Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 1
BẢN THỂ LUẬN VÀ
HIỆN TƯỢNG LUẬN
Tôi rất là khổ
tâm khi phải dùng đến những danh từ dao to, búa lớn; những danh từ hàn
lâm, trường ốc, xa vời dân gian, quần chúng, như Bản thể luận và Hiện
tượng luận. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải làm quen với ít nhiều danh từ
«nghênh ngang» như vậy, vì thế giới đã chấp nhận chúng. Tôi cũng sẽ
không đưa ra ngay một định nghĩa nào đó về Bản thể và Hiện tượng, vì tôi
không muốn trói chặt tôi vào trong những thừng chão của giới hạn. Tôi sẽ
cứ bàn về vấn đề, rồi từ từ các bạn sẽ nhìn thấy nó rõ ràng.
Nôm na mà nói,
thì Bản thể là căn cơ sinh xuất ra vũ trụ quần sinh này. Còn Hiện tượng
bao gồm tất cả vũ trụ, quần sinh, tất cả những gì chúng ta nhìn được,
nghe được, sờ được, nếm được, ngửi được; tất cả những gì mà tâm tình,
trí lự ta cảm được, suy được, tưởng tượng được. Á Châu gọi hiện tượng là
«Hình, Danh, Sắc, Tướng» nếu là ở ngoại giới; là «Pháp» nếu là ở nội
giới tâm linh.
Như vậy, ta đã
thấy ngay tầm quan trọng vô biên của Bản Thể. Đa số Triết gia Âu Châu
chủ trương rằng mỗi vật lại có một bản thể riêng biệt: Thượng Đế có bản
thể của Thượng Đế; vạn hữu có bản thể của vạn hữu; người, vật, cỏ cây,
nhất nhất đều có bản thể riêng tư. Nhưng các bậc đại thánh, đại hiền
Đông cũng như Tây đều chủ trương ngược lại rằng: Bản Thể có một; chỉ
hiện tượng mới là ngàn muôn, sai biệt. Chính vì vậy mà Á Đông đã tạo ra
được một khẩu hiệu hết sức là đẹp đẽ: THỂ DUY NHẤT, DỤNG VẠN THÙ
體 唯 一 用 萬 殊.
Và lạ lùng thay,
bất kỳ là Bà La Môn, hay Phật giáo, hay Lão giáo, Khổng giáo, tất cả các
đạo giáo lớn Á Đông đều nhất luật chia sẻ quan niệm then chốt nói trên.
Những khẩu quyết như: THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
天 地 萬 物 同 一 體 hay NHẤT TÁN VẠN, VẠN QUI NHẤT 一
散 萬 萬 歸 一 đã trở thành sáo ngữ ở cửa miệng dân gian. Phật giáo có
khẩu quyết: NHẤT THIẾT CHÚNG SINH GIAI HỮU PHẬT TÍNH
一 切 眾 生 皆 有 佛 性. Tất cả đều nói lên cái Bản Thể duy nhất của đất
trời.
Nếu Bản Thể là
Duy Nhất, thì nó sẽ là MỘT. Đã là MỘT thì không có đối đãi, như vậy nó
sẽ là TUYỆT ĐỐI, hay VÔ ĐỐI. Nếu ta tô điểm cho từ ngữ thêm trang trọng,
ta sẽ nói Bản Thể CHÍ TÔN VÔ ĐỐI. Đã là MỘT sẽ không biến thiên, tức là
không có SINH, LÃO, BỆNH, TỬ. Ta cũng có thể nói Bản Thể thời vĩnh cửu
trường tồn, trường sinh bất lão. Nó sinh ra muôn vàn biến thiên, muôn
ngàn hiện tượng. Như vậy ta sẽ sánh nó như một vừng dương ở trung tâm vũ
trụ, tung tỏa ra muôn ngàn hiện tượng, như muôn ánh dương quang. Vì thế
mà Á Đông còn gọi Bản Thể là TRUNG. Nếu Bản Thể là TRUNG, là TÂM ĐIỂM
sinh vạn tượng, thì ta cũng gọi được đó là TÂM, chữ TÂM viết hoa, chữ
TÂM nguồn sinh vạn vật, chứ không phải cái tâm hồn rạo rực muôn ngàn
tình cảm riêng tư của con người, hay cái con tim thịt, bóp bóp, đập đập,
để đưa máu đi cùng khắp cơ thể. Nếu Bản Thể là TRUNG, là TÂM, là CHÂN
TÂM, thì Hiện Tượng, thì Vạn Hữu bên ngoài sẽ được tượng trưng bằng hình
tròn bên ngoài. Cho nên vòng tròn bên ngoài được coi là vòng Dịch, vòng
Biến Thiên hay vòng Luân Hồi. Nếu bây giờ, ta cầm được cái TÂM mà kéo nó
lên, nó sẽ thành cái đỉnh, cái chóp; vòng tròn bên ngoài sẽ thành cái
đáy. Vì cái đỉnh, cái chóp là cao nhất, nên ta gọi được TRUNG, là THÁI
CỰC. Thế là ta đã chứng minh được rằng Bản Thể, hay Chân Tâm, hay Tâm,
hay Trung, hay Thái Cực, hay Nguồn Gốc hay Căn Nguyên đều là những danh
hiệu tương đương với nhau.
Bản thể khi đã
sinh ra vạn hữu, thì gọi là HỮU; khi chưa sinh ra vạn hữu, thì gọi là
Vô. Hữu là hiện, Vô là ẩn.
Ẩn hiện chỉ là
hai phương diện của một Bản Thể. Lại nữa, Bản Thể dù khi chưa sinh ra
vạn hữu, dù khi đã sinh ra vạn hữu, lúc nào cũng vẫn thuần nhất bất khả
phân: Mặt trời kia khi phóng ra muôn ánh hào quang, nào đâu có vì thế mà
nát tan, rạn vỡ? Vì thế Bản Thể cũng còn được mô tả bằng những danh từ
như HỒNG MÔNG, HỖN ĐỘN. Hỗn Độn, Hồng Mông, vì bao giờ cũng Vô Sai Biệt,
Vô Gián Cách. Bản Thể vì sinh ra vạn hữu, sinh ra mọi hiện tượng, nên
người xưa cũng còn sánh nó với NGUỒN, với GỐC, hay gọi nó là CĂN NGUYÊN.
Hơn nữa chữ Bản trong chữ Bản Thể cũng đã có nghĩa là gốc rồi.
Bước sang Hiện
Tượng, ta thấy ngay nó chỉ là cái gì hình hiện lên bên ngoài, nó chỉ là
ảnh tượng của một cái gì ẩn khuất bên trong. Hiện tượng thời ngàn muôn,
nên người xưa gọi nó là Vạn. Vì nó chỉ là ảnh tượng nhắc nhớ tới Bản
Thể, nên nó không có bản ngã riêng biệt, nên nó không có thực. Người xưa
gọi đó là VỌNG. Vọng tâm, vọng ngã như vậy đều nằm trong vòng hiện
tượng. Hiện tượng vì chỉ là những biến thái, biến dạng, những hình thức,
những ứng dụng của Bản Thể, nên nay còn, mai mất, chất chưởng như trứng
để đầu đẳng; mau qua như bóng câu qua cửa sổ; chóng tàn phai như thân
phận một đóa hoa. Nói cho trang trọng hơn, nói cho có vẻ triết học hơn,
ta sẽ cho rằng hiện tượng nằm trong vòng SINH, LÃO, BỆNH, TỬ, trong vòng
SINH DIỆT, LUÂN HỒI, trong vòng BIẾN THIÊN, SINH HÓA. Cái gì nay còn mai
mất sẽ tạo cho con người khổ đau, vì thế mà Vạn Tượng hay Vạn Hữu gợi
lên sự âu sầu, khổ não. Ngược lại, Bản Thể sẽ gợi lên ý niệm hạnh phúc
vô biên.
Cung Oán Ngâm
Khúc đã mô tả cảnh phù du, hư ảo của hiện tượng bằng những vần thơ
lâm ly, thống thiết nhưng thật tuyệt vời:
Kìa thế
sự như in giấc mộng,
Máy
huyền vi mở đóng khôn lường,
Vẻ chi
ăn uống sự thường,
Cũng còn
tiền định khá thương lọ là.
Đòi những
kẻ thiên ma, bách triết,
Hình thì
còn, bụng chết đòi nau!
Thảo nào
khi mới chôn nhau,
Đã
mang tiếng khóc bưng đầu mà ra,
Khóc vì
nỗi xót xa sự thế,
Ai bày
trò bãi bể nương dâu,
Trắng
răng đến thuả bạc đầu,
Tử,
sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần.
Cuộc
thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng
thông như róc buồng gan,
Bệnh
trần đòi đoạn tâm can
Lửa cơ
đốt ruột, dao hàn cắt da,
Gót danh
lợi bùn pha sắc xám,
Mặt
phong trần, nắng rám mùi dâu,
Nghĩ
thân phù thế mà đau,
Bọt
trong bể khổ, bèo đầu bến mê...
Ngụp lặn trong
vòng hiện tượng, là đắm đuối trong vòng sinh tử luân hồi, là chơi vơi
trong bến mê bể khổ. Từ hiện tượng biến thiên, nếu biết vươn vượt lên
cho tới Bản Thể trường tồn, sẽ được giải thoát; đó chính là thoát Luân
hồi. Muốn được vậy, phải vận dụng được tuệ giác của mình.
Buông
thuyền Bát Nhã tếch bờ mê,
Bến giác
trông ra thoắt đã kề,
Tịch
Diệt Niết Bàn đây há phải?
Tự Tại
Căn Nguyên chứng Bồ Đề!
Nói rằng Bản Thể
là vĩnh cửu, trường tồn; hiện tượng là phù du hư ảo, ai cũng có thể dễ
dàng chấp nhận. Nhưng có cái lạ là người ta thường tách rời cái Bản thể
ra khỏi hiện tượng; tách rời vĩnh cửu ra khỏi ảo ảnh, phù du. Riêng tôi
sau nhiều năm tháng suy tư, tôi đã đi đến một niềm tin sắt đá rằng Bản
thể không bao giờ rời xa được hiện tượng. Nếu Bản Thể là hình, Hiện
tượng sẽ là bóng; nếu Bản thể là trùng dương, Hiện tượng sẽ là những đợt
sóng nhấp nhô trên mặt; nếu Bản Thể là gốc gác, Hiện tượng sẽ là hoa,
lá, cành xum xuê, tươi tốt bên trên.
Thiền sư Trí Khải
(viên tịch năm 597), người sáng lập ra Thiên Thai Tông, và sau đó thiền
sư Đỗ Thuận (viên tịch năm 640) cũng đã giảng dạy quan niệm này. Theo
các Ngài, Bản Thể với Hiện Tượng như nước với sóng. Sóng do nước hình
hiện lên. Sóng được hình hiện lên là cái tôi, là vạn pháp, vạn tượng.
Nước ở phía dưới là Bản Thể, là Chân Như, là Phật. Kinh Pháp Hoa và kinh
Hoa Nghiêm cũng quảng diễn hai tư tưởng lớn đó.
Tô Đông Pha đã
làm bài Xích Bích phú để
trình bày quan điểm trên:
Tô tử
đáp: Kìa trăng, nọ nước,
Nước kia
trôi sau trước vẫn nguyên.
Trăng
kia tròn khuyết ngày đêm,
Mà nào
có giảm, có thuyên bao giờ.
Trong
biến chuyển nhìn ra trời đất,
Thì đất
trời phút chốc đã qua,
Từ trong
vĩnh cửu nhìn ra,
Muôn
loài, muôn vật như ta vô cùng...
Trang tử, trong
thiên Thu thủy, Nam Hoa Kinh cũng có nhận định tương tự:
Nhìn vạn
vật từ trong phân biệt,
Thời mật
gan, Sở Việt khác xa.
Từ trong
đồng nhất nhìn ra,
Muôn
loài, muôn vật đều là một thôi.
Đối
với Dịch Kinh, Bản Thể chính là Thái Cực; vũ trụ, quần sinh là bát quái;
các hiện tượng đa tạp, các hoàn cảnh chi li bên ngoài là 64 quẻ. Thái
Cực là Thể; Vạn hữu là Dụng. Tuy nhiên:
«Thể
dụng nhất nguyên;
Hiển vi
vô gián.»
Thể với
Dụng đều cùng nguồn mạch,
Hiển
cùng Vi phân cách sao đang!
Thế là về phương
diện Triết học, chúng ta đã mặc nhiên cùng nhau lên tới tuyệt đỉnh của
thần trí, phóng mắt nhìn ra muôn phương, muôn ngả; bao quát vũ trụ, và
đã không cho một thứ gì trong hoàn võ lọt khỏi tầm nhìn, lối nghĩ, lọt
khỏi vòng tay của chúng ta. Thật vậy, muôn loài đều nằm gọn trong hai
chữ BẢN THỂ và HIỆN TƯỢNG, mà Bản Thể và Hiện tượng lại nằm gọn trong
chữ MỘT viên dung, toàn mãn
Từ quan niệm
triết học về Bản Thể và Hiện tượng nói trên, chúng ta có thể tiến thêm
một bước nữa, để đi vào lãnh vực đạo giáo. Lúc này Bản Thể vì là Nguồn
Sinh muôn vật, nên sẽ được gọi bằng Thượng đế, bằng Allah, bằng Đạo,
bằng Thái Cực, bằng Chân Như. Hiện tượng sẽ là vũ trụ, quần sinh; sẽ là
sinh linh vạn hữu; sẽ là vọng tâm, vọng ngã.
Trong phần trên,
chúng ta đã chứng minh Bản thể không thể nào rời xa hiện tượng: đâu có
Bản Thể, đấy có hiện tượng. Như vậy, bây giờ, chúng ta bắt buộc phải đi
đến kết luận: Thượng Đế không bao giờ, và không thể nào rời khỏi được vũ
trụ quần sinh. Tưởng mình sống rời xa Thượng đế, xa Thái Cực, Chân Như,
dù là một phút giây, cũng là điều lầm lỗi lớn của nhân quần từ trước tới
nay.
Tính Mệnh Khuê
Chỉ, một quyển sách đạo Lão có thơ:
Yểu yểu,
minh minh khai chúng diệu,
Hoảng
hoảng, hốt hốt bảo châu khiếu,
Liễm
chi, tiềm tàng nhất lạp trung,
Phóng chi, di mạn hợp lục biểu.
Phỏng dịch:
Yểu yểu,
minh minh chúng diệu khai,
Phảng
phất, hư vô vẫn một Trời.
Tiềm
tàng, nằm gọn trong trần cấu,
Phóng
phát, bao trùm khắp chốn nơi!
Lại có thơ
Tá vấn
chân nhân hà xứ lai?
Tòng
tiền nguyên chỉ tại linh đài!
Tích
niên vân vụ thâm già tế,
Kim nhật
tương phùng đạo nhỡn khai!
Phỏng dịch:
Chân
nhân ướm hỏi tới từ đâu?
Tâm khảm
tiềm tàng sẵn đáy sâu,
Thủa
trước linh đài vân vụ phủ,
Ngày nay chợt tỉnh, thấy bên nhau !
Thánh Giáo
Sưu Tập 1968- 1969 của Cao Đài giáo có thơ:
Thày ngự
trong lòng mỗi chúng sinh.
Chúng
sinh giác ngộ biết tu hành,
Thương
yêu, mựa tách người khôn dại,
Điều độ,
đừng chia kẻ dữ lành.
Trong một đàn cơ
khác có thơ:
Bạch
Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng
màng hạ giới dựng cao ngôi,
Sang hèn
trối kệ, tâm là quí,
Tâm ấy,
tòa sen của Lão ngồi.
Vô Cấu Tử có kệ
rằng:
Ngũ uẩn
sơn đầu nhất đoạn không,
Đồng môn
xuất nhập bất tương phùng,
Vô lượng
kiếp lai nhẫm ốc trú,
Đáo đầu
bất thức chủ nhân ông!
Phỏng dịch:
Đầu non
ngũ uẩn một vầng không,
Vào, ra,
cùng cửa chẳng tương phùng,
Từ bao
nhiêu kiếp thuê nhà ở,
Tới nay
nào biết chủ nhân ông.
Sự khảo sát về
Bản thể và hiện tượng cho chúng ta một cái nhìn khái quát rằng từ trước
tới nay nhân loại chỉ có hai con đường:
Một con đường
mênh mông, sông Ngô, bể Sở, mà quần chúng ùa nhau đi vào. Họ tin rằng
Bản thể dĩ nhiên phải lìa xa hiện tượng; Trường sinh phải rời xa kiếp
phù sinh; Thượng đế, Allah, Ngọc Hoàng, hay Zeus chắc chắn là phải ngự
trị trong những cung vàng điện ngọc nơi những thiên đình, những cung
Bạch Ngọc, hay những Ô-Liêm-Bá (Olympia) xa tít tắp chín tầng mây. Phật,
Trời phải ở Lhassa, Mecca hay ít nhất là trong những vương cung, những
thánh đường, những đền đài miếu mạo nguy nga, mà mái được dát vàng, mà
những ngọn tháp vươn lên cao như muốn ngạo nghễ với trời mây. Họ bằng
lòng đi hành hương thật xa, thật gian khổ; có khi là đi ba bước một lạy;
có khi là đi một bước một lạy, với thâm ý là để thần phật, từ trời cao
trông thấy, sẽ động lòng thương mà ban ơn, mà độ trì, cứu rỗi. Họ đâu có
ngờ rằng trái đất của chúng ta thật ra đang vần xoay lơ lửng bên lề một
giải Ngân Hà, trên dưới chung quanh đâu đâu cũng có thể gọi được là
trời, không thể gọi đâu là trên, đâu là dưới... Họ ngụp lặn trong bể khổ
trần gian, mà không bao giờ chịu tìm ra những phương pháp khoa học hữu
hiệu để diệt khổ. Họ chuyên nịnh hót thần thánh, hối lộ thần thánh; đưa
thần thánh vào con đường hủ hóa, tham nhũng của trần gian; bắt thần
thánh nhận tiền tài, lễ vật, để thiên vị, để bao che. Họ không cần sống
thanh cao, không cần chuyển hóa nội tâm, mà phó mặc chuyện đó cho thần
thánh. Thần thánh sẽ tẩy rửa, sẽ tế độ họ. Họ đặt tất cả tham vọng vào
một lai sinh và đạo giáo đối với họ chẳng qua là một cuộc đầu tư, buôn
bán vĩ đại...
Con đường thứ hai
là con đường hết sức chật hẹp, mà rất ít người tìm ra được, mà rất ít
người dám đi vào. Đó là con đường nội tâm. Đó là con đường của Như Lai,
của Lão, của Trang, của Khổng, của Mạnh, của Hán Chung Ly, của Lữ Đồng
Tân, của Vương Trùng Dương, của Eckhart, của John of the Cross, của
Ramakrishna, của Vivekananda, của Al Hallaj. Họ đi vào con đường này vì
xác tín rằng Trời không bao giờ có thể lìa xa vạn vật, lìa xa con người;
y thức như bóng với hình, như nước với sóng, không có bao giờ lìa xa
nhau. Thế tức là Bản Thể không lìa xa hiện tượng; hằng cửu không rời
khỏi biến thiên. Con đường này hết sức là giản dị, hết sức là gần gũi;
chẳng cần đi mà đã tới liền. Thế là «Bất hành nhi chí»
不 行而 至 vậy. Đi vào con đường này, họ chứng
nghiệm được từng bước tiến, từng những thành quả thâu lượm được. Họ đúng
là những người khát mà được uống nước thật sự, ăn trái mai thật sự; chứ
không như ai chỉ mơ uống nước, chỉ tưởng thấy rừng mai...
Chẳng hạn như ở
bên Hồi giáo, có môn phái Bạch Y (Sufism). Sở dĩ có môn phái này là vì
họ dựa vào một lời thánh kinh Coran (Quran): «Ta đã tạo nên con người;
và ta biết tâm hồn nó thở than gì; và ta gần gũi nó hơn tĩnh mạch cổ của
nó.» (Quran 50:16). Các đại Thánh thuộc môn phái này cho rằng vũ trụ hữu
hình chẳng qua là những bức màn che dấu Thượng đế, và người thấu thị lúc
nào cũng thấy Ngài, xuyên thấu qua bức màn hình danh, sắc tướng.
Baba Kuhi ở Shira
(chết 1050) có bài thơ mà tôi phỏng dịch như sau:
Ở ngoài
chợ, ở trong dòng,
Ở đâu
cùng thấy thuần ròng Chúa thôi.
Xuống
khe, lên núi, lên đồi,
Ở đâu
cũng thấy Chúa tôi tràn đầy.
Giàu
sang, nghèo khó tuy thay,
Bao giờ
cũng thấy Chúa ngay bên mình.
Dù khi
tĩnh tọa, cầu kinh,
Ăn chay,
giữ giới, thấy mình Chúa thôi.
Bất kỳ
hay dở trên đời,
Truy
nguyên vẫn thấy Chúa tôi rành rành.
Mở to
đôi mắt nhìn quanh,
Trông gì
cũng thấy hóa thành Chúa thôi!
Nến tôi
thắp cháy lửa Ngài,
Hào
quang vừa tỏa, Chúa tôi hiện hình,
Mượn đôi
mắt Chúa nhìn quanh,
Bỏ đôi
mắt tục, vẫn rành Chúa thôi.
Giã từ
hiện tượng hình hài,
Lạ sao
vẫn thấy Chúa tôi như thường.
Tưởng
mình tan biến, hư vương,
Nào hay mình vẫn miên trường, vô biên.
Rumi, một thánh
nhân Hồi giáo khác, cũng dứt khoát cho rằng chỉ có thể tìm thấy Chúa
trong tâm hồn con người mà thôi. Ông có thơ sau:
Tôi lục
lạo khắp cùng Thiên Chúa Giáo,
Thánh
giá nhìn lên, tôi thấy nó trống không!
Tăm tích
Ngài, sao tôi thấy vẫn mịt mùng!
Tôi lang
thang trong chùa chiền, miếu mạo,
Ngài ở
đâu, sao chẳng thấy hình dung?
Đá
Kaaba, tôi quanh quất, ruổi rong,
Đô hội
ấy, mà sao Ngài vắng bóng!
Tâm hồn
tôi, tôi nhìn tận bên trong,
Ôi lạ
thay, kìa sao Ngài ở đó!
Thần trí
tôi bỗng mãnh liệt động rung,
Rũ sạch hết bụi trần gây chia rẽ...
Al Hallaj, một
vị đại thánh Hồi giáo khác tuyên xưng:
Ta cùng
với Đấng ta yêu,
Hai đằng
là một, khôn chiều qua phân,
Một thân
mà có hai thần,
Thấy ta, thấy Chúa, cũng ngần ấy thôi.
Các vị Thánh
hiền này có một điểm tương đồng là khinh thị những lễ nghi hình thức bên
ngoài, mà các Ngài cho là rườm rà, phù hoa, không cần thiết; hơn nữa các
Ngài không chịu gò mình vào trong vòng cương tỏa, triền phược của các
tôn giáo có tổ chức bên ngoài, nên thường bị
các giáo quyền ra tay bách hại. Các giáo quyền cho rằng đó là những phần
tử phá rối trật tự, đầu độc quần chúng, có ý đồ làm khuynh đảo giáo
quyền, vì thế cần phải trừ khử. Chính vì vậy mà Al Hallaj chẳng hạn, đã
bị cầm tù chín năm; sau đó còn bị chặt chân
tay, bị treo trên thập giá 3 ngày rồi đem xuống chém đầu cho chết, với
tội trạng là làm lẫn lộn Trời, Người (cho Trời là mình, mình là Trời).
Bàn tay công thẳng, sấm sét của Chúa cần phải trừng phạt những kẻ dám
đứng ra chỉ trích, mặc dầu là chỉ trích những hủ hóa, những sai lầm; và
cửa hỏa ngục cần mở ra để chờ đón những kẻ dám nghĩ rằng mình mến yêu
Thiên Chúa, đến độ kết hợp với Ngài như một. Chắc là có nhiều Thánh Hiền
trong quá vãng đã phải kinh qua dàn hỏa thiêu sinh của đám người thô
bạo, cuồng tín, để mà siêu thăng miền cực lạc.
Còn quần chúng
thì nghi kỵ, dè bỉu, cười chê các Ngài, cho là bọn lập dị, bọn điên
khùng; tại sao có người chăn, người dắt mình, mà lại không chịu ép mình
vào vòng cương tỏa; lại dám sống khinh phiêu, hào sảng bên ngoài mọi
ràng buộc, trói chăng. Tại sao không quì gối, cúi đầu, đấm ngực thú nhận
mình là phận phàm hèn, tội lệ; mà lại dám đứng thẳng người, ngửng mặt
lên, như muốn khoe khí phách, hiên ngang, hào hùng cùng vũ trụ? Cần chi
mà trèo cao, cần chi mà rắc rối! Sao chẳng bắt chước chúng ta, thấy
người đàn địch, ta liền múa nhảy; thấy người sầu than, ta liền khóc lóc.
Người bảo đi, thì ta đi; người bảo đứng, thì ta đứng; người bảo sao, ta
nghe vậy; nói xuôi ta ừ xuôi; nói ngược ta ừ ngược; suy làm chi cho thêm
mệt; nghĩ làm chi cho thêm phiền; có như thế, mới thật là đạo đức, khiêm
cung; ở với Bụt, thì mặc áo cà sa; ở với ma, thì mặc áo giấy; sống ù ù,
cạc cạc, cho đoạn tháng qua ngày; chính ngu si lại hưởng thái bình; cầu
an thân, cầu lợi lộc cho mình có hơn không, cần gì mà phải phiêu lưu,
lập dị!
Nhưng Thánh hiền
xưa nay không nghĩ như vậy. Các Ngài mong muốn sống một đời sống huyền
hóa với đất trời, mặc cho trần thế dèm pha, chỉ trích. Trang Tử viết đại
khái trong thiên Tiêu Diêu Du, Nam Hoa Kinh như sau:
Hồn ta
hỡi, hãy tiêu diêu,
Tung đôi
cánh rộng, khinh phiêu chín tầng...
Hãy tung
cánh chim bằng muôn dặm,
Cưỡi gió
mây, bay thẳng về Nam,
Bay về
quê cũ giang san,
Hồ trời
vùng vẫy, miên man thỏa tình.
Mặc nhân
thế rẻ khinh đàm tiếu,
Óc phàm
phu sao hiểu Chí Nhân...
Vùi thân
trong chốn hồng trần,
Họ như
ve sẻ, qua lần tháng năm,
Tầm mắt
hẹp, mà thân ti tiểu,
Kiếp phù
du, nào hiểu chi đâu,
Thân
lươn bao quản lấm đầu
Cốt sao
cho khỏi cơ cầu thì thôi,
Phận sâu
bọ, đành rồi sâu bọ,
Thân nấm
rêu, nào rõ tuần trăng,
Ve sầu
nào biết thu xuân,
Minh
linh ngoài mấy vạn năm hay gì?...
Như Bành
tổ, có chi là thọ,
Mà chúng
nhân quá cỡ tán dương,
Người
vui tước phận lý hương,
Người
vui mũ áo, xênh xang trị vì.
Kìa Liệt
tử, thích đi mây gió,
Cưỡi gió
mây, đây đó thỏa lòng.
Còn ta
khinh khoát vô cùng,
Sánh vai
Nhật Nguyệt, vẫy vùng khinh phiêu,
Quên
mình, quên hết mọi điều,
Quên
tên, quên hết bao nhiêu công trình.
Sống đời
sống thần linh sảng khoái,
Như Hứa
Do, chẳng đoái công hầu,
Uống ăn
nào có chi đâu,
Mà lo
với lắng, cho rầu lòng ai.
Ta chẳng
nói những bài phách lối,
Lời của
ta, đâu nỗi hoang đường,
Lời ta
minh chính, đàng hoàng,
Vì người
không hiểu, trách quàng, trách xiên.
Kẻ mù
tối, sao xem màu sắc,
Người
điếc tai, sao bắt âm thanh.
Cho nên
những kẻ vô minh,
Tối tăm,
ù cạc, ngọn ngành hiểu chi,
Sao biết
được uy nghi, sang cả,
Của
những người huyền hóa, siêu linh,
Đất trời
gồm tóm trong mình,
Lồng vào
muôn vật, sự tình nào hai,
Dẫu sóng
cả ngất trời không đắm,
Dẫu nóng
nung, cũng chẳng làm sao.
Trời mây
mặc sức tiêu dao,
Cho dù
Nghiêu, Thuấn dễ nào sánh vai...
Tóm lại Thánh
hiền, vì tin mình có Thiên tính, có Phật tính, nên khi đi vào tâm là để
tìm Đạo, tìm Trời; khi đi ra ngoài xã hội, nhân quần, là đem nhân ái
chan hòa, nhuần đượm khắp chúng sinh, vạn hữu. Cái điều mà các Ngài muốn
rao truyền, chính là con người có Bản thể Thượng đế; con người không bao
giờ có thể sống xa rời Thượng Đế. Nếu sống phối hợp với Thượng đế, chúng
ta sẽ được khinh phiêu, hạnh phúc. Nếu sống xa rời Thượng đế, chắc chắn
rằng chúng ta sẽ sống trong lo âu, khắc khoải.
Đạo
Lão có câu:
Tâm dữ
Đạo hợp,
Tắc tạo
Bồng Lai, Tam Đảo,
Tâm dữ
Đạo ly,
Tắc tạo lục đạo, tam đồ.
Tạm dịch:
Lòng
người mà hợp lòng Trời,
Ấy là
Tam Đảo, Bồng Lai hẳn rồi,
Lòng
người mà tách lòng Trời,
Tam đồ,
lục đạo, lôi thôi, khốn nàn.
Chắc chắn rằng
trong những thế kỷ sau 2000, nhân loại sẽ nhận chân được chân lý siêu
việt này. Các phần tử tiền tiến Âu Mỹ, đều đã chấp nhận chủ trương: Trời
tiềm ẩn trong lòng sâu vạn hữu, và hoạt động âm thầm trong tâm khảm mọi
người.
Hội nghị quốc tế
Thông Thiên Học tại Salzbourg nước Áo, năm 1966 vừa qua, đã có những lời
tuyên ngôn hết sức nảy lửa, ví dụ như:
Trong ta có một
Vô Cùng... Giác ngộ tâm linh sẽ mặc khải cho thấy yếu tố thần linh duy
nhất trong tâm thần mọi người... Thời buổi này, cần phải nhận chân rằng
trong mọi con người, có một tàn lửa Thiên Chân, và những khả năng vô
biên, vô tận... Tôn giáo xưa cho rằng: Trời và người xa cách nhau. Thông
Thiên ngày nay dạy rằng: Trời, người là một... Người ta thấy Thượng Đế
trong tạo vật Ngài... Ngay trong lòng mình, con người có thể tìm thấy
Thượng Đế. Về phương diện đạo giáo, sự khám phá này vĩ đại như sự khám
phá ra nguyên tử năng. Nó cho con người một quyền lực tinh thần không bờ
bến, cũng như nguyên tử năng đã cho con người một sức mạnh vật chất kỳ
diệu...
Để
kết thúc, và cũng là để cho bài luận đàm này đượm một chút mùi hương dân
tộc, tôi mượn bài thơ trong Thánh Giáo Sưu Tập, Cao Đài, 1970-1971, như
sau:
Đạo tại
tâm hề, Phật tại tâm,
Vọng cầu
bôn ngoại, thị hôn trầm,
Nhân
nhân tự hữu Như Lai tánh,
Tánh đắc Như Lai, pháp diệu thâm.
Tạm dịch:
Đạo tại
tâm hề, Phật tại tâm,
Lầm tìm
ngoại cảnh, ấy mê lầm,
Người
người vốn sẵn Như Lai tánh,
Đạt tánh
Như Lai, đạo mới thâm.
CHÚ THÍCH
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|