Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 12
Mục đích của Triết học và đạo giáo cốt là
tìm ra con đường giải thoát cho con người. Cái hay của một môn học là
làm thế nào để người sau nếu đi theo đúng những đường lối đã chỉ dẫn,
cũng sẽ tìm ra được kết quả y như là người đã khám phá ra nó đầu tiên.
Cho nên nếu Chúa Jesus, nếu Phật là những vị giáo chủ chân thực, thì
chẳng qua cũng chỉ là những người tiên phong đã tìm ra được một phương
trình, một phương thức giải thoát cho con người, mà chính các Ngài đã
dùng để tự giải thoát mình. Chúng ta là những người đi sau, khi khảo lại
những tư tưởng, những đường lối của các bậc đàn anh đi trước, phải làm
sao để những tư tưởng ấy ngày một thêm sáng láng, những đường lối ấy
ngày một thêm rõ ràng, để càng ngày càng thêm nhiều người cũng thành
Chúa, thành Phật như các Ngài. Còn nếu quả thực các Ngài xuống trần để
đi thu nạp thêm một số nô lệ, một số bầy tôi chuyên môn nịnh hót, xưng
tụng các Ngài, thì riêng tôi, tôi thấy các Ngài quả là đã làm hư hỏng
gian trần.
Tôi phải nói ngay rằng Chúa hay Phật đều
là những người hết sức khiêm tốn. Một hôm Chúa Jesus vì xưng: «Ta và Cha
ta là một», nên bị người Do Thái vác đá ném. Ngài liền trích dẫn câu
Thánh Vịnh 82 để bào chữa. Ngài cãi: «Trong luật các ngươi, lại đã không
viết sao: "Ta bảo các ngươi đều là Chúa".
Luật gọi là Chúa, những kẻ được Chúa đối thoại – lời Kinh Thánh dĩ nhiên
không thể hủy – thế mà kẻ đã được Thiên Chúa tôn phong và sai xuống gian
trần, chỉ vì xưng mình là con Thiên Chúa thì các ngươi lại cho là phạm
thượng...» (John, 10:34).
Như vậy, Ngài đã long trọng tuyên bố rằng
mọi người đều là Chúa, đều có khả năng trở thành những Con Thiên Chúa.
Chính vì thế mà Ngài cho rằng khi xưng mình là Con Thiên Chúa, thì chẳng
có chi là phạm thượng.
Bản Kinh Thánh Nguyễn Thế Thuấn dịch: «Các
ngươi là thần.» Nhưng bản Thánh Kinh King James Version thì dịch: «Ye
are gods»; bản Bible de Jerusalem bằng Pháp văn dịch: «Vous êtes
des dieux».
Xưa nay không ai dám
dịch: Các ngươi đều là Chúa. Nhưng tôi dám dịch như vậy, vì dựa
vào toàn bộ thông điệp của Chúa Jesus. Thông điệp ấy như sau:
1) Ngài cho rằng Ngài và chúng ta đều là
con một Thiên Chúa, vì thế mới lập ra kinh Pater Noster (Lạy Cha chúng
tôi) (Mat. 6:9- 13).
2) Nếu ở trên đây ta dịch: Các ngươi là
thần, thì Chúa Jesus cũng chỉ gọi Đức Chúa Cha là Thần (John 4:24).
3) Nếu Ngài xưng mình là một với Thượng
Đế, thì Ngài cũng cầu xin, cũng ước nguyện cho mọi người được nên một
với Thượng Đế như Ngài (John 17:21)
4) Ngài cũng tuyên xưng nếu ta yêu được kẻ
thù của ta, thì ta cũng được gọi là Con Thiên Chúa (Mat. 5:45)
5) Ngài cho rằng nếu chúng ta có niềm tin
về giá trị và thân thế của mình, thì cũng làm được những phép lạ như
Ngài, hoặc hơn Ngài (Mat. 17:20. Luke 17:6; Mat. 21:21. John 13: 12)
6) Ngài cho rằng vì Thiên Chúa là Thần,
nên ta phải thờ Ngài bằng thần (John 4: 24). Hơn nữa Ngài đoan quyết
rằng: Muốn vào Nước Trời, con người phải sinh lại bằng thần (John 3: 5).
Thế tức là con người muốn vào nước Trời, trước tiên phải thành Thần.
7) Thánh Paul cũng chủ trương con người sẽ
trở thành những con Thiên Chúa mai sau, sẽ đạt tới tầm kích chúa Kitô,
để Chúa Kitô sẽ trở thành Người Anh Cả của vô vàn đàn em (Eph. 4:13.
Rom. 8:18- 30).
8) Ước vọng xưa của người Công giáo là sẽ
trở thành đấng Kitô khác (Alter Christus).
9) Sách Khải Huyền hứa cho những người đắc
đạo sẽ được ngồi tòa Thiên Chúa như Chúa Jesus (Rev. 3:21).
Trong tiếng Anh có chữ ATONEMENT: Chữ này
thường được hiểu là Sự Chuộc tội do một đấng Cứu Thế.
Nhưng thực ra chữ ATONEMENT gồm 3 chữ: AT
- ONE- MENT: Tức là Kết hợp nhất như (với Thượng Đế).
Nếu ta hiểu GIẢI THOÁT là kết hợp nhất như
hoặc là với Thượng Đế như kiểu nói Âu Châu, hoặc là với Đại thể vũ trụ,
với Atman- Brahman như kiểu nói Ấn giáo; hay với Như Lai, với Chân tâm,
Phật tính theo kiểu Phật giáo, thì ta thấy rằng: Con người chỉ khi đạt
tới giải thoát mới trở thành bất tử.
Theo tôi đó là cách hiểu hai chữ giải
thoát một cách đứng đắn nhất. Từ xưa đến nay, nhân loại chính vì không
hiểu nổi định mệnh sang cả mà Trời đã dành cho mọi người, nên khi thấy
Chúa Jesus xưng mình là một với Thượng Đế, thì tưởng chừng như là một
chuyện kinh thiên động địa, mà chỉ một mình Chúa Jesus làm được, còn mọi
người khác đều muôn đời không bao giờ có thể làm được như vậy. Ôi, quả
thực là một điều, ngu muội, lầm lẫn lớn lao, một sự xỉ nhục lớn cho nhân
quần. ước gì nhân quần sớm giác ngộ được định mệnh cao sang của mình.
Vậy con người sinh ra đời này cốt là để
thực hiện Chân Ngã, thực hiện Thiên Chúa nơi mình, để thành Chúa, thành
Phật; chứ không phải để lạy Chúa; lạy Phật. Srila Prabhupada, một đạo sư
Ấn Độ nói: «Mục đích cuộc đời là để thành Chúa, thành Thần, nhưng các
khoa học gia không biết chuyện đó. Xã hội nhân quần hiện nay bị hướng
dẫn bởi những kẻ mù, kẻ điên. Những người mang danh là chuyên viên, khoa
học gia, triết gia, đều không biết mục đích chân thực của cuộc đời. Còn
chúng nhân thì cũng đui mù như vậy. Thế là một người mù dẫn một lũ mù,
thì làm sao mà đạt được kết quả. Không thể nào như vậy được. Chúng ta
phải đi tìm những người đã giác ngộ, mới có thể tìm ra được chân lý.»
Xưa nay bàn về giải thoát không biết cơ
man nào là người. Nhưng vấn đề vẫn hết sức mơ hồ, vì nó đòi hỏi một điều
kiện là người đạo sĩ phải chứng nghiệm giải thoát nơi chính bản thân. Tu
chứng giải thoát không phải là súc tích kiến văn, mà chính là giác ngộ
tâm linh, hồi quang phát huệ.
1. CHỨNG NGHIỆM TỰ TÍNH
Điều kiện tiên quyết là nhận ra được rằng
mình có THIÊN TÍNH, có PHẬT TÍNH. Bất kể những phương tiện đã dùng là
những phương tiện gì: sống đời tu trì, khổ hạnh; quán tưởng, thiền định;
mặc khải, giác ngộ nhưng kết quả chỉ là một: Thấy rằng mình với Đại thể
vũ trụ chỉ là Một chứ không hai, thấy rằng trong cái thân tứ đại của
mình, có Đại thể vô biên, làm căn cơ vũ trụ và muôn loài, muôn vật.
Huệ Năng viết về ngộ Đạo như sau:
«Đạo do tâm ngộ, há ở việc ngồi thiền sao?
Kinh nói: Kẻ nào chỉ thấy Như Lai ở hình tướng, hoặc ngồi, hoặc nằm, ắt
hành tà đạo. Vì sao vậy? Vì Như Lai không từ đâu đến cũng chẳng đi về
đâu, không sanh, không diệt. Nhận ra cái thể không đến, không đi, đó là
Như Lai thanh tịnh thiền. Nhận ra cái lẽ vạn vật đều không tịch đó là
Như Lai thanh tịnh tọa.
Đạo không có sáng tối. Nói sáng tối là nêu
cao cái nghĩa đắp đổi lại qua. Sáng sáng không cùng rồi cũng phải cùng,
Cũng vậy, đạo không có phiền não với bồ đề
đối đãi nhau. Vì sao? Vì phiền não tức bồ đề, chẳng phải hai, chẳng phải
khác. Nếu lấy trí huệ chiếu phá phiền não, đó là kiến giải của hàng
Thanh văn, Duyên giác cỡi xe nai dê; hàng trí cao căn lớn quyết không
như vậy.
Sáng với không sáng, kẻ phàm thấy "có
hai", bậc trí thấu rõ tánh nó "Vô nhị". Cái tánh vô nhị ấy là chân như
thực tánh. Tánh ấy bình đẳng ở muôn vật, ở phàm ngu chẳng bớt, ở hiền
thánh chẳng thêm, ở phiền não chẳng loạn, ở thiền định chẳng tịch; cái
thấy vô nhị tuyệt đối ấy, thấy chẳng đoạn, chẳng thường; chẳng đến,
chẳng đi; chẳng ở giữa, chẳng trong ngoài; chẳng sinh, chẳng diệt; tánh
tướng như như, thường trụ chẳng dời, đó gọi là Đạo.
Nếu Ông muốn biết chỗ tâm yếu của Thiền
thì lành dữ tất tất chớ nghĩ đến thì tự nhiên ngộ nhập trong thể tánh
thanh tịnh của tâm, tuy vắng lặng linh minh, mà diệu dụng thì vô tận đáp
ứng với thế sự vô cùng.» (Đàn Kinh, phẩm Hộ pháp).
2. PHẢI CÓ BẢN ĐỒ
Cũng như muốn di chuyển trong một thành
phố cho khỏi lạc, chúng ta phải có bản đồ của thành phố ấy, muốn tìm cho
ra con đường giải thoát, chúng ta cũng cần có một bản đồ. Từ nhiều năm
nay, tôi đã cố vẽ ra một đồ bản về các tầng lớp trong con người. Tôi đã
vẽ các tầng lớp trong con người thành bảy vòng tròn đồng tâm như sau:
1. Vòng trong cùng là Thái Cực, hay Chân
Ngã, hay Bản thể Vũ trụ, hay Đại Linh Quang.
2. Vòng thứ hai là Khí (Pneuma, Animus),
hay Hồn Thanh hướng về Chân Thiện, Mỹ (HỎA = FIRE).
3. Vòng thứ 3 là Trọc Hồn (anima, soul),
gồm thất tình, lục dục, chịu ảnh hưởng của từ trường, từ lực, mà người
xưa gọi là sống trong vòng duyên nghiệp, sắc tướng hay thanh sắc (KHÍ =
AIR).
4. Vòng thứ 4 gọi là vòng Trí Não
(intellect), cơ quan sinh ra tâm tư, niệm lự (THỦY = WATER).
5. Vòng thứ 5 là vòng thể xác, ngũ quan
(ĐỊA = EARTH).
6. Vòng thứ 6 tượng trưng cho gia đình,
quốc gia, xã hội (Vòng lợi danh, và ái tình, duyên nợ).
7. Vòng thứ 7 bên ngoài tượng trưng cho
ngoại cảnh vật chất, cho các nghề nghiệp, cho các phương cách ta dùng để
khai thác ngoại cảnh; nó bao gồm ngoại cảnh, từ bàu khí quyển quanh
mình, đất đai, vạn hữu quanh mình cho tới các giải tinh cầu xa nghìn
triệu năm ánh sáng (Vòng hồng trần; trần ai, tục lụy).
Chúng ta là LINH QUANG, phát xuất từ Đại
Linh Quang (Vòng 1), dần dần khoác lấy thân Tứ Đại (Hỏa = Fire; Khí =
Air; Thủy = Water; Thổ = Earth), vướng mắc vào những vòng duyên nghiệp,
lợi danh, trần ai, tục lụy, nên như ăn phải cháo lú, quên mất giá trị
siêu linh của mình, quên mất đường về. Mục đích vẫn là vòng trong cùng,
tượng trưng cho Khối Đại Linh Quang, bản thể vũ trụ và con người. Khi ta
hiểu rõ như vậy, ta sẽ thấy những lời sau đây của Chúa Jesus không có gì
là bí ẩn nữa: «Ta từ Cha ta mà ra, xuống hồng trần này, rồi lại thoát
hồng trần, trở về với Cha.» (John 16: 28); và ta cũng nhìn ra đâu là
vòng duyên nghiệp, đâu là thân tứ đại giả hợp, đâu là trần ai, tục lụy.
Giải thoát là trở về được Trung Cung (Vòng
Thái cực, vòng 1).
Luân hồi là luân lạc trong các vòng ngoài
từ 2 đến 7...
Nếu ta cắt 7 vòng trên ra thành 1 hình
chóp nón, ta sẽ thấy vòng trong cùng trở thành cái chóp, cái ngọn; vòng
ngoài cùng sẽ trở thành cái đáy, cái chân. Suy ra càng gần ngọn, càng
khinh thanh, càng nhẹ nhàng; càng gần chân, gần đáy, càng nặng nề trọng
trọc. Nói thế có nghĩa là muốn trở về Trung Cung, Thái Cực, trở về Bản
Thể, phải gạn đục, khơi trong tâm hồn.
3. HAI HƯỚNG ĐI, HAY HAI CON ĐƯỜNG
Chúng ta hãy vẽ bảy vòng tròn trên thành 7
vòng tròn đồng tâm, rồi lại vẽ hai con đường từ TÂM ra BIÊN, và từ BIÊN
vào TÂM. Ta gọi con đường từ TÂM ra BIÊN laø con đường ÂM, đường TRỤC
VẬT, đường PHÓNG NGOẠI, đường TỤC LỤY, ĐỌA ĐẦY; còn con đường từ BIÊN về
TÂM là con đường siêu thăng, con đường đưa tới hạnh phúc vĩnh cửu, con
đường sinh thánh, sinh thần, qui nguyên, phản bản. Vẽ xong, ta sẽ hiểu
hết bí quyết của người xưa, từ Đông sang Tây, khi bàn về 2 con đường
hướng ngoại và hướng nội.
Khi tìm ra được rằng con đường HƯỚNG NGOẠI
là con đường HƯỚNG VẬT; con đường HƯỚNG NỘI là con đường HƯỚNG THIÊN,
tôi liền nhìn nhận ra con đường của THẦN, PHẬT, THÁNH, TIÊN. Mà lạ lùng
thay con đường hướng nội hoàn toàn nằm gọn nơi thân thể con người.
Đức Phật cũng đã tìm ra được con đường ấy.
Ngài tự thuật như sau: «Cũng như người bộ hành sau bao thuở lang thang
trong cánh đồng hoang vắng rốt cuộc thấy một con đường cỏ, con đường bao
người trước đã đi qua; ta bèn noi theo đó mà đi, và gặp làng mạc, cung
điện, vườn tược, núi rừng, hồ sen, thành quách, và nhiều cảnh trí khác
từng làm nơi an thân lập mệnh của bao người trước.»
Hai ngả đường SỐNG, CHẾT đó đã được Yahve
phơi bày ra trước mặt chúng ta tự ngàn xưa: «Ta đặt trước mặt ngươi sự
sống và sự chết, ngõ hầu ngươi được sống, ngươi và dòng giống ngươi, là
yêu mến Yahve Thiên Chúa của ngươi, là vâng nghe tiếng Người, và khắn
khít với Người, vì đó là sự sống của ngươi...» (Deuteronome 30:19)
Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism) bàn về hai
ngả đường Thiện Ác như sau: «Thượng Đế tạo dựng nên vũ trụ, và nhân đó
sinh ra lưỡng thần Thiện, Ác... Thượng Đế khuyên mọi người đi theo đường
của Thần Thiện (Spenta Mainyu), đừng đi theo con đường của Thần Ác
(Angre Mainyu), vì Ác mang đến chết chóc và hủy hoại; Thiện mang đến
trường sinh và hoàn thiện...»
[3]
Hai lối đường HƯỚNG NGOẠI (ÂM, THUẬN),
HƯỚNG NỘI (DƯƠNG, NGHỊCH) giúp chúng ta nhìn thấy lẽ nhất quán của các
đạo giáo, và ta mới hiểu tại sao Thiền tông lại nói:
«Hướng ngoại mà tìm cầu,
Tất cả đều ngoan si.
Hướng nội mà tìm cầu,
Tất cả đều chân thực.»
(Đại Đức Thiên Ân, Triết học Zen I,
tr. 103).
Trong kinh Tu sám yếu chỉ, nơi cuối kinh
Pháp Hoa cũng lý luận rất rõ về hai hướng đi, hai con đường: Con đường
hướng ngoại, trục vật dần dà sẽ đưa tới sa đọa, diệt vong. Hướng ngoại
trục vật chính là MÊ CHÂN, TẠO ÁC, chính là đi ngược dòng NIẾT BÀN, đi
xuôi dòng vào Bể Sinh Tử... yêu đời, luyến cảnh, để cuối cùng có thể
thành một đại xiển đề gian ác, trầm luân trong vòng sinh tử, không kỳ
giải thoát... Còn như nếu biết hồi hướng, đi theo con đường hướng nội,
hồi quang, phản chiếu, sẽ giác ngộ, sẽ khiến cho tâm mình chuyển ngược
dòng sinh tử, thuận theo đạo Niết Bàn, thấu hiểu được TÂM TÍNH BẢN TỊCH
(hay PHẬT TÍNH) nơi mình. Tôi không dịch nguyên văn, mà chỉ bàn theo ý
kinh, cho lời lẽ tôi được sáng sủa. Quí vị nào muốn đọc nguyên văn, xin
tìm đọc kinh Thủy Sám Yếu Chỉ, nơi các trang 4b và 5a, nơi đoạn «Thuận
nghịch thập tâm... Mê ngộ lưỡng phái».
Người xưa cũng nói: «Thuận tắc sinh nhân
sinh vật, nghịch tắc sinh Thánh, sinh Thần.»
Năm 1968, Bà Elizabeth O'Connor cũng đã
xuất bản một quyển sách nhan đề: Journey Inward, Journey Outward
(Hành trình hướng nội, hành trình hướng ngoại), Harper & Row Publishers,
New York xuất bản. Thư viện 24 ở Tustin có tàng bản, dưới số 289.9). Đại
khái sách chủ trương: Hướng ngoại để phục vụ, hướng nội để tu chứng.
Hướng nội là con đường đưa tới Nước Trời nội tâm; hướng ngoại là con
đường dễ dãi của quần chúng, dần dà sẽ làm cho con người trở nên ù lì,
có mắt mà chẳng biết nhìn, có tai mà chẳng biết nghe... Hướng ngoại sẽ
không thể nào thực hiện được định mệnh sang cả của mình. Trời đất ra
công cảnh cáo cho con người biết đàng hồi hướng, bằng muôn cách thế như
cho thấy trong người bực dọc không yên, cho đêm nằm không ngủ, cho cảm
thấy bất bình, không thỏa mãn, cho giận dữ, cho thấy chán chường, cho
thấy đời vô ý nghĩa, v.v... Tiếc thay, nào có mấy ai, nghe thấy được
những tiếng thầm, lời thiêng ấy. Tôi bái phục cao kiến của tác giả và
hoàn toàn đồng ý với tác giả.
Hồi còn ở Việt Nam, khoảng những năm từ
1968 đến 1976, tôi có đến diễn thuyết nhiều lần tại Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Cao Đài tại 179 Cống Quỳnh, Saigon. Và chủ thuyết mà tôi muốn
rao truyền là trong lòng ta đã sẵn có Đạo, có Trời, cho nên con người
phải đi sâu vào nội tâm, để mà tìm Đạo, tìm Trời. Sau khi tôi rao giảng
chủ thuyết này một thời gian, thì ngày 1, tháng 10, 1972, Đức Diêu Trì
Kim Mẫu giáng đàn, và đã dạy như sau:
«Biết rằng đời tu thân
hành đạo của các con phải có hai phần: Một là hướng ngoại, hai là hướng
nội.
«Hướng ngoại để liên ái,
đoàn kết, trao đổi kinh nghiệm học hỏi, làm phương tiện để cầu tiến. Còn
hướng nội để lóng nghe tiếng nói của lương tâm, lời dặn dò của bản linh
chân tánh, cái Chân Lý của tâm linh. Hướng nội để các con rời bến mê,
đến bến giác, mới mong trở về cùng Thày, cùng Mẹ; hay nói một cách khác,
trở về cùng Khối Đại Linh Quang...»
Đàn cơ trên đã được đăng trong Cao Đài
Giáo Lý số 80, nơi trang 6, dưới đầu đề: Trung Thu Mẹ nhủ con
hiền.
Đọc đàn cơ trên, tôi hết sức được yên ủi,
vì thấy Thần, Thánh như «đồng vọng» lại tư tưởng của mình, và hoàn toàn
tán đồng chủ trương của mình.
Tôi khảo về Cao Đài giáo một cách hết sức
khách quan trong vòng nhiều năm. Tôi biết rõ từng đồng tử. Các cháu đó
chỉ khoảng 15, 16, không có cách nào mà có thể có những tư tưởng cao
siêu như trên được.
Khi viết bài này, tôi ngẫu nhiên dở lại
một bài diễn văn của tôi vào khoảng tháng 10/73, dưới nhan đề: «Các
tầng lớp trong con người với khoa tôn giáo đối chiếu», tôi thấy tôi
đã dày công dùng các thánh thư các đạo giáo trên hoàn võ để chứng minh:
phải đi vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời. Tôi sung sướng đọc lại lời Kinh
Ketha Upanishad: «Đại Ngã trổ cửa giác quan thông ra phía ngoài, cho nên
người ta nhìn ra phía ngoài mà không biết nhìn vào trong lòng mình. Có
vài kẻ khôn ngoan, trong khi đi tìm trường sinh bất tử, nhờ nội quan
quán chiếu, đã trực diện quan chiêm được Đại Ngã.» (Sách trích dẫn IV,
1- 4; 10- 11).
Và tôi rất đắc ý, khi toát lược sách Đạt
Ma Huyết Mạch Luận của Sư Tổ Đạt Ma bằng mấy vần thơ sau, từ hơn 30 năm
trước đây:
Chân Tâm bao quát đất trời,
Xưa nay chư Phật chẳng ngoài Chân Tâm
Chẳng cần lập tự, lập văn,
Xưa nay chư Phật tâm tâm tương truyền.
Tâm ta gồm mọi sự duyên,
Mọi đời sau trước, mọi miền gần xa.
Tâm ta là chính Phật Đà,
Phật Đà ở tại Tâm ta chẳng ngoài.
Niết Bàn, Viên Giác, Như Lai,
Ngoài Tâm tìm kiếm công toi, ích gì.
Ngoài Tâm tìm kiếm được chi,
Niết Bàn đâu có lối về ngoài Tâm.
Tự Tâm chí chính, chí chân,
Tự Tâm là Phật, Tự Tâm Niết Bàn,
Ngoài Tâm tìm kiếm đa đoan,
Tay không bắt gió, mơ màng hư vô.
Tâm ta tạo Phật cho ta,
Bỏ Tâm tìm Phật, hỏi là tìm đâu.
Phật, Tâm; Tâm, Phật trước sau,
Ngoài Tâm tìm Phật hỏi sao chẳng lầm.
Cho nên phải biết hồi tâm,
Nội quan quán chiếu mà tầm siêu linh,
Bản Lai Diện Mục của mình,
Muốn tìm thời phải ly hình nhập tâm...
Từ hơn 30 năm nay, nhờ học Dịch và các
khoa Huyền Học Đông Tây, và triền miên suy tư, chiêm nghiệm, tôi đã tìm
ra được hai ngả đường nói trên.
Năm 1960, tôi đã viết trong bộ Trung Dung
Tân Khảo như sau:
Gẫm đạo lý có sau, có trước,
Lẽ âm dương có ngược có xuôi.
Ngược là gió cuốn bụi đời, (ám chỉ quẻ
Thiên Phong Cấu)
Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm,
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than, mới rõ chuyện đời.
Khi xuôi sấm chớp tơi bời, (ám chỉ quẻ
Địa Lôi Phục)
Tầng sâu bày giãi căn Trời nội tâm,
Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu sẽ định, sẽ an.
Rồi ra, suy xét nguồn cơn,
Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ...
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng hai chữ
«thuận nghịch»
thay đổi nghĩa, tùy như là tác giả muốn nói thuận gì, và nghịch gì.
Trong bài thơ trên, tôi mường tưởng như
Trời ở trong tâm vũ trụ và trong tâm con người, nên chiều đi ra sẽ là
chiều Bối Thiên (quay lưng lại với Trời), hay Nghịch Thiên. Chính vì thế
mà tôi gọi là NGƯỢC.
Chiều đi vào, chiều hướng nội, sẽ là chiều
Hướng Thiên, Thuận Thiên (chiều quay trở lại với Trời). Chính vì thế mà
tôi gọi là XUÔI.
Trái lại nhiều người khác gọi chiều đi ra,
chiều hướng ngoại, chiều đi từ Nhất đến Vạn, là chiều
«đi theo dòng đời»,
«đi vào ngoại cảnh»,
hay là đi theo chiều thuận. THUẬN đây là
«thuận dòng đời»,
nên dĩ nhiên là bị đọa lạc.
Còn đi
«ngược dòng đời»,
là đi vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời. Nên đi vào con đường này sẽ giác ngộ
tâm linh, thành chân, chứng thánh, thành Tiên, thành Phật.
Cho nên, nơi khác trong bộ Trung Dung Tân
Khảo của tôi, tôi lại viết:
Sông thế sự hãy ưa chèo ngược,
Chèo ngược dòng lên tuốt Căn Nguyên,
Căn Nguyên là chính Thanh Thiên,
Vô biên, vô tận, triền miên không cùng.
Bỏ phù phiếm, tìm tông, tìm tích,
Dương cung thần, ngắm đích thâm tâm.
Bắn vào Trung điểm tâm thần,
Ấy là thoát cõi hồng trần lầm than,
Như trăng sáng, băng ngàn trần thế,
Rẽ Đẩu, Ngưu, đượm vẻ thần tiên.
ẤY là Tâm Pháp thánh hiền,
ẤY là Trung Đạo tương truyền xưa nay.
Cuộc phù thế, chớ say danh lợi
Bả lợi danh phất phới hão huyền,
Chớ mê những cái đảo điên,
Mà quên mất cái vững bền ngàn thu.
Con đường hướng ngoại trục vật, Dịch gọi
là chiều ÂM, bắt đầu từ Cấu đến Khôn, càng ngày càng tối đen, tối sẫm.
Chính vì thế mà nơi
chương 33, Trung Dung
đã viết:
Đạo tiểu nhân mới ngó, ngỡ là đèn,
Nhưng càng ngày, càng tối đen, tối
sẫm...
Con đường hướng nội, để thành chân chứng
thánh, Dịch gọi là chiều DƯƠNG, bắt đầu từ quẻ Phục tới quẻ Kiền. Nơi
quẻ Phục, cho thấy Trời hiện ra chói lọi nơi tâm (Phục kỳ kiến Thiên Địa
chi Tâm hồ?
復
其
見
天
地
之
心
乎). Nơi quẻ Kiền, cho thấy con
người đã thành chân đắc đạo: DỮ THIÊN VI NHẤT
與
天
為
一
(hợp nhất với Trời).
Sau đó sẽ vào TRUNG CUNG, TRUNG ĐIỂM, bất
biến, trường tồn.
Đạo Bà La Môn và Đạo Lão chủ trương rất
đặc biệt là Trời, Đạo, Brahman không ở đâu xa, mà đã ở ngay giữa đầu não
con người, nơi Nê Hoàn Cung (Não thất ba), theo danh từ đạo Lão; hay nơi
Sahasrara tức Bông Hoa Sen Nghìn Cánh, theo danh từ Bà La Môn.
Và Mạch Đốc (chạy xuyên qua tủy xương
sống) là con đường lên trời. Đạo Lão gọi đó là Thiên kinh. Còn Mạch Nhâm
phía trước, hay Thần lộ, là con đường từ Trời xuống con người. Một Đạo
gia muốn luyện nội đơn, thành chân, chứng thánh phải biết vận dụng Chân
Khí qua Nhâm Đốc, và tụ Thần Khí nơi Nê Hoàn...
Huyệt Vĩ Lư dưới cuối xương sống, Bà La
Môn gọi là Cửa Brahman (Brahmadvâra). Luân xa Sahasrara là nơi
«Trời Người hợp nhất».
Thóp nơi đỉnh đầu (huyệt Bá Hội), Bà La Môn gọi là Thượng Đế huyệt
(Brahmarandhra = Trou de Brahman).
Hai mạch Nhâm Đốc hợp lại thành một vòng
Hoàng Đạo nơi con người...
Khoa Thiên văn cả Đông lẫn Tây cũng đã đem
sao trời vẽ thành hai nẻo đường ấy, trên vòng Hoàng Đạo.
Chiều Âm bắt đầu từ cung Cự Giải (Cancer)
cho tới cung Nhân Mã (Sagittarius) theo Âu Châu; từ chòm sao Tỉnh, đến
chòm sao Cơ, theo Á Châu.
Chiều Dương từ cung Ma yết (Capricorn) tới
cung Song Tử (Gemini) theo Âu Châu; từ chòm sao Đẩu tới chòm sao Sâm
theo Á Châu.
Nhưng dù có vẽ lên trời, dù có ghi trong
sách thánh, dù Chúa Jesus đã dạy rằng
«Nước Trời không ở đây, ở
đó mà đã ở sẵn trong lòng chúng ta.»
(Lu. 17:21), quần chúng, như một bày cừu dại, vẫn ùa nhau đi tìm
nước Trời bên ngoài, theo những tiếng chào mời đường mật, những lời hứa
hẹn quàng xiên của một số thày đời!
Và lời Chúa kêu gọi trong Thánh kinh:
«Jerusalem, Jerusalem,
convertere ad Dominum Deum tuum!»
(Hỡi Jerusalem, hỡi Jerusalem, hãy quay trở lại với Chúa Trời
Chúa ngươi) (cf. De Lamentatione Jeremiae prophetae, hát trong Tuần
thánh) hay «Convertere, Israel, ad Dominum Deum tuum.» (Hỡi Israel, hãy
trở lại cùng Chúa Trời, Chúa ngươi) (Osea.14:2) từ bao nghìn năm nay chỉ
là tiếng kêu trong sa mạc... Quần chúng nào biết TRỞ LẠI là gì đâu! Thảm
thương thay!
Tóm lại, phân biệt ra hai nẻo đường thuận,
nghịch; hướng ngoại, hướng nội, là một công chuyện tối ư quan trọng. Đi
sai hướng không thể tới đích. Nếu nhà bạn tôi ở phía Bắc, mà tôi xuống
phía Nam đi tìm, thì dẫu tôi có thiện chí mấy, cũng uổng công. Tục ngữ
ta cũng đã có câu:
Tìm anh như thể tìm chim,
Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông...
4. BIẾT ÁP DỤNG ĐỊNH LUẬT TRỜI ĐẤT MỚI
MONG GIẢI THOÁT
Định luật trời đất chính là những định
luật TỤ, TÁN; VÃNG LAI; DOANH, HƯ; TIÊU TỨC; BIẾN DỊCH, TUẦN HOÀN.
Thần có Tụ, thần mới linh; Thần Tán là
thần đọa lạc. Chính vì vậy mà ta thấy xưa nay, người ta ngồi thiền, hay
thiền định, cốt là để thu thần, định trí.
Tu luyện phải biết lợi dụng thời gian sinh
lý, tức là thời gian tuổi tác.
Trẻ thì hướng ngoại, già thời hướng nội.
Trẻ thì đi ra (VÃNG
往
); già thì đi vô (LAI
來
).
Trẻ thì thần khuyết (hư
虚
), già thời thần tròn (doanh
盈
), chẵng khác nào vầng trăng khi khuyết, khi tròn.
Thần khuyết cũng là thần
«tiêu»
消
; thần «doanh»
盈
cũng là thần «tức»
息
. «Tiêu»
消
là mai một, mất mát. «Tức»
息
là sinh sôi, là trưởng đại. Sự đời bên ngoài có biến dịch, có
tuần hoàn. Con người chúng ta cũng có biến dịch, có tuần hoàn. Người xưa
nói: «Tùy thời biến dịch, dĩ
tòng Đạo.» . Chúng ta từ
Đạo phát sinh, chúng ta lại biến thiên, để quay trở về với Đạo thể.
Thế là ta đã hiểu các định luật TỤ
聚
, TÁN
散
; VÃNG
往
, LAI
來
; DOANH
盈,
HƯ 虚;
TIÊU
消, TỨC
息
; BIẾN DỊCH
變
易
, TUẦN HOÀN
循
環
.
Người xưa chủ trương muốn giải thoát cần
phải biết mình có hai thứ căn bản, có hai thứ tâm.
- Một là Chân tâm, hay Pháp thân, vĩnh cửu
trường tồn.
- Hai là Vọng tâm, hay Hóa thân, biến
thiên, ảo hóa.
Nếu cuộc đời ta, lấy Pháp thân làm
«trọng tâm»,
ta sẽ biết điều ngự vọng tâm, kiềm chế vọng tâm, thu nhiếp vọng tâm,
khiến cho vọng tâm hoàn toàn thể nhập vào Chân tâm, vào Pháp thân.
Tư tưởng trên đây được vẽ ra thành những
Yantra hay Mandala của Mật tông (Tantrism), mà tâm điểm của hình vẽ bao
giờ cũng là một vị Phật.
Nếu cuộc đời ta đặt trọng tâm vào Vọng
tâm, tức là vào Dục Vọng, vào Tham, Sân, Si, ta sẽ mãi mãi ở trong vòng
sinh tử luân hồi, sẽ mãi mãi đi vào Lục đạo, Tam đồ.
Tư tưởng trên được vẽ ra thành những hình
Karma (Duyên nghiệp), mà tâm điểm bao giờ cũng có hình con lợn, con gà,
con rắn tượng trưng cho tham, sân, si, tức là vọng tâm; còn vòng tròn
bên ngoài vẽ lục đạo (Thiên (Tiên); Atula (thần); Nhân (người); Địa
ngục; Ngạ quỉ (Ma đói); Súc sinh (thú vật).
Lục đạo tức là các cung cách sinh tử, luân
hồi.
Nói theo khoa học, Thái Cực hay Bản thể
chúng ta là Linh Quang (vòng tròn trong cùng). Tâm hồn chúng ta (vòng
2,3) là từ lực, từ tuyến. Mà từ lực, từ tuyến cũng là thế giới của DỤC
VỌNG; CỦA ÁI, Ố; CỦA THANH ÂM VÀ MÀU SẮC. Con người chúng ta, muốn đạt
lại cái vô biên của Linh Quang, cần phải thoát khỏi vòng từ lực, từ
tuyến của nhân tâm; vòng thanh âm, màu sắc của ngoại cảnh. Có vậy mới
hiểu tại sao trong Mười Điều Răn của Cựu ước, Điều Răn thứ Hai lại cấm
thờ Ảnh Tượng; và tại sao Kinh Kim Cương lại dạy phải vượt lên trên
THANH SẮC:
«Nhược
dĩ SẮC kiến Ngã,
若
以
色
見
我
Dĩ ÂM
THANH cầu Ngã,
以
音
聲
求
我
Thị nhân
hành tà đạo,
是
人
行
邪
道
Bất năng
kiến Như Lai.»
不
能
見
如
來
Dịch:
Nếu lấy SẮC nhìn Ta,
Lấy ÂM THANH tìm ta,
Kẻ ấy đi tà đạo,
Không thể thấy Như Lai.
Cũng một lẽ, đạo Lão khuyến cáo đừng để
cho âm thanh và màu sắc làm choáng lộn tâm thần.
Đạo Đức Kinh chương XII viết:
Sắc năm màu làm ta choáng mắt,
Thanh năm cung ngây ngất lỗ tai.
Năm mùi tê lưỡi, nếm sai,
Ruổi rong săn bắn, lòng người đảo điên.
Của hiếm có ngả nghiêng nhân đức,
Khinh giác quan, giữ chắc lòng son,
Thánh nhân hiểu lẽ mất còn.
Trang tử còn có những lời lẽ mãnh liệt hơn
nhiều: Trong chương Biền Mẫu (Nam Hoa Kinh), ông viết:
Đem nhã nhạc đảo điên tính khí,
Sư Khoáng kia nào quí chi đâu.
Tính Trời lệ thuộc năm mầu,
Ly Chu ta cũng trước sau coi hèn...
Chung qui, Giải thoát là bỏ NHÂN TÍNH, mà
mặc lấy THIÊN TÍNH, bỏ NHÂN TÂM, VỌNG TÂM, mặc lấy PHÁP THÂN, về với
CHÂN TÂM.
Cho nên, trong khi phàm phu tục tử hô hào
cứu vớt cái nhân tâm, cái hồn, các bậc thành chân, chứng thánh lại đồng
thanh hô hào vứt bỏ cái vọng tâm, cái hồn cá biệt, riêng tư.
– Đạo Lão dạy: TÂM TỬ, THẦN HOẠT
心
死
神
活
(HỒN CHẾT, CHO THẦN SỐNG).
– Đạo Nho dạy: NHÂN DỤC TẬN, THIÊN LÝ HIỆN
人
欲
盡
天
理
現
.
– Bà La Môn dạy: CON LÀ CÁI ẤY (Con chính
là ATMAN, BRAHMAN).
– Chúa JESUS phán trong Phúc âm: «Ai muốn
cứu hồn mình, thì sẽ mất. Ai mất hồn mình vì Ta, thì sẽ được.»
Cao ý vẫn là bỏ thân phận phàm hèn của con
người – Phúc Âm gọi thế là BỎ MÌNH – để thay bằng thân thế cao sang của
Trời. Chân lý cao đại này sẽ là tiếng sét khủng khiếp bên tai kẻ phàm
phu. Họ không bao giờ dám chấp nhận đó chính là chân lý vĩnh cửu...
Triết phái Vedanta Ấn Độ chủ trương dứt
khoát rằng:
Brahman hay Atman, Linh Thần Tuyệt Đối của
Vũ Trụ được che lấp nơi con người bằng 5 lần vỏ:
1. Vỏ ngoài cùng là VỎ THỨC ĂN.
2. Rồi tới VỎ SINH KHÍ.
3. VỎ TÂM TƯ.
4. VỎ TRÍ TUỆ.
5. VỎ HẠNH PHÚC.
trong cùng là ĐẠI NGÃ, nằm khuất lấp sau
bức màn Vô MINH (AVIDYA).
VỎ THỨC ĂN là Thô thân (coarse body), là
nhục thể.
VỎ TRÍ, TÂM, KHÍ là Tế thân (subtil body).
VỎ HẠNH PHÚC là Nhân thân (causal body).
Tất cả các vỏ này đều còn ở trong vòng SINH TỬ, LUÂN HỒI (SAMSARA),
trong vòng ẢO HÓA (MAYA), trong vòng MÊ VỌNG (AVIDYA), trong vòng KHÍ
CHẤT (PRAKRITI).
Đạt tới BRAHMAN, ATMAN mới là CHÂN GIẢI
THOÁT (MOKSA), CỨU RỖI (SALVATION), VÀ GIẢI THOÁT (MOKSA).
Muốn cho vấn đề được sáng tỏ hơn, ta sẽ so
sánh CỨU RỖI (CỨU CHUỘC) và GIẢI THOÁT.
* CỨU RỖI
Quần chúng thường tin rằng Chúa Jesus, hay
Phật Thích Ca, hay Lão tử giáng trần là để cứu rỗi mọi người. Còn quần
chúng thì không thể nào cứu rỗi được mình. Cho nên cứu rỗi là hoàn toàn
dựa vào THA LỰC, dựa vào quyền năng của Thánh Thần. Bên trời Âu, thì
Chúa Jesus là đấng Cứu Thế. Bên trời Đông thì Phật Di Đà là đấng Cứu
Thế. Các Ngài sẽ đem những người tin theo mình lên Thiên đàng, hay vào
Tịnh độ. Cho nên trong chương trình cứu rỗi, con người sau trước vẫn là
con người; chỉ có ngoại cảnh là thay đổi: thay vì là ở hồng trần, con
người sau khi chết sẽ lên Thiên đàng hay Tịnh thổ.
* GIẢI THOÁT
Còn các bậc thượng trí, thượng nhân, vì
cảm thấy mình có Thiên tính, là Linh quang giáng trần, nên sẽ phát huy
thần uy, thần lực của mình để băng qua hồng trần, vượt qua hình tướng để
trở về hợp nhất lại với Đại Linh Quang. Trong chiều hướng này, Con người
hoàn toàn biến thể, còn ngoại cảnh vẫn y nguyên. Con người nay đã trở
thành Trời, thành Phật.
Cho nên trước hết, GIẢI THOÁT thường hàm
nghĩa HỢP NHẤT, và TỰ LỰC.
Tuy nhiên, vì con người sống trong các đạo
giáo, nên cảm nghĩ cũng phải qua lăng kính đạo giáo, ngôn từ cũng phải
qua khuôn khổ đạo giáo, nên ta thấy hiện ra những dị biệt sau đây:
1. Chẳng hạn các đại thánh Công giáo, nhất
là các thánh phái nữ như thánh Têrêsa nhỏ ở Lisieux, thánh Catharina ở
Sienna v.v... thường coi mình là ý trung nhân, là phối ngẫu của Chúa
Jesus. Tuy nói là hợp nhất nhưng các ngài và Chúa bao giờ cũng giữ
nguyên cá tính.
2. Chúa Jesus tuyên xưng mình và Chúa Cha
là một, nhưng trong đời sống Ngài bao giờ cũng phân biệt Cha, Con và
tuyên xưng mình không bằng Chúa Cha (John 14: 28). Giữa Chúa Cha và Ngài
bao giờ cũng còn một khoảng cách biệt, và Ngài bao giờ cũng đối thoại
với Chúa Cha, cũng cố theo ý Chúa Cha, và xin chịu chết để Chúa Cha hài
lòng...
3. Các đại thánh Ấn Độ cũng nhiều người
theo đường lối trên, coi Thượng Đế là một vị Thượng Đế hữu ngã, và cũng
sùng bái, cũng tôn thờ, cũng phân «nhĩ»
爾
«ngã»
我
(Ngài, Tôi). Đó cũng chính là chủ trương của Thánh Kinh Bhagavad
Gita.
4. Cũng có những hiền thánh như Phật, như
Sankara, thì lại coi Thượng Đế không phải là vị thần hữu ngã, nhưng mà
là Căn Nguyên của Vũ Trụ, là Chân Thể của Vũ Trụ, nên không thể là Cái
Này, Cái Kia; Thần này, Thần nọ; mà là TẤT CẢ. Cho nên, đối với các
Ngài, giải thoát rốt ráo, là thể nhập vào Đại thể vô biên tế đó, không
còn chút chi phân biệt, chẳng khác nào như dòng sông ra tới biển, thì
hết còn là sông. Đó cũng là chủ trương của các bộ kinh Upanishads.
Người Âu Châu tối kỵ quan điểm này, và gán
cho nhiều tội: nào là Vô Thần; nào là tu mà trở thành hư vô, là tu vô
ích. Nhưng thực ra đó không phải là Vô Thần, mà chính là tuyên xưng THẦN
vô biên tế; kết quả tu trì không phải là trở thành HƯ VÔ, mà chính là
trở thành vô cùng vĩ đại, vĩnh cửu, miên trường.
Ngược lại Á Châu thì cho rằng nếu còn phân
nhĩ ngã, thì vẫn còn ở trong vòng nhị nguyên tương đối, nên nhiều người
dứt khoát chủ trương «Nhất nguyên vô ngã». Ấn giáo gọi thế là Advaita.
Phật giáo gọi thế là Trung Đạo hay Bất Nhị Pháp môn.
Tóm lại còn phân
«nhĩ ngã»,
là chưa đi đến chỗ siêu việt rốt ráo, là còn ở trạng thái Hữu Dư Niết
Bàn (Salvikalpa). Phải vươn vượt lên tới trạng huống vô nhĩ, vô ngã, vô
phân biệt, mới là trạng thái rốt ráo, mới là Vô Dư Niết Bàn
(Nirvikalpa).
Nho gia cho rằng khi đạt tới trạng thái
rốt ráo nói trên, tức là vào được trung điểm hằng cửu, duy nhất, bất
phân của trời đất, nên gọi đó là Trung Dung, là Thái Hòa, vì đã siêu lên
trên Âm Dương, phân biệt. Mật tông Do Thái (Kabalah) cũng gọi thế là
Thái Hòa (harmony). Như vậy Thái Hòa chính là nơi ÂM DƯƠNG hòa hài không
còn phân biệt (coincidentia oppositorum)...
Chữ GIẢI THOÁT còn hàm ngụ sự giải thoát
chính mình – giải thoát CHÂN NGÃ – ra khỏi VÔ MINH, khỏi MÊ VỌNG, khỏi
HƯ ẢO, khỏi PHIỀN TRƯỢC, khỏi HỒNG TRẦN TỤC LỤY.
Phơi bày ra các khía cạnh của vấn đề,
không phải là cãi vã để tranh thắng, mà chính là để mỗi người tùy căn cơ
mà lựa chọn...
Trong chương này tôi đã chứng minh: Con
người có Thiên Tính.
Tôi đã vạch ra con đường để trở về với
Đạo, với Trời; đã cho thấy các định luật thiên nhiên; đã cho thấy từng
chặng đường; từng tầng lớp trong con người. Tôi nghĩ không thể nói rõ
hơn. Bạn nào có căn cơ, sẽ thấy đầu đuôi sáng tỏ như ngọn đèn. Cái hay,
cái biến ảo của nó là khi đem thực thi, áp dụng được vào cuộc đời quí
bạn.
CHÚ THÍCH
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|