 17.- 8: 18- 30), và sẽ được ngồi
trên ngai Thiên Chúa, như đã phán hứa trong sách Khải Huyền: «Ai
thắng, Ta sẽ cho ngự với Ta trên ngai của Ta; cũng như Ta đã thắng và đã
ngự với Cha Ta trên ngai của Người.» (Revelation 3:21). Cũng nên
nhận chân rằng có nhiều vị Minh triết Đông Tây, vẫn còn chưa chịu ngừng
bước tiến hóa nơi đây, mà nhất định thể nhập vào với Đại thể Vô Biên,
viên dung, toàn mãn, vô nhân, vô ngã, nhất như, vô phân biệt...
Bao lâu
con người chưa đạt tới trình độ tiến hóa cao siêu, bấy lâu ta thấy vẫn
hết sức cần có những tôn giáo. Vả cũng không có ai phủ nhận được vai trò
tích cực của các tôn giáo, trong công trình giáo dục con người; hướng
dẫn con người làm lành, lánh dữ; giữ gìn trật tự, trị an cho xã hội; xây
dựng được những đền, đài, miếu, mạo, hết sưc là nguy nga tráng lệ; sản
xuất được không biết bao nhiêu là văn phẩm, nghệ phẩm tuyệt vời. Một
hôm, ngồi đàm đạo với một bạn tôi về vai trò các tôn giáo, ông bạn tôi
nói một câu hết sức lý thú. Ông cho rằng chính nhờ ở sự hi sinh cao cả
của không biết là bao nhiêu người đã cất công đi giảng truyền tôn giáo
cho đời, mà bây giờ chúng ta mới có thể ngồi yên ổn, uống nước trà, và
trò chuyện cùng nhau.
Vả Chân
Lý chẳng qua là một vấn đề gắn liền với lập trường, với quan điểm, với
tầm nhìn, lối nghĩ của mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi thời đại. Thực tại
thời vô biên, lại biến hóa khôn lường, từng phút từng giây; còn từ ngữ
chúng ta thời hữu hạn. Dùng cái hữu hạn, mô tả cái vô cùng thì làm sao
mà hoàn toàn chính xác được. Ví dụ như Ánh sáng bây giờ ta thấy vừa là
phân tử (particles), hay quang tử (photons); vừa là ba động (waves), nên
nếu chúng ta «chấp nhất» trong bất kỳ vấn đề gì, chắc chắn chúng ta sẽ
sai lạc, sẽ hẹp hòi.
Bàn về
Chân Lý, bài học hay nhất mà chúng ta học được chính là bài học khiêm
tốn! Trên đời này, nói thế nào, cũng có người không vừa lòng. Phía tôn
giáo chê phía Minh Triết là «vô thần», là «phiếm thần». Phía Minh Triết
thì cho rằng tôn giáo đã quá hữu hạn hóa Đại thể vô biên, đã giam Đại
thể Vô Biên vào trong vòng Âm Dương, vòng hình, danh, sắc, tướng, bằng
các thứ định nghĩa của mình, các thứ hài danh (đặt tên) của mình; đã
nhân cách hóa Tuyệt đối, khiến cho Vô Biên Tuyệt đối cũng sầu bi, hỉ,
nộ, phàn nàn, hối hận như con người. Đại thể vô biên phải siêu trên thần
vật. Vì thế mà các nhà Minh triết Âu Châu đã dùng các chữ Godhead, hay
«It»; các nhà Minh Triết Đông Phương đã dùng các chữ Vô Cực, Thái cực,
Hư Vô hay Đạo để «cưỡng ép» mà gọi Đại thể vô biên.
Nói về
Chân Lý, bàn về chân giả, mới đầu tưởng là chỉ ở nơi ngoài xã hội, nơi
sách vở bên ngoài; cuối cùng té ra không phải vậy.
Công cuộc
suy tư tìm hiểu đâu là Chân, đâu là Giả trong con người chúng ta, càng
ngày càng làm ta rùng mình: Rốt ráo, phần lớn nơi con người chúng ta là
giả cả! Cái gì thuộc hình danh, sắc tướng nơi người chúng ta đều là giả
cả. Thế là chúng ta phải vất đi một mớ lớn các cái giả về xác thân. Tiếp
đến cái gì biến thiên cũng đều là giả cả. Thế là suy tư, niệm lự, thất
tình lục dục cũng đều bị kiểm kê là giả. Chỉ còn cái Bản thể Chân thường
hằng cửu nơi ta mới được tuyên bố là Chân Thực, là Chân Lý. Mà Cái Đó
lại là của chung trời đất chứ chẳng phải của riêng ta. Cho nên
cái ta, chẳng còn gì, cũng bị phế là giả luôn.
Đến đây,
tôi thấy mình chẳng còn gì nữa, vì cái mình riêng tư suy cho kỹ, là hư
ảo; thảo nào mà người xưa đã dùng những chữ Tứ Đại giả hợp, hay chữ Vọng
Tâm, Vọng Niệm, Vọng Ngã, nên tôi làm chúc thư để đời như sau:
– Thân
xác tôi rút cuộc là những Nguyên tử Khinh khí, Dưỡng khí, Đạm khí, và
Thán khí hợp lại mà thành. Khi tôi thoát tục sẽ trả chúng về muôn
phương; và cho chúng toàn quyền đi xum họp chỗ khác, lập tổ ấm nơi khác.
– Tân
dịch, máu huyết, tôi trả về cho sông biển, trả về cho mây mưa.
– Cái gì
là không khí, là «hồn», tôi trả về cho không trung vô hạn.
– Cái gì
là quang, là Thần tôi trả cho nó nhập lại với nhật nguyệt, tinh cầu.
– Còn lại
Linh giác, Linh tri, vì chính là thuộc Bản thể của vũ trụ, nên dĩ nhiên
là sẽ y cựu thuộc về Bản thể vũ trụ; chưa có tôi, chẳng hề tăng; có tôi
rồi cũng chẳng hề giảm.
Tuy
nhiên, sau khi đã vứt bỏ hết các lớp lang phụ thuộc, giả tạo, tạm bợ bên
ngoài, sau khi đã tìm ra được Chân Bản Thể của mình và của vũ trụ, tôi
thấy mình đã tìm ra được chân lý rốt ráo của nhân quần, mà Bà La Môn
giáo đã tóm tắt bằng mấy chữ: Tat Tvam Asi: Con là Cái Đó...
Đến đây,
tôi thấy chuyện tôi bàn về Chân Lý; về Chân, Giả, thật ra chẳng có nghĩa
lý gì nữa.
CHÚ THÍCH
Truth is within ourselves; it takes no
rise
From outward things, whate'er you may
believe.
There is an inmost center in us all,
Where truth abides in fulness; and
around
Wall upon wall, the gross flesh hems
it in,
This perfect, clear perception- which
is truth.
A baffling and perverting carnal mesh
Binds it, and makes all errors: and to
KNOW,
Rather consists in opening out a way
Whence the imprisoned splendour may
escape,
Than in effecting entry for a light
Supposed to be without.
Editor Cavendish, Man, Myth & Magic, An illustrated
Encyclopedia of the supernatural, Marshall Cavendish
Coporation/New York, 1970, p.323.
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7
8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|