Đường vào Triết học và
Đạo học
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Chương 18
HƯƠNG
HOA ĐẠI ĐẠO
Nếu người ta không có cảm giác – như một
giác quan thứ sáu – về sự hiện diện của Cha trong họ, – cho dầu cảm giác
đó đôi khi mờ ảo, – thì, Cha cho con hay, không ai có thể nên thánh
được. Đối với một số đông người, than ôi! giác quan thứ sáu ấy bị bóp
nghẹt bởi nết xấu dưới mọi hình thức...
CAO TRÀO ĐẠI ĐẠO
(The Metaphysical Movement)
Thiên khảo luận này có hai mục đích:
– Một là khảo sát về ít nhiều biệt giáo
(cults) mới xuất hiện trong vòng 100 năm nay ở Mỹ, hay ở trên thế
giới.
– Hai là hệ thống hóa chúng lại, thành một
cao trào, mà tôi gọi là Cao Trào Đại Đạo, với những đường nét
chung là đề cao giá trị con người, đề cao thân thế và định mệnh con
người, tìm ra những định luật chi phối sự tiến hóa con người, từ phàm
phu lên tới thần linh tuyệt đỉnh.
Biệt giáo hiện nay nhiều vô số kể.
Trong thiên khảo luận này, tôi sẽ đề cập
đến ít nhiều biệt giáo sau đây:
– Siêu Phàm Phái (Transcendentalists).
– Thông Linh Phái (Spiritualists).
– Trào Lưu Tư Tưởng Mới (The New
Thought Movement), do Phineas P. Quimby đề xướng vào khoảng giữa thế
kỷ 19. Nó gồm một số hội đoàn kết liên với nhau dưới danh xưng: Tân
Tư Tưởng Quốc Tế Đồng Minh Hội (International New Thought Alliance),
– và Khoa Học Thiên Chúa Giáo (Christian
Science).
– Thông Thiên (Theosophy).
Sau đó, chúng ta có thể suy ra các biệt
giáo khác.
Sở dĩ tôi dùng chữ Biệt Giáo vì phong trào
nói trên tách mình – chẳng ít thì nhiều – khỏi các tôn giáo mẹ – hay
những tôn giáo quần chúng – và có những chủ trương hết sức cấp tiến.
Sở dĩ tôi dùng chữ Đại Đạo, vì tuy xuất
hiện trên nhiều thời điểm khác nhau, nhưng các phong trào nói trên có
những điểm tương đồng. Sau đây là những điểm tương đồng của phong trào
này:
1. Muốn cứu rỗi, con người phải trông vào
tự lực, chứ không ỷ lại vào uy lực của các giáo hội.
2. Con người sinh ra không phải để bị trầm
luân hỏa ngục, nhưng kẻ trước người sau sẽ được cứu rỗi hết.
3. Không chịu đóng khung trong những giáo
điều cố định.
4. Không tin có hỏa ngục.
5. Niềm tin cốt cán của phong trào là con
người căn cốt thần linh, con người có Thiên tính, là một phân thân, một
tàn lửa của Trời, một Tiểu Linh Quang. Như vậy là họ có quan niệm trái
ngược hẳn với Thiên Chúa Giáo, vì Thiên Chúa Giáo cho rằng con người là
một vật thụ sinh do Thượng Đế sáng tạo, được tạo dựng nên giống hình ảnh
Thượng Đế, nhưng không được thông phần bản thể Thượng Đế.
6. Tuy họ vẫn đề cập đến Thượng Đế bằng
những danh xưng hữu ngã, như Thiên Tâm, như Vũ Trụ Tâm (Divine Mind,
Universal Mind), nhưng họ có khuynh hướng quan niệm Thượng Đế như là một
Đại Thể Vô Ngã, và dùng những danh xưng như Thái Cực (Christ
Principle), Vô Cực (Infinite Principle) thay vì dùng danh từ Thượng
Đế thông thường (God).
Họ cho rằng họ dung hòa cả khoa học lẫn
đạo giáo, vì chủ trương phải tìm cho ra những định luật thiên nhiên chi
phối vật chất, ngoại cảnh, xác thân, tâm lý; chi phối tinh, khí, thần,
có như vậy mới trở về hợp nhất được với Căn Nguyên Vĩnh Cửu của nhân
loại. Tìm ra được nhữnhg định luật vĩnh cửu của trời đất, của vạn vật,
nhân sinh mà theo mà giữ sẽ được khoẻ mạnh, thái thịnh về vật chất, bình
an về tâm hồn, và phát huy được những năng lực tiềm ẩn nơi mình, có thể
chữa khỏi các bệnh tật cho mình, cho người.
7. Tuy vẫn phân biệt Trời với Người, Trời
với Vũ Trụ, nhưng nhiều người trong phong trào này tin là TRỜI là DUY
NHẤT, là TẤT CẢ, và ở trong TẤT CẢ.
Vũ trụ vật chất hữu hình chẳng qua chỉ là
ảo ảnh của tâm trí con người. Vũ trụ hữu hình này thật ra vẫn là Linh
Thiêng, vẫn là bất khả phân với Thượng Đế.
8. Họ hoàn toàn tin rằng Thượng Đế là nội
tại, luôn luôn hoạt động trong lòng quần sinh vũ trụ, và thể hiện ra
bằng những định luật. Thiên Chúa Giáo – Tin Lành cũng như Công Giáo –
ngược lại chủ xướng Thượng Đế Siêu Việt khỏi tầm thế giới và con người,
đến nỗi Ngài như là vắng bóng không có nơi gian trần.
9. Các giáo phái này tin rằng con người sẽ
làm chủ định mệnh của mình, sự tiến hóa của mình, một khi tìm ra được
các định luật thiên nhiên, các định luật của Trời, và theo đúng các định
luật đó.
10. Có giáo phái vẫn còn xưng mình thuộc
Thiên Chúa Giáo, có giáo phái thì không. Tuy nhiên họ phân biệt con
người Chúa Jesus với Christ Căn Nguyên Vũ Trụ và Con người.
Christ Căn Nguyên Vũ Trụ và Con người thì
vừa Đồng Nhất với Thượng Đế vừa là Bản Thể con người.
Còn Jesus chỉ là một vị tiên phong, một
người đã cảm thấy một cách sâu sắc mãnh liệt hơn người khác rằng mình có
thiên tính, và như vậy đã vạch ra cho mọi người thấy con đường phối hợp
với Trời.
11. Phong trào này không công nhận truyền
thống Thiên Chúa Giáo cho rằng con người là thứ con người tội lệ, lúc
nào cũng cần phải thống hối ăn năn và cầu xin tha thứ, lúc nào cũng lo
Chúa phán xét.
12. Vì Thượng Đế được coi là Tất Cả và ở
trong Tất Cả, và là Thiện, nên cái gì Xấu, cái gì Bệnh Hoạn không có
thực thể, mà chỉ là giả tạo, sinh ra vì đã hành động sai luật thiên
nhiên, và không đúng với bản tính con người.
Chủ trương này ngược lại với truyền thống
Thiên Chúa Giáo vì Truyền thống Thiên Chúa giáo coi cái Xấu, coi Tội Lỗi
như là một thực thể của cá nhân và của xã hội.
13. Triết lý của Đại đạo là thứ triết lý
thực tiễn. Tin xuông không đủ, còn phải chứng nghiệm vào nơi mình xem là
hay hay dở. William James và John Dewey đã cổ võ triết học thực tiễn
(Empiricism; Empirical philosophy).
14. Phong trào này chủ trương rằng muốn
cầu giải thoát, phải tìm cho ra bản thể siêu việt, Thực Tại siêu việt
trong vũ trụ và trong con người, và áp dụng đứng đắn những luật trời
đất, nhân sinh vào công cuộc tu trì, nên phong trào này chủ trương phải
tự giác, tự ngộ, tự tu, tự đắc, phải minh tri minh giác, chứ không tin
xuông lời người tuyên truyền, hay bắt phải giữ thế này, thế nọ.
15. Phong trào này tin rằng đường lối của
mình rất khoa học, vì đem thực hành chứng nghiệm vào bản thân sẽ thấy
hoặc là các khả năng tâm thần phát triển nhiều, hoặc thấy khỏi bệnh, hay
sống sung túc hơn.
16. Chủ trương của phong trào này càng
ngày càng tỏ ra gần gũi với Thiền Phật Giáo, với Vedanta Ấn Độ, với các
triết thuyết của Erich Fromm và Carl Jung: Căn Nguyên vũ trụ này là một
Đại Thể vô biên tế thay vì là một vị Thượng Thần hữu ngã. Muốn tìm cho
ra Đại Thể ấy phải đi sâu vào tâm hồn (psychological approach to
reality), chứ không thể tìm thấy trong đền đài miếu mạo bên ngoài.
17. Phong trào này tin con người có thể
tránh được bệnh tật; tự chữa được bệnh tật cho mình. Họ quan niệm rằng
bệnh hoạn sinh ra là vì cơ thể con người đã không thích ứng được với
ngoại cảnh, đã bị những ảnh hưởng ngoại tại, nội tại làm cho mất thế
quân bình, làm cho sự hoạt động của các cơ quan hoặc một, hoặc nhiều
trong người trở nên rối loạn.
Càng tìm hiểu suy tư, khảo sát về các biệt
giáo, mà ngày nay người ta thường gán cho một danh từ đầy khinh mạn là
CULTS, tôi càng thấy rõ hai nẻo đường:
Một nẻo đường hướng ngoại, gồm các tôn
giáo ngoại tại, với mục đích là: THỜ LẠY THẦN MINH, để cầu mong được bao
che, tha thứ, như Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, Ấn Giáo, Bái Hỏa, Hồi
Giáo, Do Thái Giáo v.v...
Một nẻo đường, đi tìm CHÂN TƯỚNG của con
người, mong trở thành Trời, thành Phật, thành Brahman, kết hợp nhất như
với Trời, với Phật, với Brahman. Người xưa gọi đó là Mật Giáo. Có nhiều
thứ Mật Giáo:
– Mật Giáo Ai Cập (The Mysteries of
Egypt).
– Mật Giáo Mithra của Ba Tư (The Mithriac
Mysteries of The Persians).
– Mật Giáo Hi Lạp (The Orphic and Bacchic
Mysteries, The Eleusinian Semi-Mysteries of the Greeks).
– Mật Giáo của Samothrace, Scythia,
Chaldea.
– Mật giáo Kitô (The Mystery of Christ)
(Eph., iii, 3,4, 9.)
– Tân Bá Lạp Đồ (Neo-Platonism).
– Giác Ngộ Phái (Gnostism).
– Thiền (Zen).
– Yoga.
– Kabbala (Do Thái).
– Sufism (Bạch Y: Hồi Giáo).
– Hòa Đồng, Hợp NHất với Chúa (Mysticism).
– Trung Dung, Trung Đạo (Khổng, Phật).
– Đơn Gia, Đạo Gia, Tham Đồng Khế
(Alchemists, Taoists).
– Thông Thiên (Theosophy).
Nhưng chung qui, chủ trương chỉ là một như
vừa phân tách và trình bày ở trên.
Chúng ta có thể toát lược chủ trương đường
lối của Đại Đạo như sau:
Muốn vào Đại Đạo, con người phải:
– Đi vào tâm mà tìm Đạo, tìm Trời (Luke
XVII, 21)., vì Đạo, vì Trời chính là Chân Tướng, Chân Ngã, chính là Bản
Lai Diện Mục của mình..
– SINH LẠI BẰNG THẦN (John, 3: 5).
– Phát huệ (Illumination, Gnosis, Divine
Wisdom).
– Tuân theo các định luật tự nhiên (Matt.
5:17).
– Rũ bỏ tiểu ngã (Matt 10: 38– 39).
– Trở nên hoàn thiện (Matt. 5: 48); Thực
hiện Đại Ngã.
Mục đích chung chỉ là KẾT HỢP THẦN NGƯỜI,
VỚI THẦN CHÚA (TIỂU NGÃ VỚI ĐẠI NGÃ), để CHÚA trở nên TẤT CẢ TRONG TẤT
CẢ (JOHN 17: 31. I COR. XV, 28).
I. SƠ LƯỢC VỀ
PHÁI TRANSCENDENTALISTS
Phái Transcendentalists (Siêu Phàm Phái)
được Emmanuel Swedenborg đưa ra những tư tưởng chỉ đạo. Coleridge,
Emerson, Calyle sau này đã khai thác, hệ thống hóa. Phái này chống lại
với truyền thống Thiên Chúa Giáo, và không chấp nhận rằng:
– Con người là tội lệ, là sa đọa, là hủ
hóa; không chịu cho rằng ý chí con người bị ràng buộc.
– Không chịu rằng tất cả các tín lý đều
phải phát xuất từ một bộ sách là Kinh Thánh.
[2]
Phái này cho rằng con người có hai phương diện. Đứng về phương diện Bản
thể, thì tự do; đứng về phương diện phù sinh, thì luôn luôn bị xiềng
xích.[3]
Phái này chê, chán dĩ vãng, và hết sức lạc quan cho tương lai nhân quần,
và tin rằng trong tương lai nhân quần sẽ tìm ra được phương thức giải
quyết các vấn đề liên quan đến nhân sinh
Sở dĩ gọi là Siêu Phàm Phái, vì theo
Coleridge (17721834), tâm hồn con người có hai phía, hai mặt; phía phàm
phu và phía siêu phàm (phía thần tiên). Đứng về phía phàm phu thì chỉ
thấy con người là tội lệ, là sa đọa; còn đứng về phía siêu phàm thì chỉ
thấy con người chính là thần minh, chẳng có thua sút thần minh.
Trong Đạo Học, Triết Học Đông Phương cũng
luôn luôn nói về hai nẻo đường của một con người: Đường Tục, Nẻo Tiên.
Khi còn mang Phàm tâm, tức là còn đi theo nẻo tục, mê luyến tiền tài,
công danh, tình ái, tức là khi còn trẻ người non dạ. Khi đã thấy Thiên
Tâm xuất hiện nơi mình, sẽ đi vào con đường tiên cảnh nội tâm.
Chiều Tục, hay Chiều Âm trong vòng Dịch
tức là gồm Chiều Âm, phía phải, hay là phía Tây Nam và Tây Bắc; Nẻo Tiên
là Chiều Dương trong vòng Dịch, Chiều Dương bên phía trái, tức là phía
Đông Bắc và Đông Nam, vì thế nơi Thoán Truyện quẻ Khôn mới viết:
Mới đầu mê lạc đến điều,
Là vì bỏ mất chẳng theo đạo Trời.
Sau rồi nhu thuận đòi noi,
Mới đâu ra đấy cơ ngơi rõ ràng.
Tây Nam gặp được bạn đàng,
Cùng người đồng loại thênh thang đăng
trình,
Phía Đông Bắc mất bạn mình,
(Cuối cùng vượt được quần sinh mới là.)
Siêu quần bạt tụy mình ta,
Mới là phúc khánh, mới là vinh xương.
Bền gan rồi sẽ cát tường,
Y như trời đất vô cương khác nào.
Phàm phu tục tử thì theo đạo người, theo
các đạo giáo công truyền trong thiên hạ, tin rằng mình là kẻ hèn hạ tội
lỗi, cần phải có người cứu rỗi mình, tin vào thánh thư này, thánh thư
nọ, giữ giáo luật này giáo luật nọ.
Tiên Thánh là những người tin mình có Tính
Trời, Tính Phật, Chân Tâm, Thiên Tâm; tin mình là những người sang cả,
có định mệnh sang cả, là những Con Trời, là những Tiên, Phật thật sự.
Thánh Thư, Thiên Thư của họ là Vũ Trụ Thiên Nhiên, là Lương Tâm. Luật
Trời, ý Trời là những định luật thiên nhiên vĩnh cửu, đã ghi tạc ngay
trong thâm tâm con người.
Họ theo Đạo Trời. Đạo này chẳng do ai lập
ra, vì nó đã gắn liền với tâm linh nhân quần từ muôn thế hệ...Họ sẽ tự
cứu mình, và sẽ giúp mọi người tự tin, tự trọng, tự cứu lấy mình, cải
thiện lấy hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội.
* Emmanuel
Swedenborg (1688–1772)
Tiến sĩ Triết Học năm 22 tuổi, tại Đại Học
Upsala, Thụy Điển. Từ 1716 bắt đầu viết nhiều sách về Thiên Văn, Địa Lý,
khoáng sản, kim loại, và là người đã đưa ra thuyết Vân Vụ (Nebular
hypothesis) để cắt nghĩa sự khởi nguyên của vũ trụ trước Laplace và
Kant. Cho tới 1745 ông viết được khoảng 40 quyển sách về khoa học. Từ
1745 cho đến khi chết là 1772, ông toàn viết sách về đạo học và thần học
(khoảng 50 quyển). Ông là người đầu tiên muốn dung hòa đạo học và khoa
học.
Năm 1769, ông viết rằng sở dĩ ông chuyển
hướng như vậy là đã được Chúa hiện ra, cho ông trông thấy cõi thần linh,
và cho ông được trò chuyện cùng thần thánh.
* Swedenborg, không chấp nhận rằng Chúa đã
tạo dựng nên mọi sự bởi không, nhưng chính đã lấy chính bản thể mình để
tạo nên vũ trụ. Như vậy là ông đã thoát ly khỏi truyền thống Thiên Chúa
Giáo.
Swedenborg cho rằng toàn thể vũ trụ này
với thiên đàng địa ngục, là một thống thể trong đó chỉ có Thượng Đế là
sống động. Nhân loại là tử vật. Sinh linh là tử vật. Tất cả có vẻ sống
động là vì Thượng Đế sống động ở bên trong. Thiên thần cũng là những con
người trước đây đã sinh sống dưới đất hay ở các hành tinh khác.
Swedenborg như vậy đã chấp nhận thuyết Thiên Địa Vạn Vật đồng nhất
thể.
Thượng Đế và vũ trụ sinh linh là một thống
thể. Thượng Đế là Bản Thể là Nguồn Sống duy nhất. Vũ trụ quần sinh là
những hiện tượng là những phân bộ biến thiên. Công của Swedenborg rất
lớn. Sự đóng góp của ông rất đa dạng.
– Ông đã làm sống động lại quan niệm
tiền kiếp và lai sinh của các phái Gnosticism, Kaballa, của
Pythagoras xưa.
– Ông đã chủ trương như phái Thông Linh
sau này rằng người sống có thể liên lạc với người đã chết.
– Ông chủ trương vũ trụ này do một Đại Thể
phóng phát tán phân ra mà thành, chứ không phải đã được tạo dựng bởi
không. (Creation ex nihilo)
– Ông chủ trương những người đại giác, đại
ngộ có thể thấy trước được thiên cơ, và những biến chuyển lớn sắp tới
cho nhân loại.
– Ông cho rằng Đấng Christ đã tái lâm một
cách âm thầm từ năm 1757. Và vì thế mới có những tư tưởng mới thuộc về
«Tân Thời Đại»,
và về Thời Đại Bảo Bình.
– Ông chủ trương có nhiều vũ trụ. Mỗi vũ
trụ lại có những thần linh riêng biệt.
– Ông chủ trương ý trời, ý người chẳng qua
là một.[8]
Ảnh hưởng của ông bao trùm các biệt giáo hiện nay, trong đó có Siêu Phàm
Phái.
Ở Mỹ ngày nay người ta còn dựa vào tư
tưởng ông để lập thành một giáo phái mới, gọi là Giáo Hội Tân
Jerusalem (The Church of The New Jerusalem), có 33 giáo xứ, và
khoảng 2143 tín đồ.
* Ralph
Waldo Emerson (1803–1882)
Ông là một nhà văn, nhà thơ, một đạo gia
và là một trong những sáng lập viên Phái Siêu Phàm. Ông thụ phong mục sư
năm 1826 và phục vụ cho Giáo Hội Tin Lành Unitarian ở Boston, nhưng đến
năm 1832 thì ông từ chức mục sư. ông từ chức, vì lẽ ông không tin vào
Phép Thánh Thể – kỷ niệm bữa Tiệc Ly – như mọi người giáo hữu thường, và
chỉ có thể coi Chúa Giê Su như một người bạn đã được vinh hiển, chỉ có
thể yêu Ngài theo tình bạn, chứ không thể kính sợ Ngài.
Ông có công dạy người biết tự tin, tự
trọng, và nghe tiếng lương tâm, và đề cao giá trị con người.
[10]
Emerson xướng xuất rằng mục đích của đạo giáo là sống kết hợp với
Thượng Đế, và Thượng Đế sẽ hiển linh đối với con người, khi họ mở được
linh giác.
Ông chịu ảnh hưởng hợc thuyết nhất thể của
Ấn Độ Giáo, nên chủ chương Chúa ở trong mọi người và mọi vật, và chính
là Chân Ngã của con người.
II. MÔN
PHÁI THÔNG LINH (SPIRITISM; SPIRITUALISM)
Đặc điểm của môn phái này là tìm cách giao
thiệp với các vong linh đã quá vãng. Nó cũng na ná như những phong trào
gọi hồn, cầu cơ, phụ đồng ở Việt Nam ta xưa.
Có nhiều người theo phong trào này như thể
được thánh nhập, nên có thể thông linh, thấu thị, có khả năng liên lạc
với thần linh, có khả năng trị bệnh v.v...
Phong trào thông linh, tuy là đã có từ
thượng cổ, nhưng thực sự đã tái phát triển tại Mỹ và Âu Châu, vào khoảng
giữa thế kỷ XIX. Andrew Jackson Davis (1826–1920), sinh trưởng tại Nữu
ước, là một trong những người khởi xướng phong trào Thông linh, và đã
viết rất nhiều sách để xây nền đặp tảng cho phong trào trrở nên một thứ
tôn giáo mới.
Kế đó phải kể đến các chị em gia đình John
Fox (Margaretta lúc ấy 11 tuổi, Kate, lúc ấy 8 tuổi) ở Hydesville, phía
bắc tiểu bang Nữu ước. Hai chị em bắt đầu từ tối 31 tháng 3, 1848, đã
liên lạc với các vong linh bằng cách nghe tiếng gõ (rappings). Nhiều
người danh tiếng đã ủng hộ phong trào này như Horace Creeley, James
Fennimore Cooper, Talmadge, thống đốc tiểu bang Michigan, và từ 1857,
tổng thống Abraham Lincoln.
Phong trào Thông linh truyền sang Anh năm
1853, sang Đức năm 1956. Sir Arthur Conan Doyle, khoa học gia Sir
William Crookes người Anh, cũng để tâm nghiên cứu và bênh vực phong trào
này. Ở Pháp, người theo Thông Linh nổi tiếng nhất là Hyppolyte Léon
Denizard Rivail (1803–1869), bút hiệu là Allan Kardec.
Từ năm 1857, Thông Linh rất mạnh ở
Cleveland, và ở the Western Reserve ở Ohio. Có thể nói rằng đa số dân
chúng ở những vùng đó theo Thông Linh.
*T.S Charles Braden ước lượng rằng ngày
nay số người theo Thông Linh ở Mỹ khoảng từ 5 đến 7 trăm ngàn, và toàn
thế giới có chừng từ một triệu rưỡi đến 2 triệu.
* Ông Walter R. Martin chủ trương ngược
lại: Theo ông thì vào năm 1975, toàn thể nước Mỹ chỉ có 34 giáo xứ Thông
Linh, với tổng số giáo hữu là 4,000. Nhưng ở Âu Châu thì nhiều hơn. ở
Nam Mỹ thì hiện nay có khoảng 4,000,000 người theo Thông Linh, mà nguyên
xứ Brazil đã có 3,000,000. Nam Mỹ theo phái Kardec. (Ib. 199). Năm 1957,
chính phủ Brazil, nhân dịp kỷ niệm Thông Linh Phái được 100 năm, đã phát
hành một con tem mang hình Allen Kardec.
* Nhiều học giả, trong đó có E. Royston
Pike, tác giả cuốn Dictionnaire des Religions, cũng đã xếp Cao
Đài vào Thông Linh vì Cao Đài rất chú trọng cầu cơ, cơ bút.
Đọc các phúc trình về Thông Linh, do nhiều
khoa học gia trứ danh như Sir William Crookes, hay Tiến Sĩ Marcus Bach
đã làm, sau khi đã chứng kiến các đồng cốt nổi danh như bà Pipers, ông
Daniel Douglas Home, William Stainton Moses, và Leonore Kuiper, ta nhận
thấy:
Thực sự các vong linh đã hiện về để dạy
dỗ, hoặc để đối thoại với các người thân (apparitions).
Người đồng cốt có thể khinh thân, bay lên
khỏi mặt đất (levitation), có thể thấu thị (claivoyance). Các vật nặng
như kèn đồng, accordeon có thể bay lên không trung và chuyển hướng theo
lời yêu cầu của người dự (telekinesis).
Người ngồi đồng có thể phát ngôn, viết tự
động (automatism of speech, of writing), bị vong linh ốp vào người
(trances). Đã đành cũng đôi khi có những trường hợp lừa bịp, nhưng
thường thì những hiện tượng tâm linh đó không thể chối cãi được.
* Bà Pipers, ngồi đồng trong vòng 26 năm.
Hội Khảo Sát về Tâm Linh Học Anh Quốc (The British Society for Psychical
Research) đã tốn trước sau $150,000 để thuê người điều tra, theo rõi bà,
đã phái nhiều nhân viên cự phách như giáo sư Sir Olivier Lodge đến dự 88
lần bà Pipers lên đồng, mà hoàn toàn phải công nhận là không thế nào bắt
được gì là sai lầm, là gian trá. Giáo Sư James Hyslop ở Đại Học Columbia
đã phỏng vấn bà Pipers tất cả 17 lần. Cuối cùng hoàn toàn bái phục và
nói đã nhờ bà mà liên lạc được với người cha đã chết.
Dưới đây là một số tư liệu, mà Thông Linh
chính thức chủ trương, hoặc đã được ghi chú từ những lần ngồi đồng, hoặc
cầu cơ:
– Vô Lượng Trí tràn ngập vũ trụ, chi phối
vũ trụ. Vô Lượng Trí không có hình tướng, vô ngã, toàn năng, và hiện
diện khắp nơi
Tinh quang Trời hiện hữu trong muôn vật.
Mọi hồn thiêng tiến hóa mãi mãi, để tiến
tới tuyệt đỉnh tinh hoa, siêu việt, hiển vinh, nơi đó Chúa là Tình Yêu,
Tình Yêu là Chúa.
– Phong trào Thông Linh đem thần đổ xuống
loài người, là một sự thiên khải từ những khung trời sáng láng. Nó đem
laị cho chúng ta thông điệp chân lý mà chỉ lo chúng ta chưa đủ lớn, khôn
để mà thấu hiểu; một thông điệp sâu sắc, đẹp đẽ, và hết sức ý vị mà chỉ
lo chúng ta chưa đủ sức thực hiện.
– Không gì vô lý hơn rằng Chúa Jesus lại
"thần" hơn, "trời" hơn người khác.
Chuyện Chúa Jesus thai sinh kỳ bí chỉ là
một chuyện thần thoại, huyền kỳ.
Những tâm linh tiến bộ không chủ trương
Chúa Jesus chuộc tội thiên hạ (Nocholas).
Chuyện chuộc tội đúng là điên khùng cao
độ, vừa bất công lại vừa vô luân. (Hall).
– Đấng Christ là Thiên Chúa, đồng đẳng với
Chúa Cha là một điều ai cũng chống đối. Jesus Christ là Con Thiên Chúa y
như chúng ta cũng là Những Con Thiên Chúa.
– Chúng tôi nhấn mạnh một lần nữa để quí
bạn rõ là chỉ được tin những gì hợp với định luật tự nhiên, và có thể
chứng minh cụ thể... Phép lạ nghĩa là cái gì xảy ra ngược lại với định
luật tự nhiên, như vậy không có phép lạ.
– Không có Hỏa Ngục, Luyện Ngục, chỉ có
hình thức sinh sống thay đổi. Tùy tâm trạng, mà các vong linh sẽ sống
sướng hay sống khổ, y thức như trong cuộc đời này...
Phát triển tâm linh chính là thờ phượng
Chúa. Cuộc sống thần linh cốt là tiến hóa, phát triển. Y như phá vỡ tổ
kén. Y như siêu thăng theo hình chôn ốc. Càng ngày càng lên các tầng
trời cao hơn...Chết không phải là phạt tội một cách phũ phàng. Sự Chết
chẳng có 'nọc'. Chết chẳng có thân cũng chẳng có sơ. Chết đã được Trời
định từ muôn thủa...
– Thông Linh Phái hoàn toàn tin rằng
Thượng Đế là một Huyền Lực vô hình, vô ngã tiềm tàng và thi triển trong
lòng muôn vật. Thượng Đế, hay Vô Lượng Trí, cũng là Nguồn Gốc quần sinh.
Muốn được cứu rỗi cần phải sống thuận theo những định luật vật lý, tâm
linh. Các định luật đó chính là sự phát huy, sự thể hiện của Thượng Đế
trên mọi bình diện sinh hóa...
Không có chuyện ai đền tội thay ai. Không
có hình phạt đời đời, mà chỉ có Tiến Hóa vô tận...
Âm Ti, Địa Ngục có thể hiểu được là chỗ
thấp kém nhất trong các nấc thang tiến hóa.
Thông Linh Phái dần dà cũng chia thành
nhiều phái. Sự chia rẽ xảy ra là vì có người tin có Luân Hồi
(Reincarnation – Hiểu theo nghĩa hẹp là Đầu Thai lại ở gian trần), có
người không. Những người theo phái Allen Kardec thì tin có Luân Hồi. Ở
Mỹ có phái tin có Luân Hồi, có phái không. Nên nhớ ở Mỹ Luân Hồi chỉ có
nghĩa là đầu thai lại ở thế gian này.
– Về vấn đề này, nhà Thông Linh W. T.
Stead – một người không chấp nhận có đầu thai – giải thích đại khái như
sau: Các Linh sau khi chết vẫn còn chấp trước, vẫn còn mang những màu
sắc như Công Giáo, Tin Lành v.v... Họ chưa tiến hóa được tới Tuyệt điểm,
Tuyệt Đối, Tuyệt Đích. Cho nên những Linh nào còn tin có Luân Hồi, còn
tin có Đầu Thai lại, thì lúc giáng cơ vẫn dạy rằng có Đầu Thai... Còn
nghĩ phải đầu thai là còn tiến hóa chưa được cao...
Còn phía chấp nhận có đầu thai như Dr.
Robert Chaney, thì cho rằng, theo lời dạy của một vong linh, thì con
người có thể đầu thai sau 50 năm. Đó là sớm nhất. Còn lâu hơn, có khi từ
1500, đến 2000 năm. Họ còn trích dẫn Phúc âm Matt. 17:12–13, để chứng
minh rằng Chúa Jesus cũng có dạy về Luân Hồi, vì đã cho rằng John the
Baptist là Elias tái sinh...
Theo tôi chủ trương của cả đôi bên đều hợp
lý: Tu thấp, thì phải đầu thai lại. Tu cao, tiến hóa cao, thì khỏi phải
đầu thai lại ở trần gian này, nhưng sẽ được lên các cõi trời cao hơn.
Phúc âm có câu: Nhà cha ta có
nhiều nơi ở.
– Thông Linh phái cũng chủ trương có thể
dùng thần lực để chữa bệnh. Thần lực ấy đôi khi được gọi là 'Odic Force'
(chữ này do Karl Von Reichenbach khai sinh ra năm 1852). Thần lực này
thoát ra từ đầu các ngón tay của người có khả năng chữa bệnh.
* Các phái
Thông Linh tại Mỹ hiện nay:
Hiện nay có nhiều giáo phái Thông Linh ở
Mỹ. Có hai vấn đề chính gây chia rẽ:
– Một là vấn đề Luân Hồi.
– Hai là vấn đề rằng: Người Thông Linh còn
coi mình là tín đồ Thiên Chúa Giáo hay là không.
Sau đây là các Giáo Phái Thông Linh chính:
– The National Spitualist Association of
Churches of The United States of America, thành lập năm 1893, thường
viết tắt là N.S.A.
Giáo phái này không chấp nhận có Đầu Thai.
Andrew Jackson Davis, cũng như N.S.A. thì
hoàn toàn tách khỏi Thiên Chúa Giáo.
– National Spiritual Alliance, sáng lập
năm 1913, tách khỏi N.S.A. vì tin có Đầu Thai.
– Spiritual Science, do B.S. 'Mẹ' Julia
Forest sáng lập năm 1923, hoạt động mạnh nhất tại Tiểu bang Nữu ước.
– The Aquarian Brotherhood of Christ, do
Caroline Duke sáng lập năm 1925.
– The Independent Spiritualist
Association, do Amanda Flowers sáng lập năm 1924.
– The Spiritualist Episcopal Church, do
các ô. Clifford Bias, John Bunker, Dr. Robert Chaney sáng lập.
– The Universal Spiritualist Association,
thành lập năm 1946. Môn phái này không tin có tội tổ tông, và hiểu
Atonement không phải là sự Chúa Jesus đổ máu cứu chuộc mà chính là
AT– ONE– MENT: Sống hợp nhất với Thiên Chúa.
– Spiritualist Camps.
– The Spiritual Frontiers Fellowship do
Albin Bro, Paul Higgins, Arthur Ford sáng lập năm 1956.
Vergilius Ferm toát lược về Thông Linh
Phái như sau: «Sở dĩ Thông Linh Phái trở thành một đạo giáo vì con người
tò mò tìm hiểu xem sau khi chết sẽ ra sao. Người Thông Linh chủ trương
rằng con người sẽ tiến hóa mãi mãi, thăng hoa mãi mãi. Lai sinh càng
ngày càng huy hoàng. Vũ trụ là một môi trường thân yêu. Người dương thế
với thần linh trên Tiên Giới sống thân thiện hòa ái với nhau. Người
dương thế mong cầu được sự chỉ dạy của các Linh Thần xưa kia đã sống
trên mặt đất này. Mọi người đều sẽ được cứu rỗi. Mọi người được hưởng tự
do, bình đẳng, vui sướng, hòa ái, chứ không sa đọa vào những tâm trạng
sầu bi, ủ dột mà các đạo giáo công truyền thường đề cập tới...»
»
Mục lục |
Phi lộ | Chương:
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
|