Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 14
Từ trước đến
nay, chúng ta toàn bàn về lý thuyết, về phương pháp tu Chân chứng Thánh.
Chương này sẽ đưa ra ít nhiều tiêu chuẩn để đoán định thế nào là Thánh
Nhân, Chân Nhân. Nó cũng có mục đích bổ sung cho chương Con đường giải
thoát trên đây.
Trước hết, tôi
hiểu chữ THÁNH một cách rộng rãi hơn, siêu tuyệt hơn chữ 'thánh' mà dân
gian thường hiểu. Đối với tôi, thánh là những người đã:
– đạt tới
THIÊN TÂM.
– đạt tới
TRUNG TÂM ĐIỂM hằng cửu của vũ trụ và của lòng người.
– ĐẮC NHẤT,
ĐẮC THIÊN, ĐẮC ĐẠO.
– ĐÁO BỈ NGẠN;
NHẬP NIẾT BÀN.
Tôi cũng
thường hay gọi các vị Thánh, vị Tiên, vị Phật là những người sống 'huyền
đồng, huyền hóa với đất trời', mà Âu Châu thường gọi là 'MYSTICS'.
– Tùy đạo
giáo, mà THÁNH NHÂN có thể được gọi là Phật, là Chúa, là Tiên, là Chân
Nhân, là ĐẠI GIÁC, ĐẠI NGỘ.
Tôi nảy ra ý
tưởng viết chương này, khi đọc quyển Cosmic Consciousness của
Richard Maurice Bucke, M.D., xuất bản lần thứ 1, năm 1901, và lần thứ 24
năm 1967. Lần xuất bản cuối cùng do New York, E. P. Dutton and Company,
Inc. phát hành.
Bác sĩ Bucke,
sinh năm 1837, là con một vị mục sư, gốc Anh quốc. Ông sinh ra được một
năm thì gia đình di cư sang Canada. Cuộc đời thơ ấu và niên thiếu của
ông hết sức là cơ cực. Khi ông lên bảy tuổi, mẹ chết; 17 tuổi, mẹ ghẻ
chết. Sau đó ông bỏ nhà nhà đi lang thang, là đủ nghề cực nhọc, như làm
vườn, làm phu hỏa xa, làm nghề đi tìm vàng v.v... Năm 20 tuổi, đi lên
núi tìm vàng, bị lạnh, suýt chết cóng. Tuy được cứu sống, nhưng bị cưa
hoàn toàn một chân, và một phần chân còn lại. ông khổ công học tập, và
nhờ một số tiền do mẹ để lại, ông vào trường thuốc năm 21 tuổi, và năm
26 đỗ bằng bác sĩ y khoa. Tuy là một bác sĩ, nhưng ông lại rất thích
thơ, thích triết. Ông tự học tiếng Pháp, tiếng Đức, để đọc các triết gia
Âu Châu. Một buổi tối mùa xuân, 1872, khi ấy ông 35 tuổi, ông cùng 2
người bạn họp nhau đọc thơ của Wordsworth, Shelly, Keats, Browning, và
Whitman. Nửa đêm, khi chia tay, ông đánh xe ngựa ra về. Trên đường
trường, khi còn đang say sưa với những lời thơ, bỗng nhiên ông như có
một làn mây màu lửa bao quanh. Thoạt tiên ông tưởng là có cháy ở đâu đây
trong tỉnh, nhưng sau mới biết là ánh sáng đó tự trong mình ông phát ra.
Ông tả rằng ánh vinh quang của Brahman đó tuy là như điện xẹt trong giây
phút, nhưng đã soi sáng cho suốt đời ông sau này. Một chút hồng ân của
Thượng đế khi ấy đủ làm cho đời ông từ đó như vẫn hưởng được dư vị của
thiên đường. Sau đó ông bắt đầu viết sách để mô tả lại sự giác ngộ của
ông. Quyển sách đầu tiên của ông ra đời năm 1877 nhan đề là Man's
moral nature (G.P.Putmam & Sons, New York); quyển thứ hai chính là
quyển Cosmic Consciousness, ra đời năm năm 1901. Đêm ngày 19
tháng Hai, 1902, ông cùng vợ đi ăn tiệc ở nhà bè bạn về, vì đêm đó trời
đầy sao, nên trước khi đi ngủ ông ra ngoài hiên ngắm sao một lần nữa.
ông trượt chân vì một tảng đá băng, và ngã đập đầu vào hiên nhà, chết
lập tức (Xem chương đầu sách: The man and the book).
Quyển sách của
ông đã được Triết gia William James, giáo sư triết học Đại Học Harvard,
và P. D. Ouspensky, một triết gia Nga Sô, hết sức ca ngợi.
Đọc sách của
ông, biết ngay ông cũng là một bậc đại giác, đại ngộ. ông dựa vào chứng
nghiệm tâm linh của mình, dựa vào những dữ kiện lịch sử, khoa học, tâm
lý, đạo giáo để tìm cho ra những nét chính yếu, để có thể minh định được
ai là những người đã thành chân chứng thánh. Tôi mượn sách này tại thư
viện Huntington Beach, dưới ký hiệu 126 BUC. Đó là một cuốn sách nên
đọc, cho nên nhân tiện, tôi giới thiệu nó với các độc giả.
Sau đây tôi
toát lược tư tưởng của Bucke, và sẽ góp ý với Bucke.
– Tuy cha ông
là mục sư, nhưng từ bé, ông không chấp nhận giáo lý của Giáo Hội. ông
coi Chúa Jesus chỉ là một người giác ngộ, cao cả. ông không tin con
người có thể bị phạt đời đời (tr. 8).
– Ông cho rằng
trần gian này phải trải qua 3 cuộc cách mạng:
Trước hết là
Cách Mạng
Kỹ Thuật.
Thứ đến là
Cách Mạng
Xã Hội để quân bình hóa kẻ giàu, người nghèo.
Sau hết là
cuộc Cách Mạng Tâm Linh, khiến con người từ thân phận một con người phàm
tục, sẽ đạt Thiên tâm mà ông gọi là Cosmic Consciousness, để thành Chân,
chứng Thánh (tr. 4).
Thánh đường,
thánh thất, hàng giáo phẩm sau này sẽ không còn là cần thiết, con người
sẽ trực tiếp tiếp xúc với Thượng đế bằng tâm linh mình (tr. 5).
Richard M.
Bucke nhận định rằng con người có ba phần.
– Con người
cảm giác, tri giác, mà ông gọi là Simple Consciousness.
– Con người
tâm tư mà ông gọi là Tư Tâm (Self Consciousness).
– Con người
siêu tuyệt, có linh tri, linh giác mà ông gọi là
Vũ Trụ Tâm
(Cosmic Consciousness) (Xem sách trích dẫn trang 1– 18; nhất là trang 1–
2).
Theo ông, Vũ
Trụ Tâm, nói theo từ ngữ Công Giáo, đó chính là Đấng Cứu Thế, đấng
Christ nội tại trong mỗi con người (sách trích dẫn tr. 6).
– Đối với ông,
Chúa, Phật, hay Thánh, hay Tiên là những người đã đạt tới Vũ Trụ Tâm nơi
con người, hay đã có Thượng Đế sống động, linh hoạt trong tâm hoàn mình
(tr. 147).
– Bucke cho
rằng Vũ Trụ Tâm, đối với Chúa Jesus, là 'Nước Chúa', 'Nước Trời'
(kingdom of God); đối với Paul, đó là Đấng Christ nội tại, hay Thần
Chúa; Dante gọi đó là Béatrice (Making happy = Nguồn hạnh phúc); Balzac
gọi là «Specialism»
(Toàn giác)
; Phật gọi đó là Niết Bàn (Nirvana).
– Con người có
thể từ Tư tâm mà đạt tới Thiên tâm, nhưng đó là một sự kiện hết sức hãn
hữu. Theo ông, từ khi có lịch sử loài người mới có khoảng 40 hay 50 chục
người, ví dụ như Moses, Lão Tử, Phật Thích Ca,, Socrates, Jesus, Paul,
Plotinus, Mohammed, Dante, John Yepes (John of the Cross) Spinoza v.v...
(xem tr. 81)
Như vậy, họa
hoằn mới có một thánh nhân ra đời. Trong nhiều triệu người sống ở gian
trần này, may ra mới có một người thành chân chứng thánh.
Và theo thống
kê của ông thì từ Đức Phật Thích Ca đến Dante, là 1800 năm chỉ có 5 vị
thành thánh, nghĩa là trung bình 360 năm mới được một người. Từ Dante
tới nay là 600 năm, có khoảng 8 người; trung bình cứ 75 năm mới được 1
người (Xem tr. 67).
Ông Bucke còn
cho rằng khi con người đạt Thiên Tâm sẽ biến thể, biến dạng
(transfiguration), và sẽ siêu phàm nhập thánh, siêu nhân hợp Thiên
(transhumanization, theo từ ngữ Dante) (Xem tr. 77). Sau khi khảo sát
từng đời sống của những vị đã thành Chân, chứng Thánh, ông Bucke đã tìm
ra được những dữ kiện hết sức độc đáo như sau:
– Muốn thành
chân chứng thánh con người cần phải
«giác ngộ» mà ông gọi
là Illumination. Sự giác ngộ này thường xảy ra trung bình vào
khoảng 34–36 tuổi.
Cũng có những
trường hợp sớm hơn hay muộn hơn, nhưng hãn hữu. Ví dụ, Chúa Jesus, Paul,
Phật Thích Ca, Dante v.v... đều giác ngộ khi 35 tuổi.
Socrates,
Mohammed giác ngộ khi 39 tuổi (xem đồ bản tr.81).
– Thường giác
ngộ vào những mùa Xuân, Hạ (xem tr. 81).
– Giác ngộ
thường kèm theo một cảm giác phát quang trong đầu hay trước mắt.
– Nữ giới cũng
đã có người đạt Thiên tâm nhưng ít hơn nam giới.
– Những người
giác ngộ thường là những người nhiệt tâm cầu đạo.
– Sự giác ngộ
đến một cách hết sức thình lình và bất ngờ.
– Sau khi giác
ngộ con người sẽ được chuyển hóa: Sống cao siêu hơn, khinh khoát hơn,
hạnh phúc hơn; hết còn sợ hãi tội khiên và chết chóc.
– Cảm thấy
rằng mình sẽ sống vĩnh cửu cùng trời đất.
– Có thể tỏa
ra một sức hấp dẫn phi thường.
– Sau khi giác
ngộ, sẽ sống hết sức hoạt động, phong phú và có thể sẽ bắt đầu sáng tác
rất nhiều. (xem tr, 78- 79).
– Những người
sau khi đã giác ngộ đều giống nhau khó mà phân cao thấp, và những lời
giảng giáo hầu như là giống nhau. ông viện dẫn lời Victor Hugo:
«Phân biệt ai hơn ai kém,
chọn ai hơn ai, thực là không thể được.»
Và lời của
Arthur Lillie: «Phật hay
Chúa Kitô cũng dạy một bài.»
Sau đó, tác
giả dùng một phần lớn cuốn sách để trình bày đời sống của từng vị đã
thành chân chứng thánh, trường hợp giác ngộ, tư tưởng, khẩu khí v.v...
Theo ý tôi,
thì quyển sách trình bày tư tưởng một cách vững vàng, khoa học.
Tiện đây, tôi
góp thêm ít nhiều suy tư về từng vấn đề.
– Tác giả nhìn
thấy nơi con người có Simple consciousness Self Consciousness, Cosmic
Conscious- ness (sách trích dẫn tr, 1- 3). Danh từ tuy khó hiểu nhưng
vẫn không ngoài ba bình diện nơi một con người: Đòa, Nhân và Thiên,
(Xác, Hồn, Thần).
Đã từ mấy chục
năm nay, tôi đã nhận thấy rằng:
Nếu không chấp
nhận con người có ba bình diện: Xác, Hồn, Thần, thì chúng ta sẽ bế tắc,
từ tư tưởng cho đến đời sống, cho đến tương lai. Chúng ta sẽ không thấy
cùng đích con người, không bao giờ tìm được chân hạnh phúc.
– Tác giả cho
rằng con người có thể tiến vào được Vũ Trụ Tâm.
Tôi hết sức
đồng ý. Năm 1968, khi viết quyển Lecomte du Noüy và học thuyết Viễn
Đích tôi đã viết như sau:
«Mở rộng tầm
mắt bao quát vạn vật và không gian thời gian, Lecomte du Noüy cho rằng
vũ trụ có hai chiều, hai hướng, biến dịch, tiến hóa.
«Một chiều
tiến hóa theo các định luật vật chất một ngày một tiến tới bất động, ù
lì, lạnh lẽo, hỗn loạn.
«Một chiều
tiến hóa theo các định luật tinh thần một ngày một tiến tới tinh vi, kỳ
ảo, linh động sáng tươi, đẹp đẽ, trật tự, hòa hợp. Và khi tinh thần tiến
tới chỗ tinh hoa tuyệt diệu, thì vật chất sẽ tiến tới chỗ hỗn loạn và
triệt tiêu.
«Ta thấy nó
giống với các định luật "Dương tiêu Âm trưởng", và "Âm tiêu Dương
trưởng" của Dịch Kinh, cũng như hai chiều hướng tinh thần, vật chất,
tiên thiên hậu thiên mà các tiên nho thường đề cập tới khi vẽ các đồ bản
Hà Đồ, Lạc Thư cách đây mấy nghìn năm.
«Những vấn đề
triết học, siêu hình, đạo giáo, và định mệnh con người mà Lecomte du
Nouy đề cập tới trong các tác phẩm của ông, có thể hiểu được dễ dàng,
nếu ta đem lồng chúng vào trào lưu tư tưởng của các hiền thánh bốn
phương xưa nay.
«Thực vậy,
song song với các đạo giáo các triết thuyết hiện hành, còn có một thứ
triết thuyết và đạo giáo của các nhà huyền học tứ phương.
«Về triết lý,
các ngài chủ trương con người gồm đủ tam tài thiên, địa, nhân. Nói theo
từ ngữ triết học Âu Châu, con người gồm có: Xác (địa), Tâm (Nhân), Thần
(Thiên).
«Đó là quan
niệm Tam Tài mà chính Thánh Kinh cũng nhiều lần đề cập tới (I Thess.
5:23. Mat.22:37)
«Theo nhãn
quan trên, thì con người có ba thứ đạo, tức là ba thứ bổn phận:
«- VẬT ĐẠO: lo
cho xác thân được khang kiện, no ấm; chế ngự được ngoại cảnh.
«- NHÂN ĐẠO:
lo cho tâm hồn được khinh khoát, thoát vòng kiềm tỏa của dục tình, ăn ở
xứng đáng với danh nghĩa con người, tiếp nhân xử kỷ cho phải phép.
«- THIÊN ĐẠO:
vươn lên tới bình diện tâm linh, tâm thần, sống phối hợp cùng Thượng đế,
bỏ lốt "phàm tâm", thể hiện "Thiên tâm". Đó là giai đoạn "tâm tử, thần
hoạt" của các nhà huyền học Lão giáo, hay "nhân dục tận, Thiên lý hiện"
của các nhà huyền học Nho giáo.
Đó là luận
điệu của các nhà huyền học muôn phương, và giở thánh thư thánh Paulô, ta
cũng thấy đầy tràn âm hưởng tương tự (Rom. 8:14. I Cor. 7:10. Gal. 4:6-
7; 5:18; 11:20).
«Theo nhãn
quan này, thì con người sinh ra chưa phải là con người thực; còn phải
tốn công mài dũa, tu luyện lâu lai mới thành người; lại Đi từ con người
đến địa vị thần thánh cũng thực là nhiêu khê vất vả. Sinh ra là phàm
nhân, con người phải dùng đời mình để cố gắng trở nên hiền thánh. Như
vậy thì càng về chiều, càng về già, thời gian càng trở nên quí báu, quan
trọng, và con người không bao giờ được ngừng nghỉ, phải tiến bước mãi để
đạt đích hoàn thiện. Con người chỉ trở nên bất tử khi đạt Thiên địa tâm.
Các hình thức bên ngoài, các giáo lý, mới đầu rất cần thiết vì nó hỗ trợ
con người trong công trình đi tìm chân lý, nhưng khi đã nhìn nhận thấy
con đường nội tâm, và đã biết phương pháp suy tư, định tâm, định trí bên
trong, thì các phương thức bên ngoài trở thành tùy thuộc. Tất cả các
phương thức, chỉ có giá trị ở chỗ giúp đỡ con người tìm ra được CHÂN
THẦN, sống cao siêu, phối hợp được cùng Thượng đế, ngay từ khi còn ở
gian trần này. Khi đã đạt đích, thì mọi sự không còn cần yếu nữa.
«Con người
phải chứng nghiệm được những giai đoạn mình đã băng qua, những kết quả
đã thâu lượm được, ngay từ khi còn ở trần hoàn; cho nên mới đầu thì phải
nhờ người hướng dẫn, sau dần dà phải tự mình điều khiển, lèo lái lấy
cuộc đời mình, theo đúng đường lối, gương tích của các bậc thánh hiền
tiền bối...
«Định mạng mỗi
cá nhân và định mạng nhân quần chỉ là một. Định mạng ấy rất cao siêu,
sang cả. Tuy nó đã được tiền định do Thiên ý, nhưng sự thực hiện định
mạng này hoàn toàn lệ thuộc vào thời gian, tuổi tác cá nhân và nhân
loại, vào tầm nhìn lối nghĩ, trình độ hiểu biết của cá nhân và nhân
loại, cũng như vào sự cố gắng và sự tha thiết tìm cầu. Vì thế nó cần có
một tiến trình vô hạn để thực hiện.»
– Bác sĩ Bucke
cho rằng thành Chân, chứng Thánh là một chuyện rất sức hi hữu. Trước
kia, cứ ba trăm năm mới được một người. Trong khoảng năm trăm năm gần
đây, ngót 100 năm mới lại có một người. ông xếp Chúa, Phật, Lão tử vào
trong 1 bảng thành chân chứng thánh như mọi người khác.
Thực ra không
ai phủ nhận được rằng Thành Chân Chứng Thánh là một chuyện hết sức hi
hữu. Chúa Jesus cũng đã nói: «Kẻ
gọi thì nhiều, kẻ chọn thì ít.»
(Mat. 22: 14). Đông phương cũng thường nói:
«Vào đạo như lông trâu;
đắc đạo như sừng thỏ».
Nhưng thực sự không đến nỗi ít như vậy. Sở dĩ tác giả thấy quá ít,
chỉ vì tác giả không đi sâu vào từng đạo giáo mà tìm. Nguyên tìm trong
các thư mục Âu Châu bàn về các bậc Chân Nhân (Mystics), ta cũng đã thấy
có khá nhiều Chân Nhân thuộc Thiên Chúa giáo, Hồi Giáo v.v...ấy là ta
còn chưa đi vào các Mật tông, Mật giáo Âu Châu, như Kabbalah (Do Thái
giáo), Free Masonry, Rosi-crucians, Alchemy, hoặc Huyền học Hồi giáo,
như Sufism (Bạch Y). ấy là ta cũng chưa khui ra các vị thánh nhân trong
Bà La Môn, như Gandhi, như Ramakrishna, như Sri Aurobindo v.v..., chưa
tìm được đầy đủ danh sách các vị Thiền Sư Trung Hoa đắc đạo, như Bồ Đề
Đạt Ma, Tuệ Khả, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng, Lâm Tế, Bách Trượng, Mã Tổ, Qui
Sơn, Vân Môn, hoặc các vị Phật, các vị Bồ Tát, như Ma ha Ca Diếp, Vô
Trước, Thế Thân, Long Thọ, hay các vị thánh hiền Khổng giáo, mà Nho gia
gọi chung là các vị đã đạt đạo Trung Dung, như Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang,
Văn, Chu Công, Khổng tử, Mạnh Tử, Chu Liêm Khê, Trình Di, Trình Hạo
v.v... và các vị Chân tiên trong đạo Lão như Quảng Thành Tử, Lão Tử,
Trang Tử, Liệt tử, Trương Tam Phong, Hán Chung Li, Lã Đồng Tân, Bạch
Ngọc Thiềm, Vương Trùng Dương, Khưu Xử Cơ, v.v...
Có một điều
chúng ta dễ dàng nhận xét thấy được rằng, từ hai thế kỷ nay, khi mà Đông
Tây gặp gỡ nhau, trao đổi nhau về văn hóa, khi mà các thánh thư, thánh
truyện Đông Tây đã được đăng tải, khi mà chúng ta có nhiều phương tiện,
có nhiều sách vở hơn, nhiều thư viện hơn, thì số người Thành Chân, chứng
Thánh càng ngày càng trở nên đông đảo hơn. Nhưng tuy gọi là đông đảo,
nhưng cứ nhiều triệu người sinh ra, mới có một đôi người thành chân,
chứng thánh.
– Bucke cho
rằng Chúa Jesus cũng chỉ là một con người giác ngộ.
Về điểm này,
chúng ta cũng nên nhận định rằng dưới con mắt tín đồ, thì Phật, hay
Chúa, hay Lão, đó chính là những vị Tiên, Phật, Chúa giáng trần, tuyệt
luân, siêu việt.
Nhưng khi xem
thái độ các Ngài, thì thấy các Ngài hết sức khiêm cung. Chúa Jesus tuy
xưng mình là một với Chúa Cha, là Con Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng
đã dùng lời Kinh Thánh cũ, long trọng tuyên xưng mọi người đều là Chúa,
là Thần (John 10:34- 35); tuy Ngài làm nhiều phép lạ, nhưng đồng thời
vẫn long trọng nói rằng, nếu ai tin vào những khả năng con người, thì
cũng có thể làm được những phép lạ, cũng có thể đảo hải di sơn (Luke
17:6. Marc 11:23. Mat. 17:20; 21:21); chẳng những làm được phép lạ như
Ngài, mà còn hơn Ngài nữa (John 14:12).
Ngài cũng
tuyên xưng: Chúa Cha là Chân Chúa duy nhất, còn Ngài chỉ là sứ giả của
Chúa Cha (John 17:3); Chúa Cha lớn hơn Ngài (John 14: 28).
Phật cũng
tuyên xưng: «Ta là Phật đã thành, các bạn là Phật sẽ thành.»
Ngài chỉ nhận
«mình là ngón tay chỉ trăng»,
và khuyên mọi người hãy tự thắp đuốc mà soi cho chính mìmh. Thực là
khiêm cung vô hạn.
Còn như đối
với các triết gia, các bậc giác ngộ, thì các Ngài chỉ là những bậc giác
ngộ trước chúng ta mà thôi.
William Blake
(1757- 1827) nói với Robinson: «Chúa Jesus Christ, là Thượng đế duy
nhất, và tôi cũng vậy, và bạn cũng vậy.»
Daniel Rope,
khi phê bình quyển Định Mệnh con người (L'Homme et sa destinée)
của Lecomte du Noüy, đã nhận định rằng, đối với Lecomte du Noüy, Chúa
Jésus có lẽ chỉ là một tấm gương hoàn thiện nhân loại hơn là Thiên Chúa
giáng trần.
Ngày 18 tháng
3, 1838, Ralph Waldo Emerson, đã viết trong Nhật ký (Journal) của ông
như sau: «Tôi tiếc rằng trong loạt bài diễn văn của tôi mới đây, tôi đã
không nói rành rẽ và vạch ra cái điều sai lầm lớn của xã hội hiện nay
của chúng ta về phương diện tôn giáo. Chúng ta sẽ không bao giờ đạt tới
bình an, tới uy dũng, cho đến khi nào đặt được niềm tin vào cơ cấu tâm
linh của con người, thay vì vào Thiên Chúa Giáo của lịch sử. Cái niềm
tin vào Thiên Chúa giáo mà nhiều người đang có là một sự 'bất tín' về
con người. Họ coi đấng Kitô như là một Vị Chúa thay vì như là một Người
Anh. Đấng Kitô rao giảng sự cao cả của con người, nhưng chúng ta chỉ
nghe thấy sự cao cả của đấng Kitô.»
Trong bức thư
đề ngày 24- 7- 1966, Đức Hồng Y Ottaviani gửi cho các Chủ Tịch Giám mục
đoàn, Ngài đã có đề cập đến những dư luận
«kỳ dị và nguy hiểm»
đang làm xao xuyến giáo dân, ví dụ... có người coi Chúa Cứu Thế như là
một người thường «đã dần dà nhận ra mình là Con Thiên Chúa»; cũng như sự
Chúa sinh do Đức Mẹ đồng trinh, những phép lạ của Ngài, và sự Ngài sống
lại, tuy vẫn được «chấp nhận
trên từ ngữ», nhưng sự thực
đã được coi là những sự kiện tự nhiên...
Nhìn sang phía
trời Đông, ta cũng thấy Cát Hồng nhận định về Lão tử như sau:
«Các học giả có óc chất hẹp
hòi đã coi Lão Tử như là một người Trời siêu xuất quần sinh, và khuyên
các thế hệ tương lai bắt chước Ngài; nhưng làm như thế tức là ngăn cản
không cho mọi người tin được rằng có thể nhờ học hành mà tìm ra được bí
quyết trường sinh bất tử. Thực vậy, nếu Lão tử chỉ là một hiền nhân đã
đắc đạo, thì mọi người phải hết sức để theo gương, bắt chước Ngài; nhưng
nếu ta nói rằng: đó là một nhân vật đặc biệt, có thiên tính, thì ta
không thể nào bắt chước Ngài được nữa.»
– Bucke cho
rằng giác ngộ thường vào khoảng 34-36 tuổi.
Theo ông, Chúa
Jesus sinh năm – 4, trước Công nguyên, giác ngộ khoảng 35, 36 tuổi, chết
vào năm 35 Công nguyên (xem sách trích dẫn, tr.97- 98).
Thực ra cho
đến bây giờ quần chúng được dạy dỗ rằng Chúa sinh ra năm 1, ra giảng đạo
năm 30 tuổi, chết năm 33 tuổi.
Nhưng khảo sát
lại lịch sử, thì ta thấy Giáo Hội Công giáo, vào khoảng giữa thế kỷ thế
VI, đã dựa vào một sự tính toán sai lầm của tu sĩ Dyonisius the Dwarf,
nên mới dạy rằng Chúa sinh năm 1 (Sách trích dẫn, tr.98, chú thích *).
Cho nên, Giáo Hoàng Gregory 1 (540- 604), khi cải lịch đã lấy năm La Mã
754 làm năm 1, vì tưởng Chúa sinh năm ấy. Ngày nay, các học giả thế giới
đều biết đó là kết quả của một sự tính lầm. Các tác giả Bible de
Jerusalem, một bản văn Thánh Kinh mà Công Giáo chấp nhận, nơi cuối
sách đã ghi Chúa Jesus sinh khoảng năm – 7, hay – 6 trước Công Nguyên.
Thánh sử Luke ghi Chúa ra giảng đạo
«khoảng năm 30 tuổi»
(Luke 3:1- 23). 3 thánh sử Matthiew, Marc, Luke chép Chúa đi giảng đạo
một năm. Theo John, thì khoảng 3 năm. Như vậy Chúa sinh năm nào, chết
năm nào, đi giảng mấy năm cũng không hoàn toàn chính xác.
Cho nên, nếu
Bucke suy toán Chúa giác ngộ năm 35 cuõng có thể chấp nhận,
Từ năm 1956,
tôi cũng đã tìm ra được định luật về tuổi tác này. Tôi dựa vào Dịch, và
thấy Dịch bàn về Giác Ngộ nơi quẻ Phục. Dịch cho rằng khi con người giác
ngộ, tức là khi con người tìm thấy được Thiên tâm nơi lòng mình. Nhìn
vào vòng Dịch tiên thiên, nếu ta coi Cấu là lúc sơ sinh, thì Phục sẽ là
giữa cuộc đời. Nếu tính trung bình cuộc sống con người là 70, thì Phục
sẽ là vào khoảng 35. Sánh với Thiên Văn Học Âu Châu, thì quẻ Cấu ứng với
Cung Cự Giải (Cancer), và Phục ứng với cung Ma yết (Capricorn). Người Âu
Châu cho rằng cung Cự Giải là Cửa Người, cung Ma yết là Cửa Thần Minh.
Phục là Tí, là
điểm NHẤT DƯƠNG SINH, nên Tí cũng hàm nghĩa sinh lại, hàm nghĩa phục
sinh, chẳng những cho mặt trời mặt trăng, cho vạn vật, và cũng cho cả
tâm linh con người.
Nên phối hợp
Dịch và Chiêm Tinh học Á và Âu, ta thấy con người sống như là Con Người
cho đến 35 tuổi, sau đó Tâm Linh có thể bừng nở, và từ ấy con người có
thể sống một cuộc sống Thần Linh, huyền hóa với trời đất.
Và như vậy,
con người cũng như một cây, có lúc chỉ sinh lá; muốn sinh hoa, kết trái,
cần phải có một thời gian nào...
Nếu ta coi đó
là một định luật vũ trụ, thì sẽ thấy không ai có thể là Phật, là Thánh
từ khi mới lọt lòng...
Trong quyển
Chân Dung Khổng Tử của tôi, đã xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1987, nơi
Chương VI, tôi đã nhận định về vấn đề này như sau:
«Thế nhân
thường cho rằng đã là Thánh nhân, đã là giáo chủ, thì phải là Thánh nhân
ngay từ trong bụng mẹ, phải có một thai sinh kỳ bí, thoát khỏi hết các
định luật và trật tự chi phối vũ trụ, nhân quần, lại thông minh tuyệt
đối, sinh nhi tri chi, không cần học hỏi suy tư gì, mà đã biết hết mọi
sự trên trời dưới đất, quá khứ vị lai, ngay từ tấm bé.
Nói thế chẳng
khác nào nói rằng có những cây vừa mới mọc đã cao vút từng mây, đã sinh
hoa, kết quả sum sê, hay có những người vừa mới sinh ra đã trưởng thành
ngay không cần cúc dục, cù lao, không cần thời gian, tuổi tác...
Thiết tưởng
muốn tìn hiểu thánh hiền, ta không nên bắt chước đường lối phàm tục đó,
mà phải tìm cho ra những tiêu chuẩn chính xác hướng dẫn sự suy khảo của
chúng ta.
Tuân tử nói:
Quân tử thời nói điều chân thường, hợp lý; tiểu nhân nói điều kỳ quái.
(Vinh nhục VI) (Xem Trần Trọng Kim, Nho giáo tr. 308).
Sách Minh
Triết, thánh thư Công giáo nói:
Ta đây cũng phận hèn như chúng,
Cũng tổ tông xác đất vật hèn,
Cũng từ bụng mẹ thai nên,
Tinh cha huyết mẹ, đôi bên tạo thành.
Cũng mười tháng, mới sinh, mới nở,
Khi lọt lòng cũng thở khí phàm,
Như ai cũng kiếp trần gian,
Mới sinh cũng khóc mà toan chào đời,
Cũng tã lót, cũng thời cúc dục,
Cũng cù lao cực nhọc như ai.
Xưa nay vua cũng như tôi,
Tử sinh một phép, có đời nào đâu?
(Phỏng dịch
Livre de la Sagesse VII, 1:6)...
Mạnh tử viết:
«Phàm những vật đồng loại, thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về
nhân loại, người ta lại nghĩ rằng bản tính chẳng tương tự? Những vị
thánh nhân và chúng ta đều là một loại.» (Mạnh tử, Ly lâu chương cú hạ,
tiết 12).
Khảo về đời
sống và những lời giảng giáo của các vị giáo chủ, ta thấy:
1. Sự khôn
ngoan, thông thái của các Ngài cũng cần phải có đủ thời gian, tuổi tác,
mới phát triển được.
2. Nhiều khi
các ngài cũng phải học hỏi với các bậc tiền bối, trrước khi trở nên minh
giác.
3. Học thuyết
các Ngaøi, tư tưởng các Ngài cũng có nhiều vay mượn ở nơi các học
thuyết, hoặc các luồng tư tưởng đã có từ trước.
4. Các Ngài có
công ở chỗ là làm cho những tư tưởng cũ kỹ trở nên linh động, có thần
lực tác động, lôi cuốn, hoán cải được quần chúng.
Chủ trương
rằng các vị thánh hiền xưa cũng cần phải có thời gian tuổi tác mới phát
huy được trí tuệ và đức độ mình, mới đi đến chỗ giác ngộ, chủ trương
rằng các Ngài cũng phải cố gắng nhiều mới tiến tới địa vị siêu
việt, là một chủ trương hết sức lành mạnh.
– Nó phản ảnh
lại chân thực cuộc đời các Ngài, giúp ta gạt bỏ được hết mọi huyền
thoại.
– Nó hợp với
các định luật tự nhiên.
– Nó cũng
chẳng làm giảm giá trị các Ngài chút nào.
– Nó vạch cho
ta thấy con đường và phương pháp để trở nên hiền thánh.
– Nó phù hợp
với quan niệm của các danh nho, vì Nho gia vốn chủ trương rằng nếu chúng
ta cố gắng tiến hóa, tu trì theo đúng đường lối, thì cũng có thể nên như
vua Nghiêu, vua Thuấn (Cf. Mạnh tử, Ly Lâu chương cú hạ, tiết
28- 32...)
– Nó
cũng phù hợp với những học thuyết tiến háa, thuyết viễn đích mới mẻ
nhất, cho rằng nhân loại sẽ còn tiến hóa lâu dài, để trong một thời gian
còn xa lắc, sẽ tiến tới cực điểm tinh hoa: đó là sống một cuộc đời thần
tiên, phối hợp với Thượng đế. Các Thánh Hiền chẳng qua là những người đã
sớm lãnh hội được định mệnh cao cả của con người và đã thực hiện được
ngay trong đời mình định mệnh sang cả ấy. Như vậy các Ngài chỉ là những
người tiền phong khả kính, soi đường, chỉ lối cho chúng ta noi theo mà
bắt chước để nên giống các Ngài (Xem Nguyễn văn Thọ, Chân Dung Khổng Tử,
tr. 85- 88).
Trong khi bàn
về các quẻ «Dịch Tiên Thiên» tôi đã nhiều lần nói rằng con người trong
nửa đời đầu, sẽ là CON NGƯỜI, sẽ sinh con đẻ cái, sẽ làm mọi nhiệm vụ
trần hoàn. Còn nửa đời sau, bắt đầu từ 34, 35 tuổi, con người sẽ có thể
thành CON TRỜI. Và suy ra, thì NHÂN LOẠI trong tương lai, sẽ có rất
nhiều người trở thành CON TRỜI.
Chính vì vậy
mà trong quyển Lecomte du Noüy và Học Thuyết Viễn Đích, xuất bản
năm 1968, nơi đầu chương IV, tôi đã viết:
Hoàn cầu phục vụ con người,
CON NGƯỜI nay trước, CON TRỜI mai sau.
Nội tâm cố tiến vào sâu,
Cửa trời dần mở. cơ mầu dần hay.
Chớ còn gàng quải đó đây,
Ngoài tuy muôn nước, nhưng nay một nhà,,,,
Thiên sơn vạn thủy băng qua,
Muôn ngươì như một, thái hòa khắp nơi...
Và với viễn
tượng ấy, nơi đầu Chương III, trong sách trên của tôi, tôi đã mượn ý thơ
Plein Ciel của Victor Hugo mà viết như sau:
Thuyền nhân loại hướng về đâu tá?
Thuyền quang hoa băng ngả thần tiên,
Tiến về mai hậu siêu nhiên,
Tiến về đức hạnh, nguyên tuyền tinh hoa.
Ánh khoa học trời xa lóng lánh,
Thuyền quang hoa băng cảnh thần tiên,
Tiến về đẹp đẽ tinh tuyền,
Tiến về mai hậu, về miền muôn sao.
– Bucke nhận
định rằng sự giác ngộ nó đến một cách bất thình lình, không sao mà ngờ
trước được.
Có thể nói đó
là một định luật, tất cả những người đã giác ngộ đều thấy như vậy.
Nho gia xưa đã
dùng hai chữ «Hoạt Tý»
(Cái giờ Tý linh động) để tả sự đến bất kỳ đó.
Thiền tông đã
dùng hai chữ ĐỐN NGỘ.
Chúa Jesus
giác ngộ sau khi chịu phép rửa nơi sông Giorđanô; thánh Paul giác ngộ
khi đang đi lo bắt các người Công giáo trên con đường tới thành Damas;
Phật giác ngộ sau khi ngồi thiền định lâu lai, dưới gốc bồ đề; thiền sư
Nghĩa Hoài giác ngộ khi đang gánh nước mà thùng nước bị bể; Linh Vân đồ
đệ của Qui Sơn, nhân nhìn hoa đào mà giác ngộ; Thủy Lạo hòa thượng, bị
Mã Tổ tống cho một đạp té nhào, hốt nhiên giác ngộ. Thật hết sức kỳ lạ.
Phúc âm khi
viết: Không biết Con Người đến lúc nào và giờ nào (Mat. 24:42-
44; 25:13) cũng là nói lên ý ấy.
Bác sĩ Bucke
cho rằng:
– Giác ngộ
thường kèm theo một cảm giác phát quang trong đầu hay trước mắt.
Bucke tự thuật
đêm phát huệ có thấy phát quang. ông cũng dẫn nhiều chứng tích cho thấy
khi phát huệ thường có hiện tượng phát quang, như trường hợp thánh Paul,
thánh John of the Cross, hay Mohammed v.v...
Những ai trải
qua kinh nghiệm này rồi mới thấy Bucke nói là đúng. Khi giác ngộ, thần
quang trong người như tụ lại trong đầu, hoặc người giác ngộ, phát huệ có
thể thấy như được bao phủ bởi một bởi một làn điện khí...
Một vị La Hán
trong bộ kinh Nikaya, tuyên bố về tâm sự giải thoát: «Tâm tôi bỗng
bừng sáng lên chứng quả giải thoát vô thượng. Đây là thọ thân sau rốt
của tôi, từ đây dứt hết nghiệp tái sinh rồi.» Lúc ấy, con người sẽ
đạt tới trạng thái «soi thấy trong một niệm».
Suzuki viết
trong quyển Thiền Luận: «Khi tâm chuyển ngược lại nếp vận động thường,
thay vì phân tán ra ngoài thì thu nhiếp vào trong đến chỗ nhất như, đó
là bắt đầu thành tựu trạng thái "soi thấy trong một niệm" (nhất tâm kiến
chiếu), vô minh hết tạo tác, và những cảm nhiễm (lậu) hết hoành hành.
Giác như vậy, là một trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt hết phân biệt:
vọng tưởng... Giác như vậy, là một trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt
hết phân biệt.» (Xem Suzuki, Thiền Luận I, Trúc Thiên dịch, tr. 200).
Và chính nhờ
cái biết vô phân biệt này, hết còn khách thể, chủ thể, mà con Người đồng
hóa mình với Thöôïng đế và vũ trụ. Cho nên, nói theo từ ngữ Phật giáo,
thì khi chưa Giác Ngộ con người còn ở trong Vô Minh. Mà trong Vô minh,
thì «người biết»
tách rời «sự biết»,
ngoại giới biệt lập với nội tâm, nghĩa là luôn luôn có những cặp mâu
thuẫn đối lập nhau...
– Bucke đã
nhấn mạnh rằng khi con người đã giác ngộ, ngoài sự đạt được siêu thức,
còn thấy mình được hạnh phúc, bình an trong tâm hồn. Pascal, John of the
Cross. Bucke v.v... đều đề cập tới một nguồn vui, một nguồn hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn.
Nhiều người
sau khi giác ngộ đã đánh dấu giây phút ấy bằng những bài thơ, như Thiệu
Khang Tiết, như Chu Hi...
Tôi cho rằng:
«Đạo tâm khai, thi văn
xuất...»
Tôi còn thấy
rằng phần đông sau khi giác ngộ các Thánh Hiền xưa đều đã thấy thần lực
tăng thêm rất nhiều, và bắt đầu đi giảng giáo, đi hoằng hóa chúng sinh,
như trường hợp đức Phật, Chúa Jesus, Khổng tử, Mohammed v.v...
– Bucke cho
rằng thánh hiền sau trước đều có chủ trương giống nhau. Điều đó không
sai. Mạnh tử cho rằng: Thánh trước, thánh sau đều cùng một đường lối
(Tiên thánh, hậu thánh kỳ quĩ nhất dã).
Ramakrishna
cũng viết: «Tất cả các vị
thánh hiền đều có những lời giảng giáo như nhau.»
Cát tiên ông
cũng viết:
Thiên hạ vô nhị
đạo,
天 下 無 二 道
Thù đồ nhi đồng
qui.
殊 途 而 同 歸
Thánh nhân vô lưỡng
tâm, 聖 人 無 兩 心
Bách lự nhi nhất
trí.
百 慮 而 一 致
Dịch:
Đạo trong thiên hạ há pha phôi,
Đường nẻo khác nhau, đích một thôi.
Thánh hiền sau trước lòng không khác,
Lo lắng trăm đàng đích một thôi.
(Tây sơn quần tiên hội ký, tr. Ia)
Tại sao lại có
sự tương đồng như vậy?
Ta có thể nói
như Marc Semenoff, trong bài tựa của ông ở đầu quyển sách La Pensée du
Bouddha (Tư Tưởng Đức Phật) rằng: «Sự tương đồng ấy chẳng phải ngẫu
nhiên... Cái duyên do đã tạo nên sự tương đồng ấy – một sự tương đồng
vượt lên trên không gian và thời gian – chính là Thực Thể duy nhất.
Thực Thể ấy là
nguồn gốc thế giới chúng ta, và nhân quần.
Thực Thể ấy là
sự phát triển, tiến hóa của thế giới chúng ta và nhân quần.
Thực Thể ấy
cũng chính là cùng đích của thế giới chúng ta và nhân quần.
Chân lý chính
là sự biểu dương, là sự phát huy của Thực Thể ấy.
Những chân lý
(địa phương) là những cách thức mà Thực Thể ấy dùng, để biểu dương, qua
những lời giảng giáo, những bút tích của các vị Chân nhân, các vị Tiên
tri, các vị Hiền triết. Những cách thức dùng để phát biểu chân lý ấy, dĩ
nhiên lệ thuộc vào chủng tộc, vào tính tình, vào tâm tư của từng dân
nước. Vì thế cho nên tuy hình thức khác nhau, tuy cách trình bày khác
nhau, nhưng căn cốt và nội dung chính yếu thì giống nhau, bởi vì căn
cốt, nền tảng ấy, chính là chân lý phát xuất từ một Thực Thể duy nhất.»
(Xem Chân dung Khổng tử tr.337- 338).
Riêng tôi, sau
khi đọc kỹ về đời sống Khổng tử, và Tứ Thư Ngũ Kinh, vào khoảng những
năm 1956-1957, tôi đã tìm ra lẽ nhất quán của trời đất. Sau đó, đọc Bà
La Môn, hay Phật giáo, hay Lão giáo, hay Thiên Chúa Giáo, Hồi giáo, tôi
chỉ toàn nhìn thấy cái tương đồng... Từ đó, cứ nhờ đọc đạo này mà tôi
lại thấu hiểu thêm đạo kia... Và câu
«Tiên thánh hậu thánh, kỳ
quĩ nhất dã» của
Mạnh tử đối với tôi là một chân lý. Chính vì quan niệm như vậy, nên tôi
rất mến đọc Meister Eckhart, John of the Cross, Paul, Ramakrishna,
Vivekananda và các hiền thánh Đông, Tây, kim cổ, bất kỳ là các Ngài
thuộc đạo giáo nào trong thiên hạ. Tôi càng ngày càng thấy rằng nếu ta
không đồng thanh đồng khí được với các Ngài, thì các Ngài nói một đàng,
ta sẽ hiểu một nẻo, hoặc lời lẽ các Ngài sẽ trở nên tối tăm, xa lạ. Còn
như ta mà cảm thông được với các Ngài thì tất cả những lời các Ngài sẽ
trở nên minh thị, trong sáng, và có năng lực chuyển hóa tâm linh chúng
ta, bất kỳ là ta đọc thánh hiền Đông hay Tây, kim hay cổ.
Người xưa
thường tránh nếu không gặp người «thanh
khí», sẽ không thể thố lộ
tâm tình, chính là vì vậy.
Mới hay:
«Lộ phùng kiếm
khách, tu trình kiếm,
Bất thị thi nhân
mạc hiến thi.»
Dịch:
Gặp tay kiếm khách, âu bàn kiếm,
Chẳng phải thi nhân, chớ tặng thi.
Chúa Jesus
cũng đã phán: «Đừng cho chó những gì thiêng quí, đừng cho lợn những thứ
ngọc châu. Chúng nó sẽ dẵm lên, và quay lại cắn xé bạn.» (Mat. 7,6)
Lời này sâu
sắc biết bao: Xưa nay bao thánh hiền chỉ vì nói hay, nói phải, nói cao
siêu, mà đã bị tiểu nhân, bị phàm phu tục tử bách hại...
Nhờ ở định
luật «Thanh khí lẽ hằng»
mà Eckhart đã dám viết: «Tôi thấy Chúa bằng con mắt nào, thì cũng bằng
con mắt ấy Chúa thấy tôi. Mắt tôi, và mắt Chúa chỉ là một mắt, một khuôn
mặt, một hiểu biết, một tình thương.» (Suzuki, Thiền luận I, tr.197).
Câu này cũng y thức như câu của Chúa Jesus: «Cha ta và ta là một.»
(John, 10:30).
Để chứng
nghiệm được là khi nào đạt Thiên Tâm, Bucke đã toát lược tư tưởng thánh
John of the Cross đại khái như sau:
Yepes cho rằng
Thượng đế luôn hiện diện trong tâm hồn con người, nhưng thường thì là ở
thế «thụ động»
hay «tiềm ẩn»,
hay ít ra cũng vượt lên trên tầm trí lự con người, Tâm hồn nào biết có
Chúa ngự bên trong đã là diễm phúc, nhưng tâm hồn nào có được Chúa linh
hoạt bên trong, mới thực có diễm phúc siêu tuyệt. Trong quyển sách này
(Cosmic Consciousness) gọi sự có Chúa linh hoạt bên trong tâm hồn là
«Vũ Trụ Tâm, Thiên Tâm».
Theo sự khảo
sát của tôi thì tự ngàn xưa đã có những người đạt Thiên Tâm, dữ Thiên
đồng đức, thấy như có Trời hoạt động trong lòng mình.
Điển hình là
trong Kinh Thi, thiên Đại Nhã cho chúng ta thấy Văn Vương đã đạt trạng
thái ấy:
Kinh Thi viết:
Việc Trời chẳng tiếng chẳng tăm,
Nên dùng dạng thức Vua Văn hiển hình,
Cho muôn dân thấy mà tin...
(Kinh
Thi, Đại Nhã tam, Văn vương chi thập tam chi nhất).
Văn vương trọn một niềm kính nể,
Làm chói chang Thượng đế ra ngoài,
Muôn nghìn phúc lộc chiêu lai,
Một niềm nhân đức chẳng phai lòng vàng...
(Kinh Thi,
Đại Nhã, Văn vương thất chương, bát cú).
Trung Dung
chương 31 cũng mô tả trạng thái những vị thánh nhân đạt Thiên đạo như sau:
Chỉ có đấng chí thánh trong trần thế,
Mới có đầy đủ thông minh, trí tuệ,
Y như thể có Trời ẩn áo giáng lâm;
Mới khoan dung, hòa nhã, ôn thuần,
Y như có dung nhan Trời phất phưởng;
Phấn phát, tự cường, kiêm cương, hùng dũng,
Y như là đã cầm giữ được sức thiêng;
Trang trọng, khiết tinh, trung chính, triền miên,
Y như thừa hưởng được đôi phần kính cẩn;
Nói năng văn vẻ, rõ ràng, tường tận,
Y như là chia được phần thông suốt tinh vi..
Huỳnh Đình
Kinh của Đạo Lão cũng thường đề cập đến trạng huống của những người có
Trời ngự trị, có Trời hoạt động trong lòng. Nơi
chương 23 Huỳnh Đình nội
cảnh viết:
«Cao nghiên điềm
đạm, Đạo chi viên,
高 研 恬 淡 道 之 園
Nội thị mật phán,
tận đổ chân,
內 視 密 盼 盡 睹 真
Chân nhân tại kỷ,
mạc vấn lân,
真 人 在 己 莫 問 鄰
Hà xứ viễn sách,
cầu nhân duyên?»
何 處 遠 索 求 因 緣
Dịch:
Điềm đạm, hư vô chơi vườn Đạo,
Phản quang nội chiếu sẽ thấy Thần.
Thần tại lòng ta, gần thật gần,
Còn phải đi đâu hỏi với thăm?
Thánh Paul mô
tả trạng thái này như sau: «Tôi sống, chẳng phải là tôi sống, mà là Chúa
sống trong tôi.» (Galates, 1:20).
Bucke cho rằng
muốn đạt tới Thiên Tâm, trước hết phải là những người có tâm tình trí lự
đặc biệt.
Nho gia xưa đã
nói: «Tận nhân đạo, tắc
Thiên Đạo chí.»
Chúng ta cũng
có khi đặt câu hỏi: Khi Thiên đạo chí, người giác ngộ thấy gì?
Ta có thể mượn
lời một tác giả, khi viết về Jacob Behmen mà thưa rằng: «Tất cả những
điều huyền vi mà Ngài bàn luận, không phải là Ngài đã nghe kể lại, mà
chính là Ngài đã thấy thế. Ngài nhìn thấu gốc rễ của mọi điều huyền vi,
thấy CĂN CƠ hay NGUỒN MẠCH từ đó đã phát sinh ra mọi mâu thuẫn, khắc
phạt, như cương nhu; nghiêm từ; cam khổ; ái ố; thiên đường địa ngục.
Ngài thấy chúng từ căn nguyên; Ngài cố mô tả chúng 'tòng đầu tuyệt vĩ',
để cuối cùng hòa hài mọi mâu thuẫn, khắc phạt...
Ngài thấy
chúng từ lòng Hóa công; thấy chúng từ đó tung tỏa ra thành muôn hình
trạng. Các bức màn che vạn hữu đã rơi xuống; Ngài đã nhìn thấy 'tim đen'
của vạn loài, sống thung dung trong chân tâm vạn hữu. Sách đọc của các
Ngài, chính là Toàn thân các Ngài; cái tiểu vũ trụ của con người với ba
tầng sinh hoạt của nó đã phơi bày ra trước mắt Ngài.»
Bucke cho rằng
nhân loại sẽ đi đến một cuộc cách mạng tâm linh, và sau này sẽ có
nhiều người thành chân chứng thánh.
Đã từ lâu tôi
cũng có một niềm tin sắt đá như vậy.
Thánh Paul
chắc cũng đã tin như vậy, khi viết: «Tạo vật đang trông chờ, ao ước sự
xuất hiện của những Con Thiên Chúa.» (Rom. 8:19).
Chúa Jesus
cũng nói: «Nếu ai tin ta, thì cũng sẽ làm được những việc như ta đã làm;
mà còn làm được hơn ta nữa.» (John 13, 12).
Cho nên, nếu
chúng ta không thành chân, chứng thánh được đó là lỗi tự chúng ta, đã
không chịu tìm cầu, không chịu cố gắng, không chịu kiên trì, không chịu
tinh tiến, không chịu gạt bỏ thiên kiến, có vậy thôi.
Chính vì vậy,
mà tôi mượn lời Mạnh tử để kết thúc chương này. Mạnh tử nói:
«Đạo thực như là một con
đường lớn, đâu có khó biết? Chỉ tại người ta không chịu tìm. Bạn hãy trở
về nước, về nhà mà cầu đạo, đừng sợ thiếu thày.»
CHÚ THÍCH
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|