Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3
4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 4
ĐI TÌM MỘT NHÂN
SINH QUAN
Khoảng năm 1960, nhân dịp khánh thành
Khổng miếu Quảng Nam, hội Cổ học Quảng Nam nhờ tôi viết một bài về Nhân
sinh quan theo Dịch lý. Trước đó, khi khảo về Trung Dung, tôi đã khám
phá ra huyền nghĩa của Tâm điểm và của Vòng Tròn. Tâm điểm tượng trưng
cho Bản thể vũ trụ; vòng tròn bên ngoài tượng trưng cho vạn hữu, cho các
hiện tượng biến thiên. Tôi liền phối hợp sở học tôi về Trung Dung và
Dịch lý mà viết ra một bài nhan đề là: Một nhân sinh quan theo Trung
Dung và Dịch lý.
Tuy là nói vậy, nhưng các đường hướng
đưa ra, cái nhìn vào cuộc đời, hoàn toàn là do tôi sáng tạo; xưa nay
chưa có ai đưa ra một quan niệm tương tự như vậy. Nói thế có nghĩa là
Nhân sinh quan mà tôi đem ra bàn cùng quí vị bây giờ là của tôi. Những
lời lẽ, những ý tưởng mà tôi đem trình bày cùng quí vị một cách mạch
lạc, rõ ràng, thì trong dĩ vãng chẳng qua mới được ám chỉ, mới được gợi
ý, chứ chưa hề được đề cập đến một cách sáng sủa, hẳn hoi.
Đến nay thấm thoắt đã 40 năm qua, khi
cần phải viết lại một Nhân sinh quan, tôi đọc lại lập trường, tư tưởng
xưa kia của tôi, tôi vẫn thấy nó ý hợp tâm đầu với tôi. Tuy nhiên, tôi
cũng không hoàn toàn sao chép lại để trình bày cùng quí vị, mà sẽ cắt
xén, sẽ chỉnh trang lại cho hợp thời. Nói theo Bốc Dịch, nó sẽ không
phải là một quẻ Phục Ngâm, mà sẽ là một Biến quái, một Biến quái «hồi
đầu sinh».
Tôi cũng xin nói trước rằng, Nhân sinh
quan mà tôi đưa ra chỉ là một trong những Nhân sinh quan của thiên hạ.
Nó hay, hay dở là tùy quan điểm của quí vị; nó có được quí vị tán đồng
hay không, cũng tùy như là quí vị có tương ứng, tương cầu với tôi không.
Dù quí vị đồng ý hay không đồng ý, chuyện đó không làm cho tôi phải băn
khoăn. Một hôm, tôi đợi đèn xanh ở góc đường Bolsa, Brookhurst, tôi nhìn
các xe cộ chạy qua trước mặt và thấy không xe nào giống xe nào: xe to,
xe nhỏ, xe trắng, xe đỏ, xe xanh, xe vàng, xe Mỹ, xe Nhật, xe Thụy điển,
xe Đức. Tất cả đều là tùy ý thích mỗi người, tùy túi tiền mỗi người. Nếu
bây giờ có lệnh baét buộc chỉ được dùng xe một cỡ, một màu, do một nhà
sản xuất, thì chắc là quang cảnh bên ngoài sẽ trở nên hết sức buồn tẻ.
Cho nên về tư tưởng cũng cần phải có hiện tượng trăm hoa đua nở. Đưa ra
Nhân sinh quan của tôi, tôi chỉ muốn coi nó như là một loại hoa, đóng
góp phần nào vào vườn thượng uyển tư tưởng của nhân quần.
Nhân sinh quan này nảy sinh từ học
thuyết then chốt của tôi là thuyết: Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, với
những tư tưởng then chốt là Nhất tán Vạn, Vạn qui Nhất. Nó cũng dựa vào
những định luật vĩnh cửu của trời đất như TỤ, TÁN; VÃNG, LAI; THUẬN,
NGHỊCH; BIẾN HÓA. Nó sẽ cho ta thấy con đường TIẾN, THOÁI mà tôi sẽ phác
họa ra cho chúng ta theo tùy TUỔI TÁC, tương ứng với chu kỳ của mặt
trăng, mặt trời, của các vì sao, và sự biến thiên của bốn mùa.
Những điều mà tôi trình bày đã được
rút ra từ Tâm Linh con người, đã được các Thánh triết ngàn xưa thi hành,
và tin rằng sẽ được các Thánh triết ngàn sau đồng ý, vì đó là những định
luật tự nhiên chi phối sự biến hóa của nhân quần. Đó chính là Thiên ý,
và cũng đã được Trung Dung, và Kinh Dịch đề cập tới.
Trung Dung chương 29
viết:
...Đạo
quân tử phát xuất tự thâm tâm,
Đem
trưng bày phổ cập tới thứ dân.
Khảo
chứng tam vương, không có chi lầm lỗi,
Sánh với
luật đất trời, không phản bội.
So quỉ
thần, đường lối đúng không sai,
Thánh
nhân ngàn đời sau chẳng có chê bai...
So quỉ
thần, đường lối đúng không sai,
Thế là
đã biết lòng Trời đó,
Thánh
nhân ngàn đời sau chẳng có chê bai,
Thế là
đã biết lòng người tỏ rõ...
Dịch kinh viết:
Thánh
nhân rộng lớn muôn tầm,
Như
trời, như đất chẳng phân, chẳng rời.
Biến
thông hợp bốn mùa đời,
Âm Dương
hòa điệu, mặt trời, mặt trăng.
Khinh
phiêu, giản dị, ung dung,
Hợp cùng
chí đức, (sánh cùng chí năng.)
(Hệ từ thượng,
chương VI)
Nó cũng nảy sinh từ chủ trương biến
dịch hai chiều của tôi: Một chiều tiến hóa theo các định luật vật chất,
một ngày một tiến tới bất động, ù lì, tối tăm, lạnh lẽo.
Một chiều tiến hóa theo các định luật
tinh thần một ngày một tiến tới tinh vi, kỳ ảo, linh động sáng tươi, đẹp
đẽ, trật tự, hòa hợp. Chiều hướng về vật chất được chi phối bởi định
luật «Dương tiêu, Âm trưởng»; còn chiều hướng về tinh thần, được chi
phối bởi định luật «Âm tiêu Dương trưởng».
Từ xưa đến nay có nhiều lối nhìn vào
đời sống con người: Có người thì cho cuộc đời là bến mê, bể khổ, cho nên
muốn xa lánh cuộc đời; lên rừng, lên núi, vào hang, vào động để mà tĩnh
tọa, tu trì; hoặc ly gia, cát ái, vui tháng ngày cùng câu kinh kệ. Có
người thì cho cuộc đời này là chốn khách đầy, coi mọi thử thách khổ đau
gian trần, là những thánh giá cần phải vác hằng ngày; luôn coi mình đầy
tội lệ, cần phải khóc lóc ăn năn; sống trong hiện tiền, mà chẳng quan
thiết tới hiện tiền, mà chỉ mong chóng được về Thiên quốc. Có cái lạ là
tuy biết rằng chết đi có thể tiêu diêu cực lạc; có thể lên thiên quốc,
thiên đình, nhưng khi mắc bệnh, khi kề cận lưỡi hái tử thần, thì người
ta lại thấy tiếc thương cái xác đất, vật hèn; cái đời phù sinh, tục lụy;
lại thấy thương vợ, thương con, liền van vái tứ phương, chạy thày, chạy
thuốc, cầu mong được triển hạn ngày giá hạc, vân trình!
Có những người lại chỉ chú trọng đến
hiện tiền, lại chỉ thích cải tiến nhân sinh, tổ chức xã hội, và sống
hưởng thụ trong kiếp sống gian trần này.
Cũng có những người chủ trương mạnh
được yếu thua, chuyên môn hiếp đáp người khác, dân khác. Có những người
chủ trương phải kiếm thật nhiều tiền, sống hưởng thụ tối đa. Người nào
cũng cho chủ trương của mình là hay nhất, chủ trương của người là dở
nhất. Tôi cho rằng tất cả những quan niệm trên đều tương đối, dở hay,
trộn lộn.
Tôi chẳng chống đối chuyện sửa soạn
lai sinh, tôi cũng tán thành chuyện lo cải tiến đời sống vật chất, xác
thân, đời sống, gia đình xã hội. Có một điều là chúng ta phải biết phân
công cho hay, dùng thời giờ cho đúng.
ĐƯỜNG ĐỜI LÝ TƯỞNG
Tôi sinh ra trong một gia đình tương
đối nghèo, sống trong một nước mà thế giới xếp vào hạng nhược tiểu và
chậm tiến; tôi đã được thấm nhuần, được dạy dỗ rằng thân phận tôi, cũng
như thân phận con người là hèn hạ, là tội lệ, mà lạ lùng thay tất cả
những điều giáo huấn đó đối với tôi lại y như là nước đổ đầu vịt, hay
nước đổ lá khoai! Tôi càng ngày càng nhận thấy rằng con người là dòng
dõi thần minh giáng hạ, khoác hình hài, thân xác, làm một cuộc viễn du
xuống gian trần này, để thực hiện những công chuyện vô cùng khó khăn như
thấy trong chuyện thần Hercules: đó là thi triển thần uy, thi triển
quyền lực để cải thiện gian trần, để đấu tranh, để lướt thắng mọi nỗi
khổ đau, đem an bình lại cho thế tục, đem hạnh phúc lại cho tâm hồn, và
sau khi đã xông xáo trên muôn vạn nẻo đường trần, sau khi đã vào sinh ra
tử, sau khi đã chiến thắng mọi trở ngại, mọi hiểm nguy, sẽ thâu hồi tinh
anh, hội tụ thần lực, băng qua vòng khí quyển hình danh, sắc tướng,
tương đối, tương đãi để về nhập thể lại với Vô Biên... Con người không
thể tự khinh, mà phải tự trọng; không thể trốn đời mà phải biết dùng
đời, dùng ngoại cảnh như là một công cụ cho mình thi triển quyền uy, cho
mình phát huy sáng tạo, cho mình thực hiện tinh hoa.
Tôi càng ngày càng thấy rằng nhân loại
mang chứa trong mình Bản thể vô biên của đất trời, Hóa công của vũ trụ,
cho nên lúc thì phải xông xáo vào đời, để tái tạo ngoại cảnh; lúc thì
phải quay trở lại với Đạo, nhìn thấy Đạo trong tâm khảm mình, để mà sống
thanh hư, định tĩnh.
Tôi mến Thiệu Khang Tiết không phải vì
quyển Mai hoa dịch số của ông, mà chính vì ông từ ngót ngàn năm trước
đây đã có những ý tưởng tương tự, ông đã gửi gấp chúng vào trong một bài
thơ mà tôi không rõ nhan đề, như sau:
«Nhĩ mục thông minh nam tử thân
耳 目 聰 明 男 子 身
Hồng Quân phú dữ bất vi bần
洪
鈞 賦 予 不 為 貧
Tu tham nguyệt quật phương tri vật
須 探 月 窟 方 知 物
Vị nhiếp thiên căn khởi thức nhân.
未 躡 天 根 豈 識 人
Càn ngộ Tốn thời quan nguyệt quật,
乾 遇 巽 時 觀 月 窟
Địa phùng lôi xứ kiến thiên căn.
地 逢 雷 處 見 天 根
Thiên căn, nguyệt quật thường lai vãng,
天 根 月 窟 常 來 往
Tam thập lục cung đô thị xuân.»
三 十 六 宮 都 是 春
Giải
thích:
Nhĩ mục
thông minh, nam tử thân,
Hồng
quân phú dữ bất vi bần.
Tu quan
nguyệt động phương tri vật : Cần phải đi vào ngoại cảnh.
Vị
nhiếp Thiên căn, khởi thức nhân : Cần đi vào tâm tìm lại Thiên căn.
Kiền
ngộ Tốn thời quan nguyệt quật: Thiên Phong Cấu.
Địa
phùng lôi xứ, kiến Thiên căn: Địa Lôi Phục.
Thiên
căn, nguyệt quật, thường lai vãng: Nếu biết đi cả hai chiều Tâm, Cảnh.
Tam thập lục cung đô thị xuân:
64 quẻ Dịch thu lại còn 36, ám chỉ cuộc đời,
ý nói suốt đời sẽ đẹp đẽ như mùa xuân.
Chuyển dịch:
Tai mắt
nam nhi đứng cõi đời,
Lòng
mang Tạo Hóa há đâu chơi.
Quyết
thăm động nguyệt cho hay vật,
Cố hiểu
Thiên căn, để biết Trời.
Trời nổi
gió giông, thông động nguyệt
Đất vang
sấm chớp, lộ căn trời.
Căn
trời, động nguyệt thường lai vãng,
Ba sáu
cung xuân, trọn vẹn đời.
Bài thơ này đại khái chỉ đưa ra ba vấn
đề:
1.- Con người có Thiên tính.
2.- Con người phải dùng nửa đời đầu
của mình, để tìm hiểu ngoại cảnh, khai thác ngoại cảnh.
3.- Và dùng nửa đời sau của mình để
tìm hiểu về gốc gác thần minh của mình. Được như vậy, cả đời mình sẽ
luôn luôn sung sướng, hạnh phúc.
Tôi càng ngày càng nhìn nhân loại bằng
con mắt tương lai. Tôi nghĩ rằng con người chắc chắn là sẽ tiến về địa
vị thần linh sang cả, với sự sáng tạo của mình, nỗ lực triền miên của
mình, với sự đồng lao cộng tác của mọi người.
Sự cứu rỗi của nhân loại sẽ đến với
nhân loại, khi mà nhân loại nhận ra được chân giá trị của con người, khi
biết rằng con người có những khả năng vô biên vô tận, mà nếu biết khai
thác, biết tận dụng, sẽ biến hồng trần thành thiên quốc.
Con người chỉ việc thay đổi tầm nhìn,
thay đổi ý nghĩ, thay đổi tâm tư, thay đổi độ lượng, lập tức phiền não
sẽ tiêu tan. Cái khổ đau hiện tại, cái ngu si hiện tại sẽ nhường bước
cho sung sướng, cho thông sáng trong tương lai. Con người sau khi đã đi
bộ mấy nghìn năm, nay đã đi mây, về gió; sau khi đã dùng mắt trần mấy
nghìn năm, nay đã biết nhìn bằng kính cận, kính viễn, kính hiển vi, và
thiên lý kính. Nhìn nhỏ đến thấu cả lòng sâu vi tử, vi trần. Nhìn xa đến
những tinh cầu cách xa triệu triệu năm ánh sáng. Rồi nhờ các đường dây
điện thoại viễn thông, ta tha hồ đối thoại với những người cách xa muôn
vạn dặm. Con người ngày nay đã biết dùng ánh sáng Laser để chữa bệnh, đã
biết dùng siêu âm để phá nát đá sạn trong ống mật, trong thận, đã thay
tim, thay gan, nối thần kinh; nối mạch máu, thì trong tương lai sẽ còn
làm được những phép lạ to lớn hơn thế nhiều!
Niềm tin tôi vào tiền trình vào tương
lai nhân loại càng ngày càng trở nên mãnh liệt:
Thuyền
nhân loại hướng về đâu tá?
Thuyền
quang hoa băng ngả thần tiên.
Tiến về
mai hậu siêu nhiên,
Tiến về
đức hạnh, nguyên tuyền tinh hoa.
Ánh khoa
học trời xa lóng lánh,
Thuyền
quang hoa băng cảnh thần tiên,
Tiến veà
đẹp đẽ tinh tuyền,
Tiến về
Thượng giới về miền muôn sao.
(Phỏng dịch thơ Plein Ciel của
Victor Hugo).
Tôi tin mãnh liệt rằng con người mai
hậu sẽ trở thành thần linh, vì mang sẵn trong mình một nguồn sinh lực,
một sức sáng tạo vô biên, vô tận.
Kìa sinh
khí chứa chan, lai láng,
Rung lá
cành, làm sáng lòng ta.
Tung
hoành từ đá đến hoa,
Lại từ
thảo mộc chuyển qua muông cầm.
Từ nham
thạch chuyển dần tới bạn.
Có lẽ
đâu tiêu tán nơi người?
Không,
không, sinh khí chơi vơi,
Đường
mây ai cản, đường trời ai ngăn.
Sức vô
địch băng băng hướng thượng,
Tiến sâu
vào vô lượng vô hình.
Làm cho
tràn ngập thái thanh,
Một trời
bát ngát treo tranh non bồng.
Xán lạn
với muôn thần, vạn thánh,
Ánh hào
quang tạo cảnh dao trì
Thần
linh sánh với tiên tri,
Thiên
thần rực rỡ, quang huy trong ngoài.
Sinh khí
ấy láng lai vô tận,
Bắc
thang sao, muôn dặm thiên thai.
Từ nơi
ngạ quỉ tuyền đài,
Tung lên
cho tới muôn loài thần tiên.
Thấp với
cao tương liên kết giải,
Muôn
thánh thần chắp nối duyên tơ,
Băng qua
muôn triệu cõi bờ,
Nối liền
sao sáng cùng là trời mây.
Cao với
thấp đó đây ở hết,
Từ biên
khu tới miết trung tâm
Băng
chừng muôn dặm, muôn tầm,
Rồi ra
biến dạng vào tâm khảm Trời.
(Phỏng dịch thơ Les contemplations
của Victor Hugo).
Tôi phân cuộc đời thành hai giai đoạn,
theo đúng điệu Âm, Dương của đất trời.
Gẫm đạo
lý có sau, có trước,
Lẽ Âm
Dương có ngược, có xuôi,
Ngược là gió cuốn bụi đời
(Thiên Phong Cấu).
Đẩy đưa
vào chốn trần ai, cát lầm.
Có thử
thách, mới phân vàng đá,
Có lầm
than, mới rõ chuyện đời.
Khi xuôi, sấm chớp tơi
bời (Địa Lôi Phục),
Tầng
sâu, bày giãi căn trời nội tâm,
Trông tỏ
đích, chí nhân, chí chính,
Biết mục
phiêu, sẽ định, sẽ an,
Rồi ra
suy xét nguồn cơn,
Con
đường «phối mệnh» chu toàn tóc tơ.
Giai đoạn đầu là giai đoạn «Dương
tiêu, Âm trưởng». Con người trong giai đoạn này, sa đọa, lạc lõng dần
vào cảnh phù du, hư ảo bên ngoài, đem tâm thần, bán rẻ lấy miếng cơm
manh áo, đem thân làm tôi tớ cho hoàn cảnh, xã hội, dù nợ áo cơm lụy cả
đến hình hài,mà vẫn lấy thế làm vui. Trong giai đoạn này, vật chất dần
dần đóng vai trò tối thượng. Nhưng có giai đoạn này, thì giang sơn mới
được tô điểm, hoàn cảnh vật chất của quần chúng mới được cải thiện. Tinh
thần, trong giai đoạn này, dần thu gọn lại như một ánh sao trên bầu trời
vân vũ.
Giai đoạn sau là «Âm tiêu, Dương
trưởng». Tinh thần đã biết hướng thượng đã biết hồi hướng, tìm ra được
nguồn mạch cao cả của mình, và sẽ dùng vật chất làm «thang mây» mà tiến
dần về Trời. Trong giai đoạn này, tinh thần dần dần đóng vai trò tối
thượng. Nó thích hợp với những con người đã đứng tuổi, đã già, những con
người đã biết quẳng gánh lo, thoát vòng danh lợi để quay về tu luyện bản
thân, nêu gương sáng cho đời, mong kết hợp với Trời, để được trường sinh
bất tử. Ngược lại vật chất xuống giá dần để cuối cùng biến thành chiếc
xe mây cho khách du rong ruổi trên đường «thiên lý», sáng trong như ngọc
thạch.
Con đường lý tưởng này gồm cả hai bề
vật chất, tinh thần, uyển chuyển diễn tiến theo đà thời gian, tuổi tác,
như một bài thơ, một bản nhạc, mà tiết tấu hòa nhịp với trăng sao. Thế
là «TRẺ ĐI RA, GIÀ ĐI VÔ»; «TRẺ ĐI RA ĐỜI, GIÀ ĐI VÀO ĐẠO»: Đời đây là
ngoại cảnh; Đạo đây là Tâm Linh.
ĐƯỜNG ĐỜI LÝ TƯỞNG VỚI CHU KỲ NHẬT NGUYỆT
TINH THẦN
Con người lý tưởng lúc sơ sinh cũng
như vầng trăng vừa quá rằm đẹp đẽ. Nhưng dần dà lớn lên, lạc lõng vào
cuộc đời tìm sinh kế, cũng như vầng trăng khuyết dần, mờ dần. Đến lúc
công danh ở đời tưởng như là rực rỡ, lợi lộc ở đời tưởng như là dồi dào,
thì lại là lúc mà tinh thần nghèo nàn nhất. Lúc mà tinh thần suy sụp,
đen tối như vậy, thì mặt trăng trên trời cũng đang ở vào kỳ Nguyệt Tận,
chẳng còn chút quang huy.
Nhưng trăng hết kỳ lu, lại tới thời kỳ
sáng. Con người lý tưởng cũng vậy, không thể bị vật dục che mờ mãi. Nhờ
suy tư về sự chất chưởng bên ngoài, con người có ngày sẽ tìm lại được
nguồn sống bên trong, sẽ dần dần tài bồi cho tâm hồn mình ngày thêm hoàn
bị, để lúc thoát «hồng trần, tục lụy», sẽ viên mãn, sẽ rực rỡ như TRĂNG
HÔM RẰM.
Con đường lý tưởng nói trên cũng vạch
lại sự thăng trầm của vừng dương. Trong một ngày, thì sau giờ Ngọ, là
mặt trời ngả bóng và càng ngày càng mờ nhạt quang huy. Lúc gần xế bóng
non đoài, thì tà huy cũng trở nên bảng lảng. Khi đã lặn xuống dưới chân
trời, thì màn đêm la đà phủ trên muôn vật, và lúc nửa đêm là lúc tăm tối
nhất. Nhưng rồi sau đó mặt trời lại mọc lên lại. Và lúc lên khỏi chân
trời, thì bình minh lại hiện ra rực rỡ. Đến lúc chính Ngọ sẽ lại là
«Nhật lệ trung thiên», sáng quắc giữa vòm trời. Nếu xét theo triền năm,
thì sau ngày Hạ chí, mặt trời đi vào cung Cự Giải. Ánh sáng và sức nóng
một ngày một giảm cho tới cực độ vào ngày Đông chí. Nhưng từ ngày Đông
chí trở đi, thì mặt trời lại nóng lên, sáng lên dần mãi, đem ánh dương
quang đượm nhuần cho hoa lá trổ sinh, tưng bừng rộn rã với ngày Xuân, và
dần dần trở lại ngôi vị tối thượng vào ngày Hạ chí.
Cuộc đời lý tưởng của người quân tử,
lúc sơ sinh, cũng đẹp như mặt trời khi quá Ngọ. Lúc lớn lên, bị vật dục
che mờ, người quân tử cũng như mặt trời, trải qua những cảnh hoàng hôn
và cảnh đêm dài tịch liêu, u tối. Nhưng rồi ra, con người lý tưởng ấy
dần dà sẽ gỡ được mọi tần phiền, để cùng mặt trời trang trọng hiện lên
trên nhãn giới tâm linh, vào lúc bình minh muôn thủa; cùng bình minh,
hứa hẹn một trời trong sáng mới, và khi lìa thế sự, sẽ là «nhật lệ trung
thiên», sáng quắc cả bàu trời thiên quốc.
Con người lý tưởng, ruổi rong trên
muôn dặm trần hoàn y thức như nhật nguyệt và ngũ tinh (ngày nay là cửu
tinh) ruổi rong trên con đường Hoàng Đạo. Lúc sơ sinh, con người lý
tưởng đi và CỬA NGƯỜI- mà Chiêm tinh Âu Châu gọi là Cung Cự Giải, mà
Chiêm Tinh Học Á châu gọi là chòm sao TỈNH. Từ Cự Giải tuần tự xuống dần
tới các cung Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Yết, Nhân Mã, tức là qua
các chòm sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn; Giác, Cang, Đê,
Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Đó là con đường đi ra, con đường đi xuống. Khi đến
cùng đường, sẽ tìm vào CỬA TRỜI, mà người Âu Châu gọi là cung Ma Yết
(Capricorn). Rồi từ đó tiến lần lên các cung Bảo Bình, Song Ngư, Bạch
Dương, Kim Ngưu, Song Tử. Theo Chiêm tinh học Á Đông thì CỬA TRỜI là ở
chòm sao Đẩu. Rồi từ đó đi theo các chặng đường trời: Ngưu, Nữ, Hư,
Nguy, Thất, Bích; Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm. Sau đó sẽ vào yên
nghỉ tại THIÊN CUNG, tượng trưng bằng TÂM ĐIỂM của Vòng Hoàng Đạo. CỬA
NGƯỜI trên vòng Dịch Tiên Thiên là quẻ CẤU; CỬA TRỜI trên vòng Dịch Tiên
Thiên là quẻ PHỤC. THIÊN CUNG là THÁI CỰC, TRUNG CUNG. Như vậy, đường
xuống TRẦN, đường lên TRỜI, đã được hoạch định, được xây cất sẵn sàng.
CỬA NGƯỜI, CỬA TRỜI đã như thể có biển đề, cho ta khỏi lầm lẫn.
ĐƯỜNG ĐỜI LÝ TƯỞNG VỚI LẼ BIẾN THÔNG CỦA
BỐN MÙA
Đem sánh với bốn mùa, ta thấy con
đường lý tưởng mà ta vạch ra ở trên hợp nhẽ biến thông của bốn mùa.
Lúc sơ sinh là lúc nhựa sống tràn đầy
như muôn hoa khoe sắc trên cành, sau ngày Hạ Chí (giữa tháng 5 ta; vào
khoảng 21 tháng 6 Dương lịch). Lúc lớn lên,bước dần vào cuộc đời, thấy
dần dần tâm sự càng ngày càng ngả sang Thu, và khi đến lúc hoa niên, khi
đã tiêu pha hết vốn liếng tinh thần, khi đã:
Mùi tục
lụy lưỡi tê tân khổ,
Đường
thế đồ, gót rỗ kỳ khu,
Tâm hồn lắm lúc cảm thấy lạnh lùng,
như băng giá, tiết đông thiên. Nhưng có sương tuyết lạnh lùng, thì mới
có lại được ngày xuân ấm áp.
Trong những giờ phút mà con người chán
thế sự, nhân tình, thì lại là lúc con người thấy mở tung ra trong tâm
khảm mình một nhãn giới vô biên. Thế là khi mái tóc hình hài, vật chất
đã hoa râm, thì tinh thần ngược lại bỗng đượm màu xuân sắc. Một nguồn hi
vọng mới dâng lên giữa những cảnh ngộ éo le của cuộc đời. Mùa xuân đầy
hi vọng trở về với một nguồn sống tinh thần mới...Và cũng như cây đâm
chồi, nảy lộc, vươn mãi lên trên khung trời trong ngày xuân ấm áp, tâm
hồn cũng vươn mãi lên tới tinh hoa cao đẹp. Cuối cùng lúc từ giã cuộc
đời, tâm hồn vẫn chứa đầy nhựa sống như trời mùa hạ. Bao công lao sự
nghiệp của cuộc đời bấy giờ nở tung ra như muôn hoa tươi thắm để chẳng
bao giờ tàn phai...
CON ĐƯỜNG ĐỜI LÝ TƯỞNG VỚI NHÂN TÂM THẾ
ĐẠO
Con đường lý tưởng đó cũng rất phù hợp
với nhân tâm thế đạo. Con người từ bao ngàn năm nay, vì không hiểu định
luật thiên nhiên, nên đã không đi theo đúng nhịp điệu thời gian, tuổi
tác; gò bó mình vào những khuôn khổ chật hẹp; máy móc hóa một cuộc đời
đáng lý là thơ mộng; hay lại quá phóng túng mình đến tan tác cả cuộc
đời.
Mặc dầu vậy, họ vẫn phác họa lại trong
cuộc đời mình bóng dáng cuộc đời lý tưởng đó.
Bé thì ngây thơ, hồn nhiên, vô tội vạ;
rồi dần dà trở nên PHÓNG NGOẠI, trở nên tò mò; rồi cũng tranh đấu, xông
xáo, cũng dấn thân vào phong trần, vật chất như ai. Lúc mái tóc hoa râm,
lắm khi cũng thấy giật mình muốn đoạn tuyệt với cuộc đời phóng đãng của
mình, muốn hồi tâm tu tỉnh. Khi trở về già, thì không ai bảo ai, bất kỳ
thuộc tôn giáo nào, con người cũng muốn quay về cùng Trời, Phật, Thần,
Thánh; cũng kinh kệ, tụng niệm như ai. Chỉ tiếc cái là thay vì HƯỚNG
NỘI, để quay về với Trời, với Phật trong tâm, thì vẫn uổng công đi tìm
Trời, tìm Phật ở nơi đền đài, miếu mạo bên ngoài; thay vì dùng kinh kệ,
như là thần chú để chiêu vời Trời, Phật nhập thể với mình, thì lại vẫn
thấy mình là mình; kinh là kinh; mà Trời Phật vẫn xa xôi riêng rẽ...
Càng dấn thân (engagement) vào đời phong vũ bao nhiêu, lại càng mong
muốn thoát thân (disengagement) ra ngoài vòng cương tỏa bấy nhiêu. Nếu
như thấy được
«Thiên địa chi tâm», tìm ra được Bản thể Trời trong đáy
lòng mình là sẽ bước được vào con đường giải thoát.
Nói rộng ra, thì nhân loại cũng đang
đi trên vòng Càn Khôn đó, nhưng chậm chạp.
Giai đoạn đầu là giai đoạn đạo hạnh
phù phiếm, xốc nổi bên ngoài, để rồi dần dà lạc lõng vào giai đoạn dị
đoan, mê tín. Càng phóng ngoại bao nhiêu, văn minh vật chất càng thịnh
đạt bao nhiêu, nhân loại lại càng đi đến chỗ sa đọa tinh thần bấy nhiêu,
càng «Nghịch Thiên, Bối Thiên» (quay lưng lại với Trời) bấy nhiêu. Nhưng
chính là nhờ ở giai đoạn sùng thượng vật chất này mà nhân loại đã giải
quyết được những vấn đề mưu sinh, thích ứng với hoàn cảnh, nhân loại đã
xây dựng được hạ tầng cơ sở cho vững chắc. Cho nên nó cũng hết sức là
ích lợi và cần yếu.
Nhưng khi đã trưởng thành, khi đã quá
dè bỉu, ghen ghét nhau, quá bóc lột, áp bức nhau, nhân loại sẽ dần dần
trở lại sùng thượng các giá trị tinh thần vĩnh cửu.
Hiểu cuộc đời theo định luật biến dịch
nói trên sẽ mở ra một con đường tiến hóa bao la cho cá nhân, cũng như
cho nhân quần xã hội. Cá nhân sẽ tùy theo tuổi tác, tùy theo khuynh
hướng của từng tuổi mà làm những công tác mình phải làm, để cây đàn bản
thân lúc nào cũng hòa âm theo đúng tiết tấu gia đình, xã hội, quốc gia,
quốc tế, nhân loại, và đất trời. Đó tức là ứng biến theo thời. Nhân loại
và cá nhân sẽ không ăn rễ sâu xa vào vật chất, mà chỉ coi vật chất là
một chặng đường tiến hóa của mình, một lớp lang nhỏ bé trong tấn tuồng
vĩ đại của nhân sinh, và trời đất.
Nếu chúng ta tin rằng Nhất đã sinh
Vạn, thì ắt chấp nhận rằng Vạn sẽ qui Nhất. Thế tức là, từ Tâm Linh muôn
thủa đã tung tỏa ra muôn vạn ngả đường. Dù ta có lao đao suốt đời cũng
chẳng sao đi hết con đường muôn vạn ngả. Càng phiêu lưu, càng lạc lõng.
Càng đi ra Vạn, càng phiêu lãng trên muôn vạn ngả đường, dù có thành
công đến đâu, trong thâm tâm vẫn thấy thiếu thốn, vẫn thấy ám ảnh bởi
cảnh phù du, tạm bợ; vẫn thấy mình như thân phận cánh bèo, bình bồng mặt
nước, chân mây, mà chẳng biết sẽ trôi giạt về đâu, bởi vì Vạn chỉ là như
một bóng hình hư ảo của Nhất. Trở về được với Nhất, mới là đi trọn vẹn
được vòng Càn Khôn biến hóa của thiên nhiên.
Nói thế có nghĩa là, khi con người
tiến đến thuần Dương, sẽ cảm thấy nình vẫn còn ở trong hữu hạn, vẫn còn
chịu định luật biến thiên, sinh hóa, cần phải đi vào Tâm điểm vũ trụ,
tâm điểm tâm thần, để thoát vòng biến thiên, sinh hóa, để từ hữu hạn,
nhập vào Vô cùng.
Ấn giáo, Phật giáo gọi đó là «Thoát
Luân Hồi; Nhập Niết Bàn».
Khổng giáo gọi là
TRUNG DUNG TRUNG ĐẠO.
Đó cũng là Trung
Đạo theo Long Thọ.
Đó là «đắc kỳ
hoàn trung dĩ ứng vô cùng» hay «hưu hồ
Thiên quân» của Trang Tử.
Đó là Tat Tvam
Asi (Con là Cái Đó) của Bà La Môn.
Đó là Con Người
Lý Tưởng; Con Người Muôn Thủa; đó
mới là Chí Nhân hay
Chân Nhân.
Lúc ấy chính là lúc con người nhập thể
với Trời (Phối Thiên). Lúc ấy, Hiện tượng đồng hóa với Bản Thể, nên xóa
hẳn biên cương giữa Tương đối và Tuyệt Đối, giữa Có và Không. Đó chính
là BẤT NHỊ PHÁP MÔN.
Theo Nhân sinh quan trên, chúng ta sẽ
học đi trên đất trước, rồi mới học bay trên trời; tìm miếng cơm, manh áo
trước, rồi dần dà mới đi sâu vào nội giới tâm linh. Thế tức là biết thời
cơ, biết nhẽ tiến thoái, biết uyển chuyển ứng phó với hoàn cảnh, biết
biến thiên theo nhịp điệu thời gian tuổi tác, để lúc nào đời chúng ta
cũng đẹp như một bài thơ, tiết tấu như một khúc nhạc, để lúc chung cuộc
sẽ thực hiện được CHÂN, THIỆN, MỸ.
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3
4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|