CHÂN DUNG KHỔNG TỬ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Mục lục | Phi lộ | chương 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16  17  18  19  20

Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ lục | Sách tham khảo


Chương 1

Bối cảnh địa dư

 

 

Như sông Gange và sông Indus đã ngưng đọng nền văn minh Ấn Độ, như sông Tigre và sông Euphrate đã chứng kiến một thời kỳ huy hoàng trong lịch sử nước Babylonie, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử cũng đã đem lại nền văn minh, thịnh vượng cho Trung Hoa.

Sông Hoàng Hà uy nghi dưới ngòi bút của Lý Thái Bạch:

«Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,

Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.»

«Anh chẳng thấy Hoàng Hà nước nọ,

Tụ trên trời chảy đổ ra khơi.

Ra khơi thôi thế thì thôi,

Về nguồn trở lại có đời nào đâu.»

(Đường Thi, Trần Trọng Kim, trang 97)

Sông Hoàng Hà dũng mãnh đã tràn ngập Trung Quốc và đã làm cho vua Thuấn, vua Võ mất bao nhiêu công trị thủy. (Textes historiques, Wieger, p. 33)

Sông Hoàng Hà linh diệu đã đem bao nhiêu đất đỏ phì nhiêu từ các vùng cao nguyên hiểm trở xuống để lấp một quãng bể bao la từ Sơn Tây ra tới bờ bể ngày nay, đem người Trung Hoa từ các cao nguyên xuống, và bình nguyên nó đã thành trung tâm Trung Quốc kết tụ lại tất cả những huy hoàng tráng lệ vê tinh thần, vật chất Trung Hoa. (Histoire de la Chine, René Grousset, p. 73) (Chương này phần lớn trích trong sách Khảo luận và phê bình học thuyết của Khổng Tử của tác giả, từ trang 7- 11).

Sông Dương Tử và phụ lưu là sông Hán cũng không kém phần mênh mang. Kinh Thi ca tụng:

Hán chi quảng hĩ, bất khả vịnh ti,

Giang chi vĩnh hĩ, bất khả phương ti.

Dịch:

Mênh mông sông Hán, sông Giang

Lặn sang chẳng được, bè sang khó lòng.

(Kinh Thi, Tản Đà, trang 43)

Vài con sông nhỏ trở nên tiếng tăm vì nhờ có liên lạc, dính dấp đến đời sống các danh nhân, ví dụ như:

- Sông Vị, nơi Lã Vọng buông câu, đợi ngày Văn Vương mời ra giúp nước.

- Sông Thù, sông Tứ chảy qua khúc Phụ, nơi chôn rau cắt rốn của Hoàng Đế, của Y Doãn, nơi có lăng của Thiếu Hạo, có miếu của Chu Công, nơi mà đức Khổng mở mắt chào đời, sinh sống một thời kỳ thơ ấu, giảng giáo trong những năm già nua, yên nghỉ khi đã mãn phần, vì thế cho nên nói đến dòng Thù, Tứ, tức là ám chỉ đến Khổng giáo, Khổng môn.

- Sông Nghi miền nam nước Lỗ, nơi mà ông Tăng Tích ước muốn được sống thanh nhàn, ngoài vòng cuong tỏa lợi danh, cùng ít nhiều bạn bè trẻ, tắm mát rong chơi, trong những ngày cuối xuân đầm ấm. (LN, 12, 25).

- Sông Vấn giáp giới Lỗ với Tề, nơi mà Mẫn Tử Khiên dọa đi ẩn dật để khỏi phải ra làm quan đất Phí theo lời mời của quyền thần nước Lỗ là Quý Khương Tử. (LN, VI, 7).

Rồi đến giải núi Tần Lĩnh cao ngất trời, chia Trung Hoa làm hai phần Nam Bắc, mà đám mây vắt trên đỉnh cao xa như ấp ủ cả những tình lưu luyến cố hương.

«Đoái trông muôn dặm tử phần,

Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.»

Nguyễn Du

Bốn ngọn núi lịch sử Thái Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn là chỗ vua tập hợp các chư hầu, mỗi núi dành cho chư hầu một phương.

Nhìn địa dư, ta nhận thấy hai phần phân biệt:

1- Một phần là cao nguyên rừng núi, nơi xưng hùng xưng bá của những nước Tấn, Tần, Tề, Sở, đất phát sinh ra những chiến sĩ hùng cường, nguyện da ngựa bọc thây nơi chiến địa.

2- Một phần là bình nguyên qui tụ văn minh tinh thần Trung Hoa, nhưng chỉ có những nước nhỏ: Lỗ, Vệ, Trần, Tống, Trịnh, Kỷ, Thái…

Và dĩ nhiên là các nước hùng cứ Bắc Nam đều dồn mắt vào các nước trong bình nguyên sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, cho nên bình nguyên sông Hoàng Hà và sông Dương Tử cũng đã chứng kiến bao cảnh tàn phá. Nó «không những được cày bằng cày mà còn bị cày bằng vó ngựa, không những được gieo bằng hạt lúa mà còn bị gieo bằng đầu người, và hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử đã được tô điểm bằng những nàng con gái góa bụa, đã được nở đầy hoa trẻ mồ côi; những lớp sóng sông Hoàng Hà và Dương Tử đã dâng lên đầy những nước mắt của người cha già mẹ yếu.» (Văn Hóa Á Châu, số 19, 1959, trang 68). Đối với những người chinh phụ mong chồng thì:

Nước sông trôi hết xuân dần,

Trăng sông cũng lại xế dần sang Tây.

Đường Thi, Trần Trọng Kim, trang 91)

Và đối với đức Khổng thì bình nguyên Trung Hoa cũng đã từng ghi dấu gót phong sương…

Nhìn chung vào bản đồ Trung Quốc, ta thấy thực là «giang sơn riêng chiếm một cảnh trời». Phía Đông thì là cả một đại dương với muôn tầm sóng cả, phía Bắc thời Hoàng Hà chín khúc cuồn cuộn chảy, dãy Thái Hằng tuyết phủ mây che, làm cho Thái Bạch phải viết:

«Đường đi khó, tìm đường đi khó quá,

Rút kiếm bén ngỡ ngàng trông đây đó,

Lòng băn khoăn ta biết sẽ đi đâu,

Muốn qua Hoàng Hà, băng giá lấp sông sâu,

Muốn lên non Thái tuyết một mầu ảm đạm.»

(Hành Lộ Nan)

Xa hơn nữa là sa mạc Gobi với cát phủ bao la, với gió gào lạnh lẽo.

Phía Tây thì Tần Lĩnh và Côn Lôn là hai dãy núi trập trùng hiểm trở. Phía Tây Nam thời Hi Mã Lạp Sơn với những ngọn núi cao vút chín tầng mây, như những bức trường thành muôn vạn nhận, vươn lên thinh không để ngăn cách Trung Hoa với các nước miền Nam như Ấn Độ và Tây Tạng.

Nói thế nghĩa là Trung Quốc cổ thời rất khó mà có được những liên lạc văn hóa với các trung tâm văn hóa khác như Ấn Độ, Babylone, Hi Lạp, Ai Cập. Thế nhưng ngày nay khi mà từ ngữ cũng như những biên giới thiên nhiên, núi sông hiểm trở không còn là những bức tường thành kiên cố ngăn cách con người, ngày nay, khi đem so sánh học thuyết Khổng Tử với các học thuyết khác trên thế giới, ta thấy có rất nhiều điểm tương đồng, y như đã phát xuất từ một nguồn. Nguồn ấy là đâu, phải chăng là tâm linh con người?

Sách Deutéronome viết: «Thực vậy, lề luật mà ta truyền dạy ngươi hôm nay, không có ở ngoài tầm kích ngươi. Nó không ở trên trời để ngươi phải nói: Ai lên trời cho chúng tôi tìm luật đó, để chúng tôi được nghe biết và được thi hành. Nó cũng không phải ở cách trùng dương để ngươi phải nói: Ai sẽ vượt biển cho chúng tôi tìm luật đó, để chúng tôi được nghe biết và được thi hành. Đạo kề bên ngươi, đạo ở trong miệng, trong lòng ngươi, để có thể đem thực hiện.» (Deut. 30, 11- 14)

Thế mới hay: «Muốn tìm cho ra pháp giới tính, nhất định phải do tâm.» (Ưng quan pháp giới tính, nhất thiết do tâm tạo.)[1]

Người Việt xưa viết:

«Quan Âm nghìn mắt nghìn tay,

Cũng do một điểm linh đài mà ra.»

thật là chí lý vậy.

Khu vực Khúc Phụ, quê hương đức Khổng.

Trung Quốc Ngũ Thiên Niên Sử - quyển 3, trang 401.


[1] Hoa Nghiêm Kinh, trang 12, Hán văn của chùa Hoa Nghiêm, Gia Định.


Mục lục | Phi lộ | chương 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16  17  18  19  20

Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ lục | Sách tham khảo