Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 10
Tôi bao giờ
cũng công nhận uy lực của các tôn giáo đương thời; tôi bao giờ cũng thán
phục cách thu hút quần chúng của các tôn giáo. Tôi thấy tôn giáo nào
cũng có thể làm cho con người mê say, và nghĩ cho cùng tôn giáo nào cũng
có những khía cạnh đẹp đẽ của nó. Từ ngót 40 chục năm nay, tôi đã dùng
hầu như toàn thể thời gian để khảo sát tất cả các tôn giáo lớn nhỏ trên
thế giới. Không những khảo về đời sống các vị Giáo chủ sáng lập ra các
tôn giáo, lại còn khảo sát về nguyên do bành trướng của các tôn giáo;
những vay mượn của các tôn giáo đối với các tôn giáo bạn; những công lao
mà các tôn giáo đã lập; những vinh quang mà các tôn giáo đã đạt; hoặc
những lỗi lầm, những tội lỗi mà các tôn giáo đã phạm trong quá trình
lịch sử của mình.
Tôi thấy
tôn giáo nào chung qui cũng cho mình là có được chân lý toàn diện rốt
ráo. Còn các tôn giáo khác thì là sản phẩm hoặc của ma quỉ, hoặc của
những kẻ điên loạn, mỵ dân, ngu si, xuẩn ngốc, mà mình có bổn phận phải
phỉ báng, đả kích, và nếu được, tiêu trừ cho đến tận gốc rễ. Đường lối
và thái độ này đã được một phần lớn nhân loại theo, trong vòng hơn 1000
năm; đến nay mới được giảm thiểu.
Phật giáo
phát xuất tự Bà La Môn giáo, nhưng sau lại chê Ba La Môn là tà đạo, là
ma vương, ma quyến. Đạo Công giáo phát xuất từ Do Thái Giáo. Do Thái
giáo do Đức Chúa Cha lập; còn đạo Công giáo là do Đức Chúa Con lập.
Nhưng từ khi đạo Đức Chúa Con mạnh, thì lại quay ra đàn áp, phỉ báng Đạo
Đức Chúa Cha. Các người theo đạo Do Thái sống trong các nước Công giáo ở
Âu Châu thường chỉ có hai con đường: một là bỏ đạo mình, chịu rửa tội
theo đạo Thiên Chúa; hai là bị trục xuất ra khỏi nước họ đang cư ngụ.
Muốn được
lòng một tôn giáo nào đó, chúng ta chỉ việc một là tâng bốc khen lao họ,
hai là chê bai các đạo giáo khác.
Khi một tôn
giáo đi truyền đạo, thì muốn các dân nước phải cho họ tự do thu nhận tín
đồ, nhân danh quyền tự do tín ngưỡng con người. Còn ở những nơi họ thống
trị, thảng hoặc có ai dám dưa ra những tư tưởng gì mới lạ, khác biệt,
thì lập tức bị coi là những phần tử phá hoại trị an, cần phải thẳng tay
trừ diệt. Đó là thực tế trong một dĩ vãng gần đây.
Tháng 4 năm
1521, Luther – vị giáo chủ tương lai của Tin Lành – vì có những quan
điểm khác biệt với Công giáo thời ấy, nên phải ra trình diện trước tòa
thẩm án tôn giáo ở Worms, do Hoàng đế Charles chủ tọa.
Thay vì rút
lại các lời lẽ, và tư tưởng đã được phổ biến trong các sách ông viết,
ông long trọng tỏ ra bất tuân quyền Giáo Hoàng, và quyền các Công Đồng;
chỉ tin vào Thánh Kinh, và chỉ nghe theo tiếng lương tâm. Sau khi ông ra
về, thì tháng 5, 1521, Hoàng đế Charles, xuống sắc chỉ cho rằng một thày
tu mà dám chống lại một Giáo Hội có cả ngàn năm lịch sử, là một điều sai
lạc; và như vậy Luther đã trở thành một phần tử tách rời khỏi Giáo hội
Chúa, một kẻ biệt giáo, phản giáo bất trị; và truyền cho toàn dân không
được chứa chấp, nuôi dưỡng Luther; phải bắt Luther nạp cho nhà vua. Tất
cả các bè bạn, tất cả những người theo chân Luther cũng phải được đối xử
như vậy; gia sản họ phải bị tịch thu toàn bộ. Cấm không được in, được
mua bán, tàng trữ sách của Luther. Sắc chỉ trên có hiệu lực cho tới khi
Luther qua đời.
Nhờ có những kỹ thuật tinh vi để nắm giữ quần chúng như vậy, mà các đạo
giáo xưa nay đã bành trướng được và đã trường tồn.
Cũng có
khi, người ta chém giết lẫn nhau vì bất đồng tín ngưỡng. Tuy là hai bên
cùng thờ một Chúa, nhưng trước khi ra trận chém giết lẫn nhau, thì bên
nào cũng khẩn khoản xin Chúa chúc phúc cho bên mình, giúp mình tận diệt
bên kia.
Cho nên nói
rằng yêu kẻ địch, ắt hẳn là không có vậy.
Nước Mỹ này
sở dĩ có, cũng là do những chuyện bách hại lẫn nhau vì đạo giáo, nên đã
làm cho một số người phiêu bạt sang đây, lập nghiệp, tìm tự do.
Ngày nay,
nhờ sự tiến bộ của con người; nhờ làn sóng Cách mạng Pháp, nhờ Hiến Pháp
Mỹ – một hiến pháp, trớ trêu thay, lại đã được soạn thảo do những chính
trị gia thuộc hội Tam Điểm, một hội kín mà Công Giáo coi là đại thù
địch, vì lẽ họ thờ Satan (sic)! – ta mới thực sự có quyền tự do tín
ngưỡng ở đất Mỹ này.
Huston
Smith's, tác giả quyển The Religions of Man, cho rằng hiện có 255
giáo phái Tin Lành lớn nhỏ ở Mỹ này. Tôi đếm trong mục lục quyển
Handbook of Denominations in the United States, của Frank S. Mead,
thì nguyên các giáo phái Thiên Chúa Giáo ở Mỹ này hiện nay cũng có
khoảng 560. Ấy là chưa kể các đạo giáo người Việt Nam du nhập vào Mỹ gần
đây, như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Vô Vi, Mật Tông v.v... Như vậy sơ
sơ chúng ta cũng có vài trăm loại Chân Lý lớn nhỏ.
Một điều
nhận xét khác là đã đi theo một tôn giáo nào, không ít thì nhiều, cũng
phải đặt mình dưới quyền điều khiển của hàng giáo phẩm của tôn giáo ấy.
Hơn nữa,
một tôn giáo, trên nguyên tắc, là do một giáo chủ lập ra; nhưng trên
thực tế, là do công lao của nhiều người đóng góp. Càng theo đà thời
gian, nó càng được hạ thấp xuống để thu hút quần chúng. Cái hay của một
tôn giáo là làm sao có được những lễ nghi long trọng, những bài ca,
những khúc nhạc cho oai nghiêm, có những lời kinh ngắn gọn, để cho mọi
người từ 5,6 tuổi, đến 80, 90 cũng vẫn thông công hoàn toàn được như
nhau. Cho nên, đứng về một phương diện thì những lời kinh nho nhỏ như
Nam Mô A Di Đà Phật; Nam Mô ô Ran Gi Kô của phái Liên Hoa; hay làm dấu
thánh giá; đọc kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh của Công giáo thật là
tuyệt diệu, vì chỉ sau ít phút học hỏi, là mọi người đã có thể đồng ca,
đồng tấu như nhau, là đã nói lên được sự đồng tâm, sự ưu ái, sự thông
cảm với nhau rồi.
Cái giá trị
của sự ngồi Thiền nó cũng phổ thông như vậy, vì bất kỳ ai, chỉ một vài
phút là đã trực tiếp tham gia được.
Cái cao
siêu của Hồi giáo cũng vậy. Chỉ cần sắm một tấm thảm nhỏ, rồi một ngày 5
lần, sau khi đã rửa chân tay, mặt mũi sạch sẽ, sẽ quì trên tấm thảm đó,
quay về hướng Mecca, lên gối xuống gối năm lần, miệng đọc: Chỉ có Allah
là duy nhất, và Mohammed là tiên tri của Ngài.
Môn phái Vô
Vi gần đây sở dĩ được nhiều người hưởng ứng chính là vì dạy mọi người
ngồi Thiền một cách giản dị. Ai ai cũng có thể thực hành ngay phép Thiền
đó. Chuyện bịt hai tai, hay kéo hai đuôi mắt, thực ra có người chỉ cho
ít phút là xong ngay.
Cái gì dù
thấp mấy, nhưng dễ thực hành vẫn được nhiều người sùng thượng. Thật
không còn gì yên ủi hơn là chỉ cần niệm vài trăm câu Nam Mô Ô Ran Gi Kô
mỗi ngày, mà tự nhiên sức khỏe sẽ thêm dồi dào; gia đình sẽ thêm sung
túc; đi làm sẽ chóng thăng cấp; đi buôn sẽ phát tài nhiều, vì Trời Phật
sẽ đặc biệt độ trì cho mình.
Có nhiều
người tin chắc rằng những lời chú bằng tiếng Phạn, tuy là mình đọc lên
không hiểu gì, nhưng nguyên âm thanh nó cũng có sức cứu rỗi mình.
Tôi cũng
được một ông bạn dạy cho bí quyết ngâm Lục tự Di Đà để đả thông kinh
mạch.
Tôi lại
cũng biết cả Lục tự: HƯ, HA, HÔ, HU, SUY, HY, của Lão giáo, có thể chữa
được các bệnh gan, tim, tì, phế, thận, tam tiêu.
Ngoài ra
còn biết niệm thần chú AUM của Bà La Môn nữa! Nhưng tôi thật vô duyên,
có những báu vật như vậy mà chẳng biết dùng. Thấy người khác dùng chúng
như là phương tiện chắc chắn để lên thiên đàng, vào Tịnh thổ dễ ợt mà
thèm hết sức. Có vị chân sư lại kể cho tôi nghe rằng xưa có một vị niệm
chữ AUM đúng cách, bỗng nhiên thấy có 5, 6 mặt trời hiện thêm ra. Nghe
thấy thế, tôi sợ toát mồ hôi, vì một mặt trời đã quá nóng; thêm 5, 6 ông
mặt trời nữa thiên hạ chắc sẽ chết; thành thử vì nhân đạo tôi lại càng
không dám niệm chú AUM nữa.
Thực tình,
càng ngày tôi càng thấy thương các vị thần thánh: Ngày nào cũng như ngày
nào, vì phép lịch sự, các ngài phải nghe hạ giới cầu kinh, khen lao, van
vỉ mình, nhưng họ lại đọc quá nhanh, đọc như ăn cướp, đọc như nước chảy
hoa trôi, cho chóng xong công chuyện, nhiều khi lại còn đọc trong khi
nửa thức, nửa ngủ nữa. Và ác nhất là họ thay phiên nhau, hầu như là 24
tiếng, trên 24 tiếng; quanh năm, tứ đời; ngày ấy, tháng khác, đọc cùng
một kinh ấy cho mình nghe hoài hoài, thì hỏi có khổ cho các Ngài không?
Các Ngài làm sao có thì giờ nào khác để hưởng thú vui nơi Cực Lạc nữa?
Vì con
người sinh ra ở đời này có nhiều trình độ khác nhau, cao thấp khác nhau,
nên các tôn giáo cốt làm sao thích hợp với trình độ trung bình của quần
chúng là tốt rồi.
Các bậc
lãnh đạo tôn giáo thực ra là những người rất rành tâm lý quần chúng; rất
am tường thị hiếu quần chúng. Mà quần chúng đại đa số là những trẻ nít,
những người dân mộc mạc chất phác, những ông già bà lão thôn quê. Vì
vậy, muốn thu hút họ, lời lẽ phải hết sức mộc mạc; nội dung phải hết sức
cụ thể; phải làm sao cho họ được đóng góp trực tiếp ngay; thi hành được
ngay; rồi phải tổ chức những cuộc hội hè rước sách cho long trọng; biết
dùng thi ca, nhạc, kịch, hội họa, điêu khắc để truyền bá tôn giáo mình.
Cần đem những lợi lộc đời này, đời sau để hứa cho những người theo mình.
Cần đem những tai họa khủng khiếp đời này, đời sau để dọa nạt những
người không theo mình. Khi nào thời thế cho phép, mình có thể dùng bạo
lực, dùng những phương cách dã man, tàn khốc, để củng cố quyền uy của
mình. Khi nào thời thế không cho phép, mình sẽ dùng phương pháp ngoại
giao, dùng biện pháp mềm dẻo để đối phó.
Cộng sản
trong khi tuyên truyền chủ nghĩa, xây dựng quyền uy, bảo vệ quyền uy,
cũng đã theo rất sát các biện pháp mà các nhà lãnh đạo tôn giáo xưa nay
đã dùng.
Càng ngày
tôi càng thấy các bậc Minh Triết quả là những vị dở ẹc. Toàn dạy cái quá
cao, quá khó. Một đời chưa chắc đã có nổi một đồ đệ theo nổi được tâm
truyền của mình. Các Ngài không chịu hạ thấp những điều mình giảng dạy
xuống cho hợp trình độ đại chúng, và chỉ đòi gặp cho được những mặc
khách tao nhân, lúc ấy mới chịu thổ lộ chân tình! Trong khi tôn giáo chủ
trương «quí hồ đa, bất quí hồ tinh»; thì minh triết lại chủ trương «quí
hồ tinh bất quí hồ đa»...
Tôn giáo,
xét về phương diện xã hội, là một sự thực thi tình đoàn kết, tình tương
thân giữa con người với con người. Đáng lý ra mỗi lần gặp nhau trong các
dịp lễ, con người nên cùng nhau tay bắt, mặt mừng, làm quen lẫn nhau,
thăm hỏi lẫn nhau. Tôi cho điều đó quan trọng hơn là ca hát một bài xưng
tụng thần phật.
Tôi rất quí
cử chỉ thân hữu của nhiều người, chỉ vì tình đồng đạo, mà mỗi khi trong
những nơi mình ở, có ai qua đời, là tụ họp đến đọc kinh cầu cho người
chết, có khi lại còn tiễn đưa linh cữu đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Tôi cũng
rất cảm động khi thấy đôi trẻ dù giàu, dù nghèo cũng có thể cùng nhau
đến Thánh đường, đến Phật đường, để long trọng thề hứa cùng nhau sống
một cuộc đời yêu thương nhau cho đến trọn đời.
Cái giá trị
khác của tôn giáo là cho con người có cơ hội cảm thông với thần thánh,
làm cho con người cảm thấy bớt cô đơn nơi trần hoàn này. Ít ra ai ai
cũng cảm thấy rằng mình không bị thần thánh bỏ rơi, mà trái lại vẫn được
bàn tay yêu đương của thần thánh, cưu mang, phù hộ, độ trì.
Nói thế cốt
là để xác quyết rằng tôi rất quí trọng các tôn giáo, và coi chúng như là
những hiện tượng tâm lý, xã hội cần thiết cho con người. Trong đời, hiếm
thấy những người không theo một tôn giáo nào.
Thường
người ta ở đời, chỉ biết một đạo; nhưng cũng có những người ra công khảo
cứu về các tôn giáo. Tôi cũng là một người thích nghiên cứu về các tôn
giáo thế giới.
Đối với
tôi, muốn hiểu biết cho rành rẽ về tôn giáo, muốn đoán định giá trị các
tôn giáo, cần phải biết phân loại tôn giáo thành nhiều nhiều loại hiện
tượng tương ứng với các tầng lớp trong con người.
1.- Trước
hết vì con người có XÁC, có NGŨ QUAN, nên tôn giáo nào cũng bắt buộc
phải có phần LỄ NGHI. Mà LỄ NGHI sẽ bao gồm đủ mọi loại kinh kệ, chuông
mõ, hương hoa, đèn nhang, ca vũ. Vũ trong các tôn giáo hết sức là đặc
biệt: Đó là những quì gối, cúi đầu, van vái, lạy lục, đứng lên, ngồi
xuống, hoặc là đơn trình, hoặc là đồng tấu. Có tôn giáo thì lạy nhiều,
có tôn giáo thì lạy ít; có tôn giáo thì hát nhiều, có tôn giáo thì hát
ít. Có tôn giáo thì cầu kinh nhiều, có tôn giáo cầu kinh ít. Nhưng một
lễ nghi tụng niệm, thường khoảng từ nửa giờ, đến một giờ. Tôi đã dự
nhiều lễ nghi tôn giáo của nhiều tôn giáo Đông, Tây. Tôi thấy giáo dân
thực tình tỏ ra hết sức say sưa khi tụng niệm. Tôi nhìn vào lòng tôi,
thấy nó thờ ơ, lạnh nhạt làm sao trước những cảnh tượng nói trên.
2.- Vì con
người có trí khôn, thích suy tư tìm hiểu, - nên hiểu trí khôn đây là
tiểu trí - nên đạo giáo nào cũng có một số giáo lý, giáo điều. Giáo điều
đạo giáo này khác với đạo giáo kia. Nó có thể khác nhau như nước với
lửa. Ngươì thì rằng vũ trụ này vô cùng; người thì rằng vũ trụ này hữu
hạn. Người thì cho Thượng đế là hữu ngã; người thì cho Thượng đế là Vô
ngã. Người thì chủ trương Chúa một Ngôi; người thì chủ trương Chúa 3
Ngôi. Người thì rằng thân tứ đại giả hợp là giả; người thì rằng đó chính
là chân. Người thì tin Đức Mẹ có một con; người tin có Đức Mẹ có nhiều
con. Người thì đặt nặng vấn đề Thượng đế siêu việt; người thì đặt nặng
vấn đề Thượng đế nội tại. Người thì tin con người là kẻ tội lỗi vô giá
trị; người thì tin con người có giá trị vô song. Người tuyên xưng người
mãi mãi chỉ là người; người lại tin con người mai sau có thể thành Trời,
thành Phật. Các tư tưởng về Thượng đế, về vũ trụ, về nhân quần biến từ A
đến Z; từ không đến vô cùng. Tất cả là do tầm nhìn, lối nghĩ của các bậc
giáo chủ, của các bậc lãnh đạo tôn giáo. Người thì cho rằng TIN nghĩa là
chấp nhận không suy, xét, không đắn đo; người thì rằng chấp nhận không
suy xét, không đắn đo chính là MÊ TÍN. Đạo nào cũng chủ trương từ bi,
bác ái, nhưng thực ra, đạo nào cũng có thể sẵn sàng giết hại đối phương,
vì tư tưởng bất đồng. Mầm loạn ly, mầm chia rẽ chính là tại ở nơi đây.
Mầm tiến hóa cũng tiềm ẩn tại nơi đây. Cho nên hay dở chung qui vẫn là
tại trình độ tiến hóa của từng cá nhân. Phúc lớn sẽ đến cho nhân loại,
khi nào các giáo điều có thể trở nên linh động, uyển chuyển, đổi thay
theo đà tiến hóa của nhân loại, hay ít là khi nào các giáo điều không
còn làm trở ngại cho tình huynh đệ trong trần hoàn này. Phúc lớn sẽ đến
cho thiên hạ, khi mọi người hiểu rằng tiểu trí không đạt được Chân lý.
Chỉ khi nào đại trí con người, chỉ khi nào tuệ giác con người phát sinh,
con người mới có thể đạt Chân lý. Cho nên phần lớn những điều mà ngày
nay, nhân loại truyền thụ cho nhau dưới mỹ danh là chân lý, trong tương
lai sẽ trở thành «giả lý». Cái hay nhất là chúng ta nên có một tâm hồn
«mở rộng», chứ đừng «khép kín», đối với vấn đề Chân Lý, như vậy chúng ta
sẽ trở nên cởi mở, bao dung hơn nhiều!
3.- Vì con
người có hồn, nên tôn giáo nào cũng có hai khía cạnh khác là Luân Lý và
Nghệ thuật.
Hồn chúng
ta tưởng chừng như đơn thuần, nhưng kỳ thực có hai phương diện: thanh và
trọc. Phần thanh khí (hay Hồn =Animus) trong con người làm cho con người
ưa chuộng nghệ thuật. Phần trọc khí (Phách= Anima) nơi con người chính
là nơi phát sinh ra thất tình lục dục. Thất tình lục dục cần được chế
ngự bằng các định luật luân lý.
Vì con
người có «Trọc Hồn», nên tôn giáo nào cũng có một nền luân lý riêng biệt
để điều ngự nó.
Mỗi một
giáo hội sẽ qui định thế nào là hay, thế nào là dở, thế nào là thiện,
thế nào là ác. Vấn đề thiện ác cũng biến thiên, di động, tùy theo tình
hình tôn giáo của từng thời đại, tùy theo uy quyền của các giáo đoàn,
giáo hội tùy từng thời đại. Ngày nay, chúng ta làm nhiều điều được coi
là thiện, nhưng khi xưa lại bị coi là ác. Ví dụ như chuyện hương hoa,
đèn nến, kính nhớ tổ tiên ngày nay thì được khuyến khích; còn cách đây
vài chục năm trở về trước, thì lại bị nghiêm cấm.
Các đạo
giáo gian trần này, dù lớn, dù nhỏ, dù Đông, dù Tây thực ra chỉ có một
mục đích chân thực là giữ con người trong vòng trật tự, lễ giáo, nên
phận vụ giúp con người tiến hóa tâm linh đến nơi đây là chấm dứt. Hai
giai trình kế tiếp là do cá nhân mỗi người phải tự lo liệu lấy.
4.- Vì tâm
hồn con người có phần khinh thanh, vì con người, khi tâm hồn đã trở nên
thanh khiết, sẽ mến chuộng nghệ thuật, nên tôn giáo nào cũng cố tìm cách
thỏa mãn nhu cầu nói trên. Chỉ có điều là các tôn giáo chỉ biết đem nghệ
thuật, đem âm thanh, màu sắc trang hoàng cho giáo đường, cho đền đài
miếu mạo bên ngoài; đem ca hát, đàn địch tô điểm cho các buổi lễ mình
thêm long trọng, chứ không đạo giáo nào biết khuyến cáo tín hữu mình
biến đời sống mình thành một nghệ thuật sống động.
Đây chính
là lúc Minh Triết tiếp tay cho đạo giáo. Con người Minh triết sẽ sống
hào sảng, sống hồn nhiên, sống khinh phiêu, sống đẹp đẽ, nhưng đồng thời
sống thoát vòng kiềm tỏa của các luật lệ gian trần già tỏa con người.
Con người minh triết sẽ là hiện thân sự đẹp đẽ của đất trời. Cái đẹp sẽ
tung tỏa từ lòng sâu tâm hồn họ ra cho tới mọi cung cách, hành vi, mọi
khởi cư, cử chỉ của họ. Họ sống vui theo cái vui trời, và không còn bị
những sầu bi, những phiền muộn, những lo sợ trần hoàn làm u ám, làm xáo
trộn thâm tâm.
5.- Vì con
người có Thần, mà thần mình với Thần trời đất là một, nên xưa nay có
nhiều bậc giáo chủ, nhiều bậc minh triết đã tuyên xưng mình là Phật, là
Trời. Có những vị đã mất mạng vì những lời tuyên bố tương tự như vậy,
như Chúa Jesus, như Al- Hallaj. Con số các vị đắc đạo, thành chân chứng
thánh, các bậc minh triết, thánh hiền nói trên, tuy không có nhiều,
những cũng không phải là quá ít. Các ngài là những bậc tiên phong đi
bước trước để chỉ đường cho nhân loại đi bước sau. Chỉ ở nơi các Ngài,
Đại trí, Tuệ giác mới hình hiện. Cho nên cần đem so sánh tư tưởng của
chính các Ngài. Cái gì tương đồng, đó là Chân Lý.
Đến đây,
tôi muốn đóng góp ít nhiều tư tưởng riêng tư của tôi về tôn giáo và Minh
triết.
Từ trước
đến nay không ai đề cập đến vấn đề Minh triết, mà chỉ đặt vấn đền Triết
học. Minh triết mà tôi muốn nói đến thực ra phải gọi là Đại Đạo, thực ra
phải gọi là Tinh Hoa các tôn giáo.
Tôn giáo
thì có nhiều, nhưng Minh triết chỉ có một. Các bậc chân sư có thể xuất
phát từ nhiều đạo giáo khác nhau, nhưng khi đã giác ngộ tâm linh, khi đã
lên tới đỉnh Minh triết thì lại hoàn toàn giống nhau.
Tôn giáo
chủ trương Trời tạo nên muôn loài bởi hư không. Minh triết chủ trương
Trời sinh ra muôn loài, bằng chính Bản thân mình, bằng cách tung tỏa,
hóa bản thân mình thành vạn hữu.
Các tôn
giáo bao giờ cũng phân biệt Trời và Người. Minh triết chủ trương Trời và
Người đều đồng một Bản thể.
Các tôn
giáo đặt trọng tâm và sự thờ phượng, cúng quải, van xin thần phật. Minh
triết đặt trọng tâm tiến hóa đến kỳ cùng, đến chỗ nhập thể với Trời, với
Brahman, với Phật tâm, Phật tính.
Minh triết
chủ trương rằng vì Trời ở khắp nơi nên dĩ nhiên phải hoạt động, phải
hiện diện trong lòng sâu vạn hữu. Lời thơ của Elizabeth Barrett Browing
có thể toát lược quan điểm của Minh triết:
Earth's crammed with heaven,
And every common bush afire with God,
But only he who sees takes off his
shoes.
Dịch:
Đất đai đâu cũng đầy Trời,
Bụi hoang nào cũng sáng ngời Thần Linh,
Chỉ người đức cả, tinh anh,
Mới cung, mới kính, mới thành, mới
tin.
Tôn giáo
chủ trương Trời ở khắp nơi, nhưng đặc biệt lại cấm không cho Trời được ở
trong lòng vạn hữu, trong lòng mọi người. Tôn giáo dạy rằng thật ra Ngài
rất xa cách muôn loài, và ở trên những cung điện trăng sao xa tít tắp.
Tôn giáo
luôn luôn thương xót cho thân phận tội lệ con người, mong chờ những vị
Cứu thế giáng trần, để xóa tội sinh linh. Minh triết luôn luôn đề cao
con người, đề cao giá trị con người, và cho rằng con người chính là Thần
Linh trong tương lai, vì con người đã có căn cốt Thần Linh ăn sâu vào
Bản thể.
Tôn giáo
cho rằng con người không thể trở thành Thần Linh. Chủ trương con người
có căn cốt Thần Linh, có thể trở thành Thần Linh, là một chủ trương ma
quái, đáng bị phạt trầm luân trong hỏa ngục đời đời. Minh triết cho rằng
chuyện con người sẽ trở thành Thần Linh chỉ là một chuyện tiến hóa tất
nhiên. Nếu Trời là Cha chung, nếu nhân loại là con cái Ngài, thì chuyện
con cái nên giống Cha là một điều đại hạnh, và là một niềm an ủi lớn cho
Cha.
Trong khi
tôn giáo phất cờ đi chinh phục thế giới bên ngoài, đi rao giảng về sự
tôn sùng Thượng đế, thì các nhà Minh triết lại đi sâu vào thế giới nội
tâm, để tìm cầu, để thực hiện Thượng đế.
Khảo các
đạo giáo Á châu, như Bà La Môn, Phật giáo, Cao Đài, ta thấy các đạo giáo
đó khoác hai hình thức:
– Một phần
hình thức hữu vi, hữu tướng bên ngoài, gồm các lễ nghi, trì tụng, công
quả bên ngoài. Đó là phần TÔN GIÁO.
– Một phần
vô vi, vô tướng bên trong, gồm tất cả những công trình tâm trai, thiền
định, cố gắng vươn lên tới tuyệt đỉnh tinh hoa; sống hòa mình với Đạo,
với Trời, với Chân Như Phật tính, với vạn hữu, với thiên nhiên vũ trụ.
Tôi gọi cái phần này là MINH TRIẾT hay ĐẠI ĐẠO.
Đại đạo
không còn là sự van vái, cúng quải bên ngoài, mà là con đường huyền
nhiệm tâm linh.
Sở dĩ tôi
gọi phần nội giáo, vô vi bên trong là Minh Triết hay Đại Đạo, chính là
vì nó đòi hỏi một điều kiện tiên quyết là sự GIÁC NGỘ, một sự sinh lại
bằng THẦN. Các bậc giác ngộ phải vượt khỏi ảnh hưởng của các thánh thư,
của các kinh sách; không còn ở trong vòng kiềm tỏa của các giáo đoàn,
giáo phái. Họ không còn phải đi tìm Chân, Thiện, Mỹ từ ở đâu xa, mà
Chân, Thiện, Mỹ đã rãi sáng, đã tỏa tung ra từ lòng sâu tâm hồn họ. Tư
tưởng của họ, ngôn từ của họ đã được rút ra từ đáy lòng muôn thủa, và
được muôn đời chiếu soi lại, đồng vọng lại, và sẽ bền vững cùng vũ trụ.
Tóm lại,
các bậc MINH TRIẾT nói trên đã vượt phạm vi tôn giáo riêng tư của mình,
và đã vào trong thế giới đại đồng của Thánh, Hiền, Thần, Phật muôn thủa.
Đại đạo là
Đạo lớn, mà đã lớn thời phải bao quát vũ trụ, phải siêu không gian và
thời gian, phải thích hợp với mọi tâm hồn thanh cao, tiền tiến của gian
trần.
Ta gọi là
Đại Đạo, thì Âu Châu gọi là Huyền đồng (Mysticism). Huyền đồng chính là
sống kết hợp với Trời, với Chúa ngay từ khi còn ở gian trần này.
Nói cho dễ
hiểu, Đại Đạo là một cái nhìn nội tại tâm linh. Đó là một sự linh cảm
rằng tâm hồn mình phối hợp nhất như" với Thượng đế. Đại đạo chủ trương
rằng con người có thể trực tiếp cảm thông với Thượng đế, với Tuyệt đối
thể, không cần phải qua một trung gian nào.
Đại đạo
tuyên xưng rằng Thượng đế chính là Bản thể, là cốt lõi tâm linh con
người, rằng Thượng đế vốn tiềm ẩn trong đáy lòng vạn hữu, tuy vẫn siêu
việt lên trên mọi hình, danh, sắc, tướng.
Muốn vươn
lên tới Đại Đạo, con người phải cố gắng phát huy mọi tiềm năng, tiềm lực
của mình, để cho mình luôn luôn đổi mới, luôn luôn tinh tiến, luôn luôn
vươn vượt, luôn luôn đạt tới những tầm kích cao siêu mới.
Con người
muốn vươn lên cho tới Đại Đạo sẽ phải học hỏi không ngừng, suy tư không
ngừng để:
– Biết mình.
– Biết căn cốt Trời, căn cốt thần linh nội
tại.
– Tìm cho ra mối giây liên kết nội tại, cơ
hữu ràng buộc, nối kết mình với Đạo, với Trời, từ muôn thủa.
– Thần thánh hóa bản thân để đi dần dần
đến chỗ Phối Thiên.
Nhờ ở sự cố
gắng phát triển tâm linh không ngừng mà con người sẽ phát huy được Linh
Giác, sẽ phóng phát Linh Quang, sẽ vào được Đại đạo, sẽ hòa mình được
với Bản thể vũ trụ.
Sống trong
cái thế giới văn minh, nhưng chất chưởng hiện thời, người theo Đại Đạo
nhận ra rằng mình chỉ có thể đạt được sự tĩnh lãng, sự vững vàng ở nơi
tâm linh, ở niềm tin xác quyết rằng mình có căn cốt thần minh, có thể
trở thành thần minh, sống huyền hóa với đất trời... Đại đạo đưa con
người đến sự hiểu biết ấy. Và chính nhờ sự khám phá ra được thế giới tâm
linh, mà con người tìm ra được Thượng đế nội tại nơi tâm khảm mình, biết
được Chân diện mục, Bản lai diện mục của mình.
Đại đạo ấy
không biên cương bờ cõi: Thánh Hiền Tây ra sao, thì Thánh Hiền Đông cũng
vậy. Đại đạo ấy không lệ thuộc thời gian: Chân nhân xưa ra sao, thì Chân
nhân nay hay về sau cũng vẫn in như vậy. Mạnh tử xưa đã nói: «Thánh
trước thánh sau đều cùng một đường lối.»
R. Otto,
trong quyển Huyền Học Đông Tây, mà ông là tác giả đã viết những
lời đại khái như sau:
«Rudyard
Kipling đã viết:
Đông là Đông, Tây là Tây,
Gặp gỡ đừng mong sẽ có ngày...»
Nhưng chúng
ta cũng có thể nói hoàn toàn ngược lại: Đại đạo xưa nay đâu đâu cũng là
một. Đại đạo siêu thời gian, không gian và lịch sử, nên bao giờ cũng như
như, bất biến. ở nơi đây, không còn Đông và Tây. ở nơi đây, mọi sự phân
kỳ. cách biệt không còn nữa. Bông hoa Đại đạo dẫu nở ở Ấn độ hay ở Trung
Hoa, ở Ba Tư hay trên bờ sông Rhine (giữa Pháp, Đức), hay ở Erfurt quê
hương của Đại sư Eckhart, thì cũng chỉ sinh ra một thứ quả duy nhất. Đại
đạo dẫu mượn hình thức thi ca của thi sĩ Ba Tư Djalal Al Din Rumi, hay
những cung cách hữu tình như của đại sư Eckhart, hay tiếng Phạn thông
thái của Sankara, hay công án bí ẩn của Thiền tông, nội dung trước sau
vẫn là một, tuy ngôn từ và hình thức trình bày, theo thời gian, có khác
nhau.
Ở nơi Đại
Đạo, thì Đông là Tây, Tây là Đông. Nội dung bất biến đó là gì?
Thưa:
Đó là niềm
tin xác quyết rằng vũ trụ, vạn hữu đều từ một Đại thể duy nhất phóng
phát, tán phân ra. Sau một chu kỳ biến thiên, sinh hóa đa đoan, lại qui
hoàn về Nhất Thể. (Nhất thể tán vạn thù; vạn thù qui Nhất thể).
Đó là
Thuyết «Thiên địa vạn vật đồng nhất thể» của Đông Tây xưa nay. Nhất thể
đó chính là Thượng đế, là Ein-Sof, là Vô Cực, là Thái Cực, là Brahman,
là Đạo, là Chân Không, là Diệu Hữu, là Chân Như, là Như Lai, là Thật
Tướng, là Bản Lai Diện Mục, là Niết Bàn...
Những khẩu
hiệu: Bản thể là Thượng đế; Thượng đế là Bản thể; Thượng đế là Nhất vang
rền từ Đông sang Tây. Dẫu là Sankara (Ấn Độ), dẫu là Eckhart (Đức) đều
cùng một luận điệu như vậy.
2.- Đó là
niềm tin xác quyết rằng con người và Thượng đế đều cùng một Bản thể, và
như vậy có nghĩa là Thượng đế là cốt lõi con người, là Bản lai diện mục
con người. Con người sau khi đã gạt bỏ được hết mọi lớp hóa trang hình
hài, sắc tướng, sẽ thấy mình đồng hóa với Thượng đế. Sankara bên Đông,
Eckhart bên Tây cũng cùng một tư tưởng như vậy, mà chẳng hề bao giờ được
đọc qua tư tưởng của nhau.
Thánh
giáo sưu tập của Cao Đài
(1966-1967) nơi trang 36 có câu:
«Con là đấng thiêng liêng tại thế,
Cùng với Thày, đồng thể Linh Quang,
Khóa chìa con đã sẵn sàng,
Khi vào cõi tục, khi sang Thiên đình.»
Mấy lời cơ
bút nói trên quả thật đã toát lược lại được niềm tin muôn thủa của nhân
quần, đó là Trời và Người đều có cùng một bản thể.
Meister
Eckhart sinh ra ở vùng Thuringia khoảng năm 1260. Sau vào dòng Đa Minh;
sang du học tại Đại Học Đường Ba Lê; sau làm Bề trên cả dòng Đa Minh xứ
Bohemia. Ông giảng thuyết rằng trong tâm hồn con người có một tàn lửa
thiên chân, đồng bản thể với Thượng đế. Bản thể Thượng đế thâm nhập vào
lòng sâu vạn hữu. Thượng đế không ở đâu chân thực cho bằng trong tâm hồn
con người. ông tin rằng ông trực tiếp cảm thông với Thượng đế. Ông tin
rằng nhờ giác ngộ, nhờ cảm nghiệm tâm linh, tâm hồn con người có thể kết
hợp với Thượng đế, vì Thượng đế chính là cùng đích cho con người vươn
lên.
[5]
Ông bị tố cáo là rối đạo. May thay ông mất vào khoảng năm 1327.
Mãi đến năm 1329, giáo hoàng John XXII, mới tuyên án ông là phản giáo,
đã có 17 điều sai lạc...
[6] Nhưng trước công luận, mọi người thường vẫn coi
Eckhart là một vị đại thánh. Lúc bấy giờ là khoảng cuối thế kỷ 13, đầu
thế kỷ 14, Đông Tây chưa hề có cách nào mà gặp gỡ nhau, thế mà tư tưởng
trên hoàn toàn phù hợp với thánh hiền Đông Phương, thực là một sự lạ
lùng.
Từ hơn 100
năm nay, ở Hoa Kỳ này có một phong trào, được mệnh danh là Phong Trào
Siêu Hình (Metaphysical movement) hay Phong Trào Tân Tư Tưởng (New
Thought movement). Những người khởi xướng phong trào là Phineas P.
Quimby (1802-1866), Ralph Waldo Emerson (1803-1882).
Ralph Waldo
Emerson có nhiều lời tuyên bố hết sức nảy lửa, mà nơi đây tôi không muốn
trình bày lại tất cả.
Ngày 18
tháng 3, 1838, ông ghi trong Nhật ký như sau: «Tôi rất tiếc là trong
những bài giảng thuyết gần đây, tôi đã không nói cho rõ ràng, đích xác,
về sự sai lầm lớn lao mà xã hội hiện đại mắc phải về phương diện tôn
giáo, và đã không nói rõ rằng con người chỉ đạt tới an bình, tới uy dũng
khi nào đặt được niềm tin vào bản thể siêu linh của mình, thay vì tin
vào Thiên Chúa giáo lịch sử, công truyền. Tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo
ngày nay là một sự mất tin tưởng vào con người. Họ coi đấng KiTô là một
Vì Chúa chứ không phải là một Người Anh. Chúa KiTô giảng dạy về sự cao
cả con người, nhưng chúng ta chỉ nghe thấy sự cao cả của Chúa KiTô.»
[7]
Những giáo
phái thuộc phong trào này gồm có:
1.- Divine Science Church.
2.- Unity (The Unity School of
Christianity).
3.- Practical Christianity.
5.- Liveable Christianity.
6.- Home of truth.
7.- The Church of the Higher life.
8.- Transcendentalism
9.- Spiritualism.
10.- Theosophy
11.- Christian Science v.v...
Tuy khác
nhau về tiểu tiết nhưng tư tưởng đại cương thì tương đồng.
Hiến chương
của Liên Minh Tân Tư Tưởng, soạn năm 1916, ghi rõ như sau:
Phong trào
Tân Tư Tưởng có mục đích dạy rằng Đấng Tối Cao là Duy nhất toàn năng;
con người có Thiên tính, và có những khả năng vô biên vô tận, nhờ quyền
năng sáng tạo, tư tưởng xây dựng, và sự tuân theo tiếng nói của Thần
Linh nội tại. Đó chính là Nguồn Cảm Hứng, Quyền Uy, Sức Khỏe, và sự Sung
Túc của chúng ta.
[8]
Phong trào
này rất hoài nghi khi cân nhắc lại dĩ vãng, nhưng hết sức lạc quan cho
tương lai, và tin rằng nhân loại sẽ giải quyết được mọi vấn đề.
[9]
Đi sâu
thêm, ta thấy Phong trào này còn có những chủ trương như sau:
1.- Thượng
đế là Thực thể duy nhất. Thượng đế vì là duy nhất bất khả phân, toàn
năng, toàn trí, ở khắp nơi, nên chúng ta không có cách nào tách biệt
khỏi Ngài, dù bằng Thần, bằng hồn hay bằng xác (đó là chủ trương của
phái Divine Science và là phát ngôn của Malinda Cramer). Nhưng cũng có
nhiều người ôn hòa hơn chỉ chủ trương Thượng đế vừa nội tại vừa siêu
việt quần sinh. Đó là chủ trương của Henry Wood và của Horatio Dresser.
2.- Con
người phải tự tin vào chính mình, cứu rỗi lấy mình, không cần qua trung
gian giáo hội.
3.- Con
người có căn cốt thần minh, khác hẳn với chủ trương của các Giáo hội
Công giáo, hay Tin Lành, vì các giáo đoàn này tuy cho rằng con người đã
được tạo dựng nên giống ảnh tượng Thiên Chúa, nhưng không hề được thông
phần bản tính Thần Linh của Thiên Chúa. Emerson phân biệt hai thứ con
người trong một con người: Con người căn cốt (essential man), và con
người phù sinh (existential man). Y thức như thế, các tôn giáo Á Đông
cũng thường phân biệt nơi con người, Chân tâm, và Vọng tâm; Căn bản Niết
Bàn, và Căn Bản sinh tử. (Xem bài bàn về Kinh Bát Nhã của tác giả, trong
Đất Nước tôi số 11, tr. 8- 10)
4.- Không
chấp nhận có hỏa ngục; không chấp nhận có người sinh ra lại có thể bị
tiền định xuống hỏa hào như chủ trương của Calvin. Nhưng mọi người ai
nấy đều sẽ được cứu rỗi.
5.- Họ có
khuynh hướng coi Thượng đế như là một Nguyên Lý, một Định Luật, tuy họ
vẫn còn dùng những danh xưng như Thần Trí (Divine Mind), như Vô Lượng
Trí (Universal Mind).
6.- Họ tin
rằng Thượng đế tiềm ẩn trong lòng vạn hữu, hoạt động trong lòng sâu vạn
hữu.
7.- Họ phân
biệt Chúa Jesus, với Chúa Kitô. Kitô, hay Nguyên Lý Kitô là Thượng đế,
là Bản thể nội tại của mỗi một người. Còn chúa Jesus chỉ là một vị tiên
phong, đã sớm nhận thức ra được rằng con người có Thiên tính.
8.- Vì họ
tin rằng Thượng đế là Tất cả, là mọi sự trong mọi người, mọi vật, và
ngài là toàn thiện, nên đối với họ, Ác không có thực thể, cũng như Bệnh
tật không có thực thể. Chúng sinh ra là do nhận định sai lầm của con
người, sự ngu dốt của con người đã không nhận định ra được chân bản thể
của mình, và những định luật tự nhiên chi phối đời sống con người.
9.- Họ đòi
chứng nghiệm, kiểm điểm những giáo lý, mhững lý thuyết ngay vào nơi bản
thân họ, chứ không chịu tin suông, nói suông.
10.- Đối
với họ, cũng như đối với Carl Jung, quan niệm Thượng đế hữu ngã, là một
quan điểm của Âu Châu (Western archetype). Quan niệm Thượng đế vô ngã
mới là quan điểm phổ quát (Universal archetype).
11.- Họ chủ
trương «nhân chi sơ, tính bản thiện», và không chấp nhận quan niệm cho
rằng con người sinh ra có khuynh hướng tự nhiên làm ác. Tương lai con
người, số phận con người sẽ tùy thuộc vào sự hiểu biết của con người về
bản thể mình, và sự biết áp dụng các định luật tâm linh.
12.- Họ tin
rằng con người có khả năng chữa lành bệnh tật.
13.- Họ gần
gũi với Thiền Học Phật giáo và với Vedanta hơn là với Thiên Chúa giáo.
Tất cả
những nhận định trên đã được Judah, J. Stillson toát lược lại trong sách
của ông nhan đề là The History and Philosophy of the Metaphysical
Movements in America nơi phần Dẫn Nhập (Introduction). Sách
dày 317 trang, The Westminster Press, Philadelphia xuất bản năm 1967.
Có một điều
lạ là có những giáo phái Tin Lành tiên tiến ngày nay cũng chấp nhận phần
lớn những tư tưởng trên hoặc là đưa ra những quan niệm tương tự.
John
Dillinberger và Claude Welch trong quyển Protestant Christianity
của các ông viết năm 1954, do Charles Scribner's Sons, New York xuất bản
cho thấy rằng Giáo Phái Tin Lành Tự Do cũng chủ trương:
1.- Thượng
đế nội tại trong lòng vạn hữu.
2.- Vì tin
có Thượng đế hoạt động trong lòng sâu vạn hữu, nên cái gì cũng là phép
lạ đối với họ; bất kỳ sự kiện gì dù tầm thường mấy cũng đã là phép lạ.
3.- Con
người có giá trị, chứ không phải là thứ con người sa đọa. Thành thử, họ
cũng chẳng còn chấp nhận Tội Tổ Tông.
4.- Chúa
Jesus đối với họ chẳng qua cũng chỉ là một con người đã trở nên siêu
việt vì linh cảm thấy có Thượng đế ở trong lòng.
5.- Sự cứu
rỗi được coi như là một sự bắt chước đời sống của chúa Jesus, vì Ngài đã
cảm thấy một cách mãnh liệt có Thượng đế ở trong lòng mình, và đã sống
thuận theo Thiên ý...
6.- Chủ
trương họ có thể toát lược bằng khẩu hiệu: «Một Thượng đế không thịnh nộ
lôi đình đưa nhân loại không vương tội lệ, vào nước Trời không qua sự
Phán xét, nhờ sự trợ giúp của Chúa Jesus nhưng không cần đến Thánh giá.»
Về phía
Thiên Chúa Giáo, thì gần đây Linh Mục dòng tên, Teilhard de Chardin cũng
chủ trương đại khái rằng đấng Christ vốn hoạt động trong lòng vũ trụ, và
nhân loại sẽ tiến hóa tới điểm Omega, tức là sẽ kết hợp với Thượng đế.
Những tư tưởng mới lạ này, mới đầu bị Giáo Hội đả kích hết sức, nhưng
sau Vatican 2, thì Teilhard de Chardin lại được coi như là một người con
lỗi lạc của Giáo Hội.
Có điều lạ
là các khoa học gia bắt đầu cũng đóng góp, và bắt đầu la lên rằng mhững
khám phá khoa học càng ngày càng thấy phù hợp với cái nhìn của các bậc
đại giác Phương Đông. Tiến sĩ Fritjof Capra, tác giả cuốn The Tao of
Physics, là một trong số đó.
Amaury de
Riencourt, một cây bút sáng giá, tác giả quyển The Eye of Shiva,
Eastern Mysticism and Science, đã viết đại khái rằng: Thượng đế
chẳng có chết như Nietszche đã chủ trương, nhưng Thượng đế Công giáo đã
đổi chỗ ở từ tầng trời xa thẳm, và từ dĩ vãng của Thánh kinh để vào ngự
trong bản thể con người. Thượng đế của Tây Phương đã vào ngự trong lòng
con người, nơi mà Ngài vốn cư ngụ, theo hiền thánh Đông Phương. Niềm tin
về Thượng đế siêu không gian và thời gian, đã trở thành một niềm tin vào
Thượng đế hiện tiền, vô thời bất tại, trong lòng sâu vạn hữu.
Nhân loại
ngày nay đang tiến về chỗ Đông Tây gặp gỡ, đang đi đến chỗ so sánh, và
đánh giá các tôn giáo, các học thuyết. Hơn nữa chắc chắn rằng con người
đã trưởng thành. Và trước những sự biến chuyển của lịch sử, trước những
tiến bộ của khoa học, trước sự giao thoa các trào lưu tư tưởng giữa Đông
và Tây, chắc chắn rằng con người không thể không có sự thay đổi. Cái
thay đổi chắn chắn trước sau sẽ xảy ra. Đó là chuyện dĩ nhiên. Nhưng
thay đổi ra sao, nhanh chậm ra sao, nhiều ít ra sao, thì cái đó lại là
một sự huyền nhiệm của lịch sử. Có điều là nhân loại bao giờ cũng tiến
dần về Chân, Thiện, Mỹ. Hình thức đạo giáo có thể thay, nhưng tinh thần
đạo giáo chắc chắn sẽ mãi mãi sống động, và càng ngày càng lớn mạnh
trong lòng mọi người.
CHÚ THÍCH
Kenneth Scott, A History of Christianity,Harper & Row,
Publishers, New York, Evanston & London, 1953, pp. 717- 718.
Tiên thánh, hậu thánh, kỳ quĩ nhất dã. Mạnh tử, Ly lâu chương
cú hạ.
ESSE EST DEUS...L'être est Dieu...Dieu donc être, c'est la même chose.
Il est le pur Un, sans adjonction, ne fut- ce qu'en pensée, de quelque
pluralité ou distinction que ce soit. Dieu n'est ni ceci, ni cela, comme
ces choses multiples: DIEU EST UN. (Cf. R. Otto, Mystique d'Orient et
Mystique d'Occident,Payot Paris, 1951, pp. 22- 24)
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9
10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|