» mục lục                                                       PHẦN II - BÌNH DỊCH

CHƯƠNG 1 - THƯỢNG THANH

CHƯƠNG 2 - THƯỢNG HỮU

CHƯƠNG 3 - KHẨU VI

CHƯƠNG 4 - HUỲNH ĐÌNH

CHƯƠNG 5 - TRUNG TRÌ

CHƯƠNG 6 - THIÊN TRUNG

CHƯƠNG 7 - CHÍ ĐẠO

CHƯƠNG 8 - TÂM THẦN

CHƯƠNG 9 - PHẾ BỘ

CHƯƠNG 10 - TÂM BỘ

CHƯƠNG 11 - CAN BỘ

CHƯƠNG 12 - THẬN BỘ

CHƯƠNG 13 - TỲ BỘ

CHƯƠNG 14 - ĐẢM BỘ

CHƯƠNG 15 - TỲ TRƯỜNG

CHƯƠNG 16 - THƯỢNG ĐỔ

CHƯƠNG 17 - LINH ĐÀI

CHƯƠNG 18 - TAM QUAN

CHƯƠNG 19 - NHƯỢC ĐẮC

CHƯƠNG 20 - HÔ HẤP

CHƯƠNG 21 - QUỲNH THẤT

CHƯƠNG 22 - THƯỜNG NIỆM

CHƯƠNG 23 - TRỊ SINH

CHƯƠNG 24 - ẨN ẢNH

CHƯƠNG 25 - NGŨ HÀNH

CHƯƠNG 26 - CAO BÔN

CHƯƠNG 27 - HUYỀN NGUYÊN

CHƯƠNG 28 - TIÊN NHÂN

CHƯƠNG 29 - TỬ THANH

CHƯƠNG 30 - BÁCH CỐC

CHƯƠNG 31 - TÂM ĐIỂN

CHƯƠNG 32 - KINH LỊCH

CHƯƠNG 33 - CAN KHÍ

CHƯƠNG 34 - PHẾ CHI

CHƯƠNG 35 - ẨN TÀNG

CHƯƠNG 36 - MỘC DỤC

CHƯƠNG 6

THIÊN TRUNG

天 中

 

A. KINH VĂN

1. Thiên trung chi nhạc, tinh cẩn tu,

天 中 之 岳 精 謹 修

2. Vân trạch ký thanh, Ngọc đế du,

雲 宅 既 清 玉 帝 遊

3. Thông lợi đạo lộ vô chung hưu,

通 利 道 路 無 終 休

4. Mi hiệu Hoa Cái, phúc minh châu,

眉 號 華 蓋 覆 明 珠

5. Cửu u nhật nguyệt, đỗng không vô.

九 幽 日 月 洞 空 無

6. Trạch trung hữu Chân, thường ý đan,

宅 中 有 真 常 衣 丹

7. Thẩm năng kiến chi, vô tật hoạn,

審 能 見 之 無 疾 患

8. Xích châu, linh quần, hoa thiến xán.

赤 珠 靈 裙 華 蒨 粲

9. Thiệt hạ Huyền ưng sinh tử ngạn,

舌 下 玄 膺 生 死 岸

10. Xuất thanh, nhập huyền, nhị khí hoán,

出 青 入 玄 二 氣 煥

11. Tử nhược ngộ chi thăng Thiên Hán.

子 若 遇 之 昇 天 漢

B. LƯỢC DỊCH

Núi mọc giữa trời, hãy cố tu,

Nhà mây quang quẻ, Ngọc Đế du,

Khai thông đạo lộ, chớ trù trừ.

Mi là hoa cái, che minh châu,

Hai vầng nhật nguyệt chiếu hư vô,

Trong nhà, có Thần, mang y đơn,

Nếu mà thấy được, không bệnh hoạn.

Xích châu, linh quần, trông xán lạn.

Khí quản ấy là sinh tử ngạn,

Hai khí đục trong thường giao hoán,

Nếu mà gặp được, thăng Thiên Hán...

C. CHÚ THÍCH

Câu 1. Thiên trung chi nhạc tinh cẩn tu.

天 中 之 岳 精 謹 修

Thiên trung chi nhạc 天 中 之 岳: Mũi. Mũi còn được gọi là Thiên đài 天 臺.

Sách Tiêu Ma kinh 消 魔 經 nói rằng: «Mũi thường nên được ma sát hai bên tả, hữu, để khí được bình. Thế gọi là ‘khái quán Trung nhạc’ (tưới tắm cho Trung Nhạc). Tên sẽ được ghi vào đế lục.» 消 魔 經 云: 鼻 欲 數 按 其 左 右, 令 人 氣 平. 所 謂 溉 灌 中 岳, 名 書 帝 錄 (Tiêu Ma kinh vân: Tỵ dục sổ án kỳ tả hữu, lịnh nhân khí bình. Sở vị khái quán Trung nhạc, danh thư đế lục.)

Câu 2. Vân trạch ký thanh Ngọc đế du.

雲 宅 既 清 玉 帝 遊

Vân trạch 雲 宅: Mặt, cũng còn được gọi là Xích trạch 尺 宅. Mặt là nơi mi, mắt, mũi, mồm cư ngụ, nên gọi là trạch (nghĩa là nhà). Giữ gìn cho nó được thanh thông, thần tiên sẽ viếng thăm.

Bản Tử Hà ghi: Linh trạch ký thanh, Ngọc đế du 靈 宅 既 清 玉 帝 遊.

Câu 3. Thông lợi đạo lộ, vô chung hưu.

通 利 道 路 無 終 休

Bản Tử Hà ghi: Thông lợi đạo lộ, vô đình hưu 通 利 道 路 無 停 休.

Kinh Thái Tố Đan Cảnh 太 素 丹 景 chép: «Thường nên dùng hai tay, ma sát mặt, cao thấp tùy hình, đừng ngừng nghỉ, sẽ làm thông lợi khí mạch của tai, mắt, mũi, mồm.» 太 素 丹 景 經 曰: 一 面 之 上, 常 欲 兩 手 摩 拭 之. 高 下 隨 形 不 休, 息 則 通 利 耳 目 鼻 口 之 氣 脈 (Thái Tố Đan Cảnh Kinh viết: nhất diện chi thượng, thường dục lưỡng thủ ma thức chi. Cao hạ tùy hình bất hưu tức, tắc thông lợi nhĩ mục tỵ khẩu chi khí mạch.)

Câu 4. Mi hiệu hoa cái phúc minh châu.

眉 號 華 蓋 覆 明 珠

Hoa cái 華 蓋: Lọng che. Minh châu 明 珠: Hai mắt.

Phúc : Che đậy; như nói thiên phúc địa tải 天 覆 地 載 trời che, đất chở).

Câu 5. Cửu u nhật nguyệt đỗng không vô.

九 幽 日 月 洞 空 無

Bế mục tồn thần, để thần quang của đôi mắt soi rõi vào tâm khảm.

Câu 6. Trạch trung hữu Chân thường y đan.

宅 中 有 真 常 衣 丹

Trạch trung 宅 中: Trong mặt, trong đầu.

Chân : Ở đây là Tâm thần 心 神, tức Xích Thành đồng tử 赤 城 童 子, hay Chân nhân 真 人, hay Xích tử 赤 子.

Như vậy vẫn là một thần Tử đan 子 丹 mà ta gặp nơi chương trước; vẫn mặc thứ áo đỏ quen thuộc; cũng còn được gọi là Tâm đan 心 丹.

Câu 7. Thẩm năng kiến chi vô tật hoạn.

審 能 見 之 無 疾 患

Nguyên Dương Tử 元 陽 子 viết: «Thường tồn tâm thần, tắc vô bệnh dã.» 常 存 心 神 則 無 病 也.

Câu 8. Xích châu, linh quần, hoa thiến xán.

赤 珠 靈 裙 華 蒨 粲

Bản Tử Hà ghi: Xích châu, linh cứ hoa thiến xán 赤 珠 靈 裾 華 蒨 燦. Và cho rằng xích châu, linh cứ đều là các loại châu ngọc.

Linh quần 靈 裙: Vụ Thành Tử lại ghi là Linh quần, như vậy là quần áo.

Thiến xán 蒨 粲: Rực rỡ, đẹp đẽ.

Câu 9. Thiệt hạ Huyền ưng sinh tử ngạn.

舌 下 玄 膺 生 死 岸

Huyền ưng 玄 膺: Họng, cuống họng. Chẳng những là đạo lộ thông tân dịch, mà còn là đạo lộ thông khí hô hấp.

Ngoại Cảnh gọi Huyền ưng là Khí quản: Huyền ưng khí quản thụ tinh phù. 玄 膺 氣 管 受 精 符 (chương 3). Có bản lại chép: Huyền ưng khí quản thụ tinh phủ 玄 膺 氣 管 受 精 府. Vụ Thành Tử chú thích câu này: «Huyền ưng là bến bờ thông tân dịch. Kinh này nói Huyền ưng là khí quản thông tân phủ.» 玄 膺 者, 通 津 液 之 岸 也. 本 經 云: 玄 膺 氣 管 受 津 府 (Huyền ưng giả, thông tân dịch chi ngạn dã. Bản kinh vân: Huyền ưng khí quản thụ tân phủ.)

Câu 10. Xuất thanh, nhập huyền, nhị khí hoán,

出 青 入 玄 二 氣 煥

Câu 11. Tử nhược ngộ chi thăng Thiên Hán.

子 若 遇 之 昇 天 漢

Hai câu này đại khái nói rằng: Nếu biết thổ nạp 吐 納 nhị khí Âm Dương, nếu hiểu được ý nghĩa thổ nạp, con người sẽ thành tiên.

D. BÌNH GIẢNG

Lời bình giảng của Vụ Thành Tử về chương này làm nổi bật lên 4 vấn đề:

1. Ma sát mũi, mặt (các câu 1, 2, 3).

2. Hồi quang phản chiếu 回 光 返 照 (các câu 4, 5).

3. Tồn tâm thần 存 心 神 (các câu 6, 7).

4. Nuốt ngọc dịch (yết tân) 咽 津 (các câu 7, 8).

5. Thổ nạp 吐 納, tức là thở độc khí ra, hít thanh khí vào.

Hồi quang phản chiếu 回 光 返 照 tồn tâm thần 存 心 神 rất quan trọng nhưng chúng ta đã đề cập nhiều. Phép nuốt Ngọc dịch (tức yết tân) đã được giải thích nơi chương 3.

Nơi chương này ta bàn về hai vấn đề: (1) Ma sát mặt mũi và (2) Thổ nạp.

1. Ma sát mặt mũi.

Các sách dưỡng sinh thuộc đạo Lão xưa thường hay bàn về vấn đề này. Trong Thập nhị đoạn động công thì phép ma sát mặt (mà người xưa gọi là Dục diện 浴 面: tắm mặt) được xếp hàng thứ ba sau Khấu xỉ 叩 齒 Yết tân 咽 津. Tất cả những phương pháp đạo dẫn án ma 導 引 按 摩 của đạo Lão cốt là để khử bệnh 去 病, diên niên 延 年 mà thôi.

Dục diện 浴 面 (tắm mặt, ma sát mặt):

«Lấy hai tay, xoa vào nhau cho nóng, rồi chà xát lên mặt, như khi rửa mặt. Làm thế, râu tóc sẽ không bạc, mặt sẽ trẻ mãi.» (Xem Thọ thế thanh biên, tr. 18, và Thông Thiên bí thư tục tập, Trí phú toàn thư, q. 4, tr. 8b.)

Sách Chân Tây Sơn vệ sinh ca của Tử Viên tiên sư có bài thơ sau:

Thu đông nhật xuất, thủy xuyên y,

秋 冬 日 出 始 穿 衣

Xuân hạ kê minh, nghi tảo khởi.

春 夏 雞 鳴 宜 早 起

Tí hậu, Dần tiền, thụy giác lai,

子 後 寅 前 睡 覺 來

Minh mục khấu xỉ, nhị thất hồi,

暝 目 叩 齒 二 七 回

Hấp tân, thổ cố, vô lệnh ngộ,

吸 新 吐 故 毋 令 誤

Yến thấu ngọc tuyền, hoàn dưỡng thai.

嚥 漱 玉 泉 還 養 胎

Chỉ ma thủ tâm, úy lưỡng nhãn,

指 摩 手 心 熨 兩 眼

Nhưng cánh giai ma ngạch dữ diện.

仍 更 揩 摩 額 與 面

Trung chỉ thời thời sát tị hành,

中 指 時 時 擦 鼻 莖

Tả hữu nhĩ căn, thuyên sổ biến,

左 右 耳 根 筌 數 遍

Cánh năng can dục nhất thân gian ...

更 能 乾 浴 一 身 間

Dịch:

Thu Đông, mặc áo, lúc Dương lên,

Xuân Hạ, gà gáy, nên dậy sớm.

Nửa đêm về sáng, nếu tỉnh dậy,

Nhắm mắt nghiến răng 27 hồi,

Nạp tân, thổ cố, đừng nhầm nhỡ.

Nước miếng nuốt vào dưỡng hình hài.

Ngón (tay) chà lòng tay, vuốt đôi mắt,

Đoạn chà xát thêm trán và mặt.

Cánh mũi nên dùng ngón giữa vuốt.

Quanh tai hai phía nên sát ma,

Rồi đến toàn thân nên ma sát ...

Sách Thông Thiên Bí Thư tục tập, tức Trí phú toàn thư của Vương Hiển Đình, nơi quyển 4, tr. 6b, còn ghi chép Án ma diện thượng chư huyệt 按 摩 面 上 諸 穴, nghĩa là phép xoa bóp các huyệt trên mặt như: Tinh minh, Thái dương, Ngư vĩ, Thừa tương, Ti Trúc không, Nghinh hương ...

2. Phép thổ nạp

Thổ nạp 吐 納 hay Thổ cố nạp tân 吐 故 納 新 nghĩa là lấy miệng hà hơi cũ ra dùng mũi hít hơi mới vào. Làm sao cho mũi hít vào nhiều, miệng thở ra ít làm cho từ từ, để tâm trí vào đó, làm lâu lai sẽ diên niên ... (Đạo học từ điển, tr. 108). [1]

Hít vào chỉ có một cách gọi là Hấp . Còn thở ra có sáu cách, theo âm sáu chữ là , Ha , , , Xuy , Y .

Mỗi chữ đó, công hiệu hơn kém tùy theo mùa, có ảnh hưởng đến một tạng nhất định nào trong ngũ tạng, và chữa được một loại bệnh nào. Xem đồ bản dưới đây sẽ rõ:

 

LỤC TỰ

MÙA NÀO

CÔNG HIỆU HƠN

ỨNG VỚI

BỘ PHẬN

CHỮA BỆNH

Xuân

gan

bệnh gan

Ha

Hạ

tim

bệnh tim

tứ quý

bệnh tì

18 ngày cuối mỗi mùa

phế

bệnh phổi

Xuy

Thu

thận

bệnh thận

Y (Hi )

Đông

tam tiêu

nhiệt bệnh

- Thọ Thế Thanh Biên nơi các trang 23b, 24a, 24b dạy cách thổ nạp như:

- Ở trong phòng yên tĩnh, ấm áp.

- Ngồi xếp chân bàn tròn, ngồi yên.

- Thi hành động công trước cho khí huyết chuyển vận.

- Bế tỏa ngũ quan, ngậm miệng, cắn răng, lòng không, tâm tĩnh. Như thế, một lúc lâu, cho khí huyết trở nên hòa hoãn, hơi thở điều hòa.

- Sau đó, dùng miệng phả độc khí ra 2, 3 lần.

- Rồi sau đó, mới tùy bệnh, tùy mùa mà đọc rất nhỏ các chữ , Ha , , , [2] Xuy , Y .

Sáu chữ này cốt là để phả độc khí ra, đoạn mới hít hơi vào. Mỗi thứ làm 24 hoặc 26 lần.

· Sách Trí Phú Toàn Thư ghi rõ hơn như sau:

- Từ giờ Tí (nửa đêm) đến giờ Tị (9 - 11 giờ) thuộc Dương, quay về hướng đông, ngồi ngay ngắn.

- Khấu xỉ 叩 齒 (đập răng) để tập thần, tụ thần.

- Yết tân 咽 津 (nuốt nước bọt).

Xong rồi:

(1) Khẽ đọc chữ Ha (đọc rất khẽ, không cho tai mình nghe tiếng) để phả độc khí nơi tâm xoang. Rồi ngửa mặt lên trời, hít thanh khí, để bổ tim. Như vậy 6 lần.

(2) Rồi đọc chữ để phả độc nơi Tì. Rồi hít thanh khí vào để bổ Tì. Làm 6 lần.

(3) Rồi đọc chữ để phả khí độc nơi Phổi, hít thanh khí vào để bổ phế, 6 lần.

(4) Đọc chữ để phả độc khí nơi gan, Hít thành khí vào để bổ Gan, 6 lần.

(5) Đọc Hi để thả độc khí trong mật, hít thanh khí vào để bổ mật, 6 lần.

(6) Đọc Xuy để tả độc khí nơi thận, hít thanh khí vào để bổ Thận, 6 lần.

6 x 6 = 36 lần, tức là 1 vòng Đại Chu Thiên 大 周 天.

Từ giờ Ngọ đến giờ Hợi , quay mặt về phía Nam, vì Nam phương là Hỏa, có thể trừ Âm độc 陰 毒. (Xem sách đã dẫn nơi tr. 7b, q. 4).

- Sách Trí phú Toàn Thư, nơi tr. 8a, quyển 4, còn cho một bài Diên niên lục tự quyết 延 年 六 字 訣 như sau:

(1) Đọc chữa bệnh gan, gan nhiệt, mắt đỏ, mắt mờ, chảy nước mắt.

(2) Đọc Ha chữa bệnh tim và bệnh ở Thượng Tiêu.

(3) Đọc chữa bệnh phổi, cảm hàn, cảm nhiệt, lao muộn, hoặc độc sang.

(4) Đọc Xuy trị bệnh Thận, bệnh tai hoặc lưng, gối lạnh, dương đạo yếu.

(5) Đọc Hi trị bệnh Tam tiêu.

(6) Đọc trị Tì, bụng chướng, bụng đầy, tứ chi phiền muộn, khí trệ không thông.

Sách Thọ Thế Thanh Biên nơi tr. 24b có bài thơ:

Xuân minh mục, mộc phù can,

Hạ chí Ha tâm hỏa tự nhàn.

春 噓 明 目 木 扶 肝

Thu định tri kim phế nhuận,

夏 至 呵 心 火 自 閑

Đông Xuy duy lệnh Thận trung an.

秋 呬 定 知 金 肺 潤

Tam Tiêu Hi khước trừ phiền não,

冬 吹 惟 令 腎 中 安

Tứ quí thường , Tì hóa xan.

三 焦 嘻 卻 除 煩 惱

Thiết kỵ xuất thanh văn khẩu nhĩ,

四 季 常 呼 脾 化 餐

Kỳ công vưu thắng bảo Thần đan ... [3]

其 功 尤 勝 保 神 丹

Về phương pháp Án ma, xin đọc thêm quyển Cổ Tiên Đạo Dẫn Án Ma Pháp 古 仙 導 引 按 摩 法. Về phép thổ nạp, xin đọc thêm quyển Tu Linh Yếu Chỉ 修 齡 要 指, chương Diên niên lục tự quyết 延 年 六 字 訣, và Tứ quý khước bệnh ca四 季 卻 病 歌, nơi các trang 2h, 3a, v.v.

Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng Huỳnh Đình Ngoại Cảnh nhấn mạnh đến các phép:

(1) Quán tưởng Thần Huỳnh Đình

Trạch trung hữu sĩ thường y giáng,

宅 中 有 士 常 衣 降

Tử năng kiến chi, khả bất bệnh.

子 能 見 之 可 不 病

Hoành kính trường xích ước kỳ thượng,

橫 徑 長 尺 約 其 上

Tử năng thủ chi khả vô dạng.

子 能 守 之 可 無 恙

(2) Thổ nạp (ngưng thần tụ khí về Thượng đan điền)

Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, chương 4, viết:

Hô hấp lư gian dĩ tự thưởng,

呼 吸 廬 間 以 自 償

Bảo thủ hoàn kiên, thân thụ khánh.

保 守 完 堅 身 受 慶

Nơi chương 3, khi nói về phương pháp Yết tân, tôi có ghi lời của Tử Hà cho rằng đó không phải là đại đạo.

Nơi đây khi bàn về phương pháp thổ nạp của đạo Lão, về chiều hướng giải thích chương này, nghiêng về các phương pháp ma sát, thổ nạp của Vụ Thành Tử, tôi cũng ghi lại quan điểm của Sung Ẩn Tử Thạch Hòa Dương, một trong những nhà bình giải Huỳnh Đình Ngoại Cảnh.

Khi bình câu «Hô hấp lư gian dĩ tự thưởng» nơi chương 4 Huỳnh Đình Ngoại Cảnh ông viết:

«Thế tức là đi đứng nằm ngồi, không lìa Cái Đó [Nê Hoàn Cung, Tổ Khiếu, Phương Thốn, Huỳnh Đình]. Ngưng thần, tụ khí về nơi đó, lâu lai, sẽ thành thai tiên [...] Khí đó không phải là Khí hô hấp. Cho nên bàng môn bày ra thuyết vận khí, đánh lừa người không ít.» 所 謂 行 住 坐 臥, 不 離 這 個. 凝 神 聚 氣 於 這 個 之 中, 久 則 成 胎 仙 矣. [...] 此 氣 非 呼 吸 之 氣. 是 以 傍 門 有 運 氣 之 說, 誤 人 不 少 (Sở vị hành trú tọa ngọa, bất ly Giá Cá. Ngưng thần tụ khí ư Giá Cá chi trung, cửu tắc thành thai tiên hĩ. [...] Thử khí phi hô hấp chi khí. Thị dĩ bàng môn hữu vận khí chi thuyết, ngộ nhân bất thiểu.)

Tiên Học Từ Điển (tr. 70) cũng xếp bốn môn Động, Tĩnh, Thuật, Lưu sau đây là ngoại đạo, tức là những phương thuật, công phu không giúp con người đắc đạo được:

1- Động : Thể thao 體 操, vận động 運 動, ma sát 摩 擦, đạo dẫn 導 引.

2- Tĩnh : Tham thiền 參 禪, đả tọa 打 坐, giới ngữ 戒 語, trì trai 持 齋, hưu lương 休 糧 (nhịn ăn), tị cốc 避 谷 (vào hang ở ẩn), thụy công 睡 功 (phép nằm ngủ), lập công 立 功 (phép đứng), v.v.

3- Thuật : Phù chú 符 咒, hô phong 呼 風, hoán vũ 喚 雨, v.v.

4- Lưu : Y , bốc, tinh , tướng , v.v.

Trang Tử nơi chương Khắc Ý của Nam Hoa Kinh cho rằng: «Xuy, hu, thổ nạp, vận động như gấu leo, chim lượn, là cốt tăng thọ. Đó là sở thích của các người thích môn đạo dẫn, thích dưỡng hình, thích thọ như Bành Tổ.» [4]

Trong khi bàn về phương pháp yết tân, thổ nạp, đạo dẫn, ma sát, vận khí, điều tức, v.v... tôi cũng vẫn nhận định rằng chúng chỉ có công hiệu đối với cơ thể chúng ta, làm cho khí huyết thông sướng, con người mạnh khỏe ít bệnh, có vậy thôi.

Còn tập trung Thần khí, phát huệ, sống phối kết với Trời, với Đạo nơi tâm khảm mình, mới chính là Đại Đạo. Nhắc lại để người hành đạo tu trì, phân biệt được thấp cao, và đừng lặn ngụp, lạc lõng trong cái thấp, vì những kết quả sinh lý nhãn tiền mình có thể thâu lượm được ...

Tử khí đông lai 紫 氣 東 來


[1] Phép thổ nạp tức là lục khí pháp 六 氣 法 (cũng gọi lục tự quyết 六 字 訣 hay lục tự pháp 六 字 法). Lục tự pháp bắt đầu xuất hiện từ đời Nam Bắc Triều trong tác phẩm Dưỡng Tính Diên Mệnh Lục 養 性 延 命 錄 của Đào Hoằng Cảnh 陶 弘 景 (456-536). Sau đó xuất hiện trong quyển Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu Tạp Thuyết 修 習 止 觀 坐 禪 法 要 雜 說 của Trí Khải 智 顗 (538-597) đời Tùy, và trong quyển Thiên Kim Yếu Phương 天 金 要 方 của Tôn Tư Mạc 孫 思 邈 (541-682) đời Đường, rồi lưu hành từ đó đến nay. Nhưng 6 chữ này hơi khác nhau. Đào Hoằng Cảnh và Tôn Tư Mạc dùng 6 chữ: Xuy , Hô , Hi , Ha , Hư , Hí . Trí Khải đại sư của Thiên Thai tông 天 台 宗 dùng 6 chữ: Xuy , Hô , Hi , Ha , Hư , Hí . Nhưng nguyên tắc chung là thở ra bằng miệng, hít vào bằng mũi (kỳ pháp dĩ khẩu thổ tị thủ 其 法 以 口 吐 鼻 取) và không để tai nghe thấy hơi ra vào (bất sử nhĩ văn 不 使 耳 聞).

[2] Chữ Khang Hi và Thuyết Văn Giải Tự đọc là (hứa khí thiết 許 器 切) hoặc là hứ (hứa tứ thiết 許 四 切). Vậy không đọc hi cho khỏi lầm với chữ hi .

[3] Trí phú toàn thư q. 4, tr. 3a cũng có bài thơ tương tự.

[4] Xuy, hu, hô hấp, thổ cố nạp tân, hùng kinh, điểu thân vi thọ nhi dĩ hĩ, thử đạo dẫn chi sĩ, dưỡng hình chi nhân Bành Tổ thọ khảo giả chi sở hiếu dã. , , 呼 吸, 吐 故 納 新, 熊 經, 鳥 申 為 壽 而 已 矣, 此 導 引 之 士, 養 形 之 人 彭 祖 壽 考 者 之 所 好 也 (Nam Hoa Kinh, XV).