CHÂN DUNG KHỔNG TỬ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13
14 15
16 17
18 19
20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
Chương 14
Đức Khổng, con
người nghệ sĩ
Đức Khổng là một con người rất có tâm hồn
nghệ sĩ. Ngài rất say mê ưa chuộng âm nhạc, và dùng âm nhạc để bình tâm
tĩnh trí, hàm dưỡng cho tinh thần trở nên cao khiết.
Đức Khổng biết nhạc từ hồi còn trẻ.
Khi nghe ai hát bài nào hay, Ngài thường
yêu cầu hát lại, và tập hòa theo. (LN, VII, 31).
Ở đâu mà có nhạc sư danh tiếng Ngài cũng
tìm tới để học hỏi, hoặc để bàn bạc. Ngài đã gặp Trành Hoằng ở Châu, các
nhạc sư ở Tề (LN, VI, 13) và Lỗ (LN, III, 23).
Khi 35 tuổi, sang Tề, Ngài có dịp học nhạc
Thiều. Ngài học say mê đến nỗi trong vòng ba tháng không biết mùi vị
thịt (LN, VII, 13).
Thường nhật, Ngài hay đàn ca hoặc gảy đàn
sắt (LN, XVI, 19) hoặc đánh khánh (LN, XIV, 42).
Ngài thích các loại nhạc uy nghi, trang
trọng như nhạc Thiều (LN, III, 25) và ghét các loại nhạc dâm đãng, phóng
túng như nhạc Trịnh (LN, XVII, 17).
Ngài khiển trách Tử Lộ vì đã tấu những
khúc nhạc có những cung điệu cuồng bạo, sát phạt trong nhà Ngài (LN, XI,
14).
Khi trở về già, Ngài đã sửa sang lại âm
nhạc (LN, XI, 14).
Ngài đã đem hết các bài ca trong Kinh Thi
để phổ nhạc. Tư Mã Thiên viết: «Đức Khổng đem ba trăm lẻ năm thiên Kinh
Thi ra mà đàn ca cho hợp với âm thanh của Thiều, Vũ, Nhã, Tụng.»
Ngài chủ trương:
Học Kinh Thi để cho lòng thêm hứng khởi,
vui sống.
Học Kinh Lễ để biết tuân theo luật lệ tự
nhiên mà ở ăn.
Học Nhạc để cho con người trở nên vẹn hảo,
hòa hợp được với nhân quần và vũ trụ (LN, VIII, 9).
Những lúc Ngài bị lao lung nguy khốn nhất,
lại là lúc ta thấy Ngài dùng âm nhạc để trấn tĩnh tinh thần (xem Sử Ký
Tư Mã Thiên, chương Khổng Tử thế gia, lúc Ngài bị tuyệt lương ở cánh
đồng giữa Trần và Thái.)
Đức Khổng là một người sành về nhạc lý
(LN, III, 3, 23, 25; XVI, 2; XVII, 11).
Các môn đệ Ngài cũng có nhiều người ưa
nhạc, thích tấu nhạc như Tử Lộ (LN, XI, 14), Tăng Tích (LN, XI, 25), Tử
Du (LN, XIII, 4).
Đức Khổng cho rằng nhạc rất quan hệ trong
đời sống cá nhân cũng như trong nghệ thuật trị dân. Người xưa cho rằng
Lễ, Nhạc, Hình, Chính phải đi với nhau, thì dân mới yên, nước mới trị.
KHÁI NIỆM VỀ NHẠC
Đức Khổng đã san định lại cả một bộ Kinh
Nhạc. Bộ sách này đã bị thất lạc.
Ở Lễ Ký ta thấy vẻn vẹn còn có một thiên
Nhạc Ký.
Nhưng nhờ đoạn này và tham khảo thêm Tứ
Thư, Ngũ Kinh, và cổ thư, ta cũng có thể có một khái niệm về nhạc xưa.
Nhạc là gì?
Chữ nhạc đây không phải là ca nhạc suông,
mà gồm cả nhạc và vũ.
Nhạc Ký viết: «Chuông, trống, sáo, khánh,
vũ, thược, can, qua là những nhạc khí. Co, ruỗi, ưỡn, khom, chụm, tỏa,
nhanh, chậm là nhạc văn.» (Chung, cổ, quản, khánh, vũ, thược, can,
thích, nhạc chi khí dã; khuất thân, phủ ngưỡng, chuyết triệu, tật thư,
nhạc chi văn dã. - Uyên Giám Loại Hàm, III, 3203).
Nói cách khác, nhạc gồm:
- Thi
- Ca
- Nhạc
- Vũ
Nhạc là sự phối hợp của thanh âm, màu sắc,
tiết tấu, chuyển động, để mà kích thích, di dưỡng tâm thần con người.
Nhạc tức là tiếng lòng con người, tâm
tình, tâm trạng con người phát ra qua lời ca, giọng hát; qua âm thanh
của nhạc khí; qua điệu bộ của nhạc công, vũ công; qua màu sắc và hình
thù của mao, vũ (dùng khi múa), can, thích (dùng khi múa võ).
Cho nên khi lòng đau thương, thì tiếng
nhạc lời ca cũng lâm li ai oán.
Khi lòng vui vẻ, thì lời ca tiếng nhạc
cũng rộn rã vui hòa.
Khi lòng thư thái, tiếng nhạc lời ca sẽ
khoan hòa, êm ả.
Khi lòng mà kính cẩn, tiếng nhạc lời ca sẽ
trang nghiêm, réo rắt.
Khi lòng mà oán hờn, giận dữ, nhạc và ca
cũng sẽ chát chúa, sôi sục.
Khi lòng mà dâm đãng, phóng túng, nhạc và
ca cũng sẽ ủy mị, khêu gợi, phóng túng, lả lơi.
Những yếu tố cấu tạo
nên nhạc
Muốn ca hát, nhã nhạc, trươc hết phải qui
định những cung điệu cơ bản, những âm thanh cơ bản.
Có năm cung điệu cơ bản, đó là: Cung,
Thương, Giốc, Chủy, Vũ (Nhiệm Ứng Thu, trong quyển Ngũ vận Lục Khí đã
cho rằng Cung thời trầm nhất mà Vũ thời cao nhất).
Có 12 âm thanh cơ bản (thập nhị luật),
gồm:
- Sáu dấu Dương gọi là Lục Luật: Hoàng
Chung, Thái Thốc, Cô Tẩy, Nhuy Tân, Di Tắc, Vô Dịch.
- Sáu dấu Âm gọi là Lục Lữ: Lâm Chung, Nam
Lữ, Ứng Chung, Đại Lữ, Giáp Chung, Trọng Lữ.
Ta viết:
- Hoàng Chung : Do
- Đại Lữ :
Do#
- Thái Thốc : Ré
- Giáp Chung : Ré#
- Cô Tẩy : Mi
- Trọng Lữ : Fa
- Nhuy Tân : Fa#
- Lâm Chung : Sol
- Di Tắc : Sol#
- Nam Lữ : La
- Vô Dịch : La#
- Ứng Chung : Si
Về nhạc liệu, người xưa dùng tám loại, gọi
là Bát âm:
- Da (Cách)
- Bầu (Bào)
- Trúc (Trúc)
- Tơ (Ti)
- Gỗ (Mộc)
- Đất (Thổ)
- Kim (Kim)
- Đá (Thạch)
cổ cầm |
tì bà |
hồ cầm |
địch |
sanh |
tiêu |
tỏa nột (xô na) |
tam huyền |
nhị hồ |
não bạt |
cổ tranh |
trống |
Mỗi loại chất liệu kể trên lại có thể dùng
để chế tạo một hay nhiều nhạc khí.
- Da (Cách) dùng để làm các loại trống:
trống lớn, trống nhỏ, trống treo: hoặc lục lăng, hoặc bát giác, hoặc
vuông; các loại trống trận lớn, nhỏ.
- Bầu (Bào) dùng để chế tạo các loại nhạc
khí như Sênh, Hoàng, Vũ.
- Trúc (Trúc) dùng để chế tạo các loại
quản, sáo (trì, địch, thược, tiêu, quản).
- Tơ (Ti) dùng để chế thành các loại đàn
(Cầm, Sắt, Đàn Không Hầu, Tì Bà, v.v…)
- Gỗ (Mộc) dùng để chế thành các loại
Chúc, Ngữ.
- Đất (Thổ) dùng để chế thành các loại
Huân, Phữu.
- Kim (Kim) dùng để chế thành các loại
Chuông, Chiêng, Não Bạt.
- Đá (Thạch) dùng để chế thành các loại
Khánh.
Nhạc khí chưa đủ, còn phải có nhạc công,
vũ công. Âm thanh chưa đủ, còn phải có màu sắc, có điệu bộ, có cung cách
trình diễn. Xưa bao giờ nhạc cũng gồm cả ca lẫn vũ.
Những vũ khí, tức là những dụng cụ dùng để
múa, thời có:
- Can (múa võ)
- Thích (múa võ)
- Mao (múa văn)
- Vũ (múa văn)
Những nhạc khúc xưa có nhiều nhạc khúc nổi
tiếng như:
- Hàm Trì (thời Hoàng Đế) ca tụng công lao
của Hoàng Đế đã có công làm cho đạo đức phát huy, thi triển được khắp
nơi.
- Đại Chương (thời Nghiêu) ý muốn nói lên
lòng mong muốn của vua, muốn cho nhân nghĩa đại hành, pháp độ chương
minh.
- Lục Anh (đời Đế Khốc).
- Ngũ Hành (thời Chuyên Húc).
- Tiêu Thiều (đời Thuấn) ý rằng vua Thuấn
muốn tiếp tục (Thiều nghĩa là kế tục) con đường của vua Nghiêu.
- Đại Hộ (nhà Thương Ân) ý nói nhà Ân sẽ
cố phục hưng, bảo hộ nền đạo đức của các thánh vương xưa.
- Đại Chước hay Đại Vũ (đời Chu) ý nói nhà
Chu sẽ châm chước để luôn theo đường lối của hai vua Văn, Vũ.
(Xem Uyên Giám Loại Hàm, quyển III, mục
nhạc Tổng tải, trang 3204.)
Thế mới hay người xưa mượn lời thơ để nói
lên chí hướng và hoài bão của mình, rồi phổ vào ca nhạc và vũ, để lời
thơ trở nên bất diệt, hoài bão của mình được quảng thi, quảng diễn, nhờ
đó có ảnh hưởng sâu rộng vào quần chúng. (Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn,
thanh y vĩnh, luật hòa thanh, bát âm khắc hài… - kinh Thư, Thuấn Điển,
tiết 23.)
Những bài học mà nhạc
dạy cho con người
Ta thấy trong trời đất bất kỳ là chất liệu
gì, dầu đất, dầu đá, dầu gỗ, dầu da, cvẫn có thể tinh luyện, vẫn có thể
chế tạo cho thành nhạc khí. Như vậy, đã sinh ra làm người, ai cũng có
thể trau chuốt dùi mài để trở nên thanh lịch, cao quý được. Một chính
trị gia chân chính sau khi đã lo phần cơm áo, phần ngoại cảnh cho dân,
phải lo tinh luyện cho tâm thần dân con được trở nên cao khiết, khoan
quảng, hòa duyệt, để cùng nhau sống trong cảnh thái hòa.
Hơn nữa, con người sinh ra chính là để
tinh luyện tâm thần mình ngày một trở nên tinh toàn, cao khiết, khiến
cho lòng mình trở nên khúc nhạc tuyệt vời, hòa nhịp được cùng với khúc
đại nhạc của vũ trụ. Sự tinh luyện, sự phát triển các tài đức còn tiềm
ẩn trong lòng mình, sẽ đem lại cho mình một thú vui chân thật và cao quý
chứ con người sinh ra không phải là để đắm mình trong những thú vui ô
trọc. Đi con đường ấy tức là nghịch thiên, nghịch lý, sẽ bị tử vong, đào
thải (xem Kinh Dịch, nơi quẻ Dự).
Muốn tấu nên một khúc nhạc tuyệt vời,
thanh âm của mỗi loại nhạc khí cần phải tinh tuyền; nhạc công phải là
những người điêu luyện. Lúc tấu nhạc phải theo nhịp điệu, tình tiết của
toàn ban, chứ không được theo những ý thích riêng tư.
Suy ra, trong một nước, muốn tạo nên một
nền đại hòa, đại thuận, mỗi người phải làm bổn phận mình cho chu đáo,
phải có tài đức đúng với ngôi vị mình, rồi phải cộng tác với nhau, phải
đồng tâm nhất trí mà xây dựng, mà điểm tô cho non sông đất nước.
Thế là vừa có tôn ti trật tự (Lễ) vừa có
phân công (division du travail), vừa có sự thống nhất đường lối hoạt
động, để cho tất cả mọi nỗ lực đều qui hướng về một mục phiêu nào
(coordination du travail).
Nếu nhạc có năm cung: Cung, Thương, Giốc,
Chủy, Vũ, thì đời sống quốc gia cũng gồm năm yếu tố:
- Vua (Cung)
- Quan (Thương)
- Dân (Giốc)
- Công tác xây dựng đất nước (Chủy)
- Nguyên liệu và ngoại cảnh (Vũ)
Nếu vua không xứng đáng để làm chủ chốt,
cầm giềng mối đất nước; nếu quan không đủ tài đôn đốc thi hành; nếu dân
bạc nhược, suy vi, phóng túng, không chịu cần cù, lao tác; nếu công cuộc
xây dựng phong doanh thái thịnh cho dân nước bị bê trễ; nếu các tài
nguyên trong nước không được khai thác cho chu đáo, hẳn hoi, thì làm sao
mà có được sự thái hòa, đại thuận?
Nhạc là sự rung động của tâm hồn để rồi
phát sinh ra thành âm thanh, nhạc điệu: lòng buồn sinh nhạc buồn, lòng
vui tạo nhạc vui. Nếu vậy, ta có thể dùng nhạc mà tạo nên được những tâm
trạng vui, buồn, hùng, kính, v.v…
Ảnh hưởng của nhạc rất là sâu xa:
- Nhạc đạo, nhạc Thiều sẽ gây kính cẩn
trang nghiêm.
- Nhạc đời, nhạc Trịnh sẽ gây tình dục.
- Nhạc chiến sẽ gây hùng tâm dũng khí.
- Nhạc sầu sẽ làm ủy mị lòng người.
Vì thế cho nên ngày xưa, cổ nhân cố bài
trừ những loại nhạc dâm bôn, phóng đãng, mà chỉ cho phổ biến những ca
khúc thanh khiết, trang trọng, hào hùng.
Thiên Nguyệt Lệnh Lễ Ký cho ta thấy đời
xưa vua chúa hết sức chú trọng đến âm nhạc, và các trường đều phải học
tập, đều phải trình diễn nhạc vào những thời kỳ nhất định. Những cuộc
trình diễn âm nhạc đặc biệt đều có sự hiện diện của vua và triều đình,
bá quan văn võ…
Nhạc là một lợi khí để
di dưỡng tinh thần
Trần Trọng Kim viết:
«Cái tác dụng của nhạc cốt để hòa thanh âm
cho tao nhã, để di dưỡng tính tình. Cho nên Khổng Tử nói:”Trí nhạc dĩ
trị tâm, tắc dĩ trực, từ, lương chi tâm du du nhiên sinh hỹ.” Trau chuốt
âm nhạc để trị lòng người, thì cái lòng giản dị, chính trực, từ ái,
thành tín, tự nhiên phơi phới mà sinh ra. (Lễ Ký, Tế Nghĩa XXIV). Thánh
nhân biết nhạc có cái thế lực rất mạnh về đường đạo đức, cho nên mới chế
ra nhạc để dạy người.”Nhạc là cái vui của thánh nhân, mà có thể khiến
cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và đi đến
di phong, dịch tục, cho nên tiên vương mới đặt ra dạy nhạc.” (Nhạc dã
giả, thánh nhân chi sở lạc dã, nhi khả dĩ thiện dân tâm, kỳ cảm nhân
thâm, kỳ di phong, dịch tục, cố tiên vương trứ kỳ giáo yên. - Nhạc Ký
XIX).» (Xem Trần Trọng Kim, Nho giáo I, trang 157, 158.)
Lịch sử đã nhiều lần chứng minh ảnh hưởng
lớn lao ghê gớm của nhạc.
Tề Vương dâng nữ nhạc để khuynh đảo vua Lỗ
và Quí Hoàn Tử, khiến cho đức Khổng phải cất bước ra đi (LN, XVIII, 4).
Trương Lương thổi tiêu mà làm cho quân
binh Hạng Võ tan rã…
Một bài Marseillaise của Pháp cũng gây
được xúc động và cũng đã hô hào, đã đoàn kết được dân Pháp, đã thúc đầy
được họ vác súng ra sa trường, mạnh mẽ hơn bất kỳ bài diễn văn hùng hồn
nào.
Nhạc chẳng những điều hòa được tâm tình
con người mà còn khiến cho lòng họ trở nên thanh cao, tế nhị. Vì thế,
Dịch Kinh chủ trương sau khi đã đoàn kết được mọi người (Đồng Nhân), sau
khi đã đem lại cho dân nước một nền phong doanh, phú thịnh (Đại Hữu),
bậc quốc quân còn phải dùng nhạc để làm cho con người có được một tâm
thần thanh cao, hòa duyệt (Dự), …
Nhạc là một lợi khí
đoàn kết con người, một biểu tượng cho sự hòa thuận
Nhạc cũng có mục đích là dạy con người
đoàn kết, hợp quần, chung lưng, góp sức để cùng nhau tạo dựng một đời
sống tâm thần và vật chất vẹn hảo.
Muốn có một khúc nhạc cho hay, phải có đủ
sự hòa hợp của tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đá, tiếng vàng, tiếng bầu,
tiếng gỗ, tiếng da, tiếng đất; lại cũng phải có sự hòa tấu của các loại
âm thanh cao thấp; có sự tiết tấu nhanh chậm, sự hòa nhịp của mọi loại
nhạc khí.
Cho nên vơ chồng mà hòa hợp thì gọi là sắt
cầm hòa hợp (Trung Dung XV); anh em mà hòa thuận thời cũng gọi là hòa
lạc vui vầy (Trung Dung XV); vua tôi mà hòa lạc thời gọi là đại hòa, đại
thuận. (Xem Lễ Ký, Lễ Vận, tiết IV, câu 14.)
Sự gàng quải, chia phôi, ngược lại, đã
được phô diễn bằng những thành ngữ âm nhạc như sau:
- Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.
- Đàn ngang cung, v.v…
Mạnh Tử có bàn về âm nhạc rất là sâu sắc
như sau:
Trang Bạo, một viên quan của Tề Tuyên
Vương, một hôm đến viếng Mạnh Tử và nói rằng: «Tôi có đến chầu vua.
Trong khi nói chuyện vua có cho tôi biết vua thích âm nhạc. Nhưng tôi
chẳng có lời chi đáp lại. Vậy tôi xin hỏi phu tử: Bực quốc trưởng mà
thích âm nhạc, thời cuộc trị nước ra thế nào?» Mạnh Tử đáp rằng: «Nếu
vua mà thật lòng ưa nhạc một cách thận trọng, thì vận nước Tề có mòi
hưng vượng đó.»
Một ngày khác, Mạnh Tử vào chầu vua, tâu
rằng: «Vua có nói với Thầy Trang rằng vua thích âm nhạc, phải vậy
chăng?» Vua biến sắc đáp rằng: «Quả nhân chẳng đủ sức mà hâm mộ và luyện
tập âm nhạc của các vị thánh vương đời xưa; thật ra quả nhân chỉ thích
âm nhạc của thế tục thôi.» Mạnh Tử nói: «Nếu vua mà thật lòng yêu thích
âm nhạc một cách trân trọng, thì vận nước Tề có mòi hưng vượng đó. Là vì
nhạc đời nay do nhạc đời xưa mà ra; cũng cùng công dụng chứ không khác
gì.»
Vua hỏi: «Quả nhân muốn biết hiệu lực của
âm nhạc có được chăng?»
Mạnh Tử vừa đáp vừa hỏi rằng: «Về thú vị
âm nhạc, một mình mình hưởng và cùng hưởng với người, bề nào vui hơn?»
- Cùng hưởng với người thì vui hơn.
- Cùng hưởng với một số ít người và cùng
hưởng với một số đông người, bề nào vui hơn?
- Cùng hưởng với một số đông người vui
hơn.
Mạnh Tử nói: Tôi xin giảng giải về âm nhạc
để vua nghe: Tỉ như nay vua ra lệnh tấu nhạc ở đây. Bá tánh nghe tiếng
chuông, tiếng trống cùng tiếng sáo tiếng tiêu của vua, họ đều nhức đầu
nhăn mày và méo mặt, bèn nói với nhau rằng: «Vua ta chỉ thích hòa nhạc
mà thôi. Sao người nỡ đày đọa chúng ta trong cảnh cùng cực như vầy? Cha
con chẳng thấy nhau; anh em, vợ con đều chia lìa phân tán.»
Tỉ như nay vua mở cuộc săn bắn ở đây. Bá
tánh nghe tiếng xe chạy, ngựa hí, cùng thấy những ngọn cờ hoa mỹ có kết
lông chim và lông thú của nhà vua, họ đều nhức đầu nhăn mày và méo mặt,
bèn nói với nhau rằng: «Vua ta chỉ ham săn bắn mà thôi. Sao người nỡ đày
đọa chúng ta trong cảnh cùng cực này? Cha con chẳng được thấy nhau; anh
em, vợ con đều chia lìa phân tán.»
Bá tánh oán than vua chỉ vì việc này thôi:
Vua chẳng cùng hưởng sự vui với dân.
Tỉ như nay vua ra lệnh tấu nhạc ở đây. Bá
tánh nghe tiếng chuông, tiếng trống cùng tiếng sáo, tiếng tiêu của vua,
gương mặt họ lộ vẻ vui mừng hớn hở. Họ bèn nói với nhau rằng: «Đó là
điềm lành chứng tỏ vua ta chẳng có tật bệnh chứ gì? Nếu người đau yếu,
thì làm sao mở ra cuộc tấu nhạc cho được?»
Tỉ như nay vua mở ra cuộc săn bắn ở đây.
Bá tánh nghe tiếng xe chạy, ngựa hí, cùng thấy những ngọn cờ hoa mỹ có
kết lông chim và lông thú của nhà vua, gương mặt họ lộ vẻ vui sướng hớn
hở. Họ bèn nói với nhau rằng: «Đó là điềm lành chứng tỏ vua ta chẳng có
tật bệnh chứ gì? Nếu người đau yếu, thì làm sao mở ra cuộc săn bắn cho
được? Bá tánh hoan nghênh vua chỉ vì việc này thôi: Vua cùng hưởng sự
vui với dân. Hiện nay nếu vua với bá tánh cùng nhau vui hưởng sự
khoái lạc, thì nền cai trị của vua có bề hưng vượng đó.» (Cf. Mạnh Tử,
Đoàn Trung Còn I, 41, 43. Mạnh Tử, Lương Huệ Vương, chương cú hạ, 1.)
Thế mới hay nhạc dạy hòa thuận, mà hòa thuận chính là phúc cùng hưởng,
họa cùng chia vậy.
Nhạc là phản ảnh tình
trạng đất nước
Cho nên nhạc là tấm gương phản ảnh lại nền
hành chính, hoặc tình trạng hay dở trong dân, trong nước.
- Nước mạnh, thời nhạc hùng.
- Nước yếu, thời nhạc bạc nhược.
- Nước loạn ly, tang tóc, thời nhạc ai
oán, sầu bi, hay là buông thả cho đoạn tháng qua ngày.
- Nước trị bình, thời nhạc yên vui, đầm
ấm.
Lễ và Nhạc
Trần Trọng Kim bàn về tương quan giữa Lễ
và Nhạc như sau:
«Lễ, Nhạc quan hệ đến luân lý, phong tục,
và chính trị rất mật thiết lắm. Cho nên các Nho gia tìm cái căn nguyên ở
trong đạo tự nhiên của trời đất, cho Lễ là cái trật tự của trời đất,
Nhạc là cái điều hòa của trời đất. (Nhạc giả thiên địa chi hòa dã, Lễ
giả thiên địa chi tự dã. - Lễ Ký, Nhạc Ký XIX). Lễ phân ra trật tự khác
nhau, để cho vạn vật có thứ vị phân minh; Nhạc hợp đồng lại làm một, để
người ta biết vạn vật tuy khác nhau nhưng cũng đồng một thể, cùng theo
một lẽ điều hòa mà sinh hóa. Cho nên mới nói rằng:”Trời cao đất thấp,
muôn vật khác nhau, cho nên mới nhân đó mà định ra Lễ chế, để phân tôn
ti, trật tự. Trời đất và vạn vật lưu hành không nghỉ, rồi hội họp khí
tính cho điều hòa, để hợp đức mà sinh dục, thế mới thành ra có Nhạc
vậy.” (Thiên cao địa hạ, vạn vật tán thù, nhi lễ chế hành hỹ. Lưu nhi
bất tức, hợp đồng nhi hóa, nhi Nhạc hưng yên. - Lễ Ký, Nhạc Ký XII)
«Tiên vương chế ra nhạc không phải là để
làm cho cùng cực cái dục của miệng, bụng, tai, mắt, nhưng để khiến cho
dân giữ lòng hiếu, ố cho vừa phải, mà sửa lại cái đạo làm người cho
chính vậy. (Tiên vương chi dĩ chế Lễ Nhạc dã, phi dĩ cực khẩu, phúc,
nhĩ, mục chi dục dã, tương giáo dân bình hiếu ố, nhi phản nhân đạo chi
chính dã).» - Lễ Ký XIX. Cf. TTK, Nho giáo I, 146, 147)
Lễ, Nhạc, Hình, Chính
Lễ, Nhạc quan trọng như thế nên người xưa
đã đem áp dụng vào nghệ thuật trị dân.
Người xưa trị dân dựa vào bốn phương pháp:
- Lễ
- Nhạc
- Hình
- Chính
+ Lễ qui định tôn ti, trật tự, xác định
bổn phận của mọi tầng lớp trong xã hội, khiến cho mọi người kính trọng
lẫn nhau, vẹn nhân, vẹn nghĩa.
+ Nhạc có mục đích làm cho con người trở
nên thanh lịch, cao khiết, sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống
trọn vẹn với huy hiệu con người, tạo nên tình thân ái, hòa thuận trong
quốc gia, xã hội.
+ Hình có mục đích ngăn chặn mọi ảnh hưởng
xấu xa, ác độc, làm cho con người tránh được những hiểm họa hư hỏng,
băng đọa, phân tán, chia ly…
+ Chính có mục đích tổ chức đời sống xã
hội cho có lý sự, đem lại no ấm, an bình, trật tự cho dân, giáo hóa dân,
cải thiện dân, để mỗi ngày mỗi hơn, mỗi ngày mỗi tiến…
Khảo về lòng yêu âm nhạc của đức Khổng, ta
thấy được ý nghĩa sâu xa của nhạc, ta hiểu được tầm kích của âm nhạc.
Chung qui, nhạc muốn cho hay, cốt là ở chỗ
có tâm hồn cao khiết, biết rung cảm, biết truyền tâm, truyền thần, lồng
tình lồng ý của mình vào vần thơ, tiếng nhạc, chứ nhạc không phải là ở
chỗ khua chiêng, gióng trống, đánh mõ, đánh khánh. (LN, XVII, 11).
Muốn tạo nhạc, muốn tấu nhạc, con người
cần phải có một tâm hồn cao khiết, vẹn toàn (LN, III, 3).
Nhạc vũ thực ra không phải là để thỏa mãn,
để kích thích giác quan, kích thích tình dục, thị hiếu, mà nhạc là để
điều hòa tình tiết; gạn đục, khơi trong tâm hồn, khiến cho tâm hồn ngày
một nên cao khiết siêu vi. (Cf. Lễ Ký, Nhạc Ký XIX).
Nhạc có mục đích chính yếu là đem lại vui
chung cho mọi người, thắt chặt tình đoàn kết, đem lại hòa thuận cho mọi
tầng lớp nhân dân, chứ không phải là một sản phẩm của những người dư
tiền, dư bạc; một công cụ giúp cho những cuộc ăn chơi, sa đọa, trác
táng. (Cf. Mạnh Tử Lương Huệ Vương chương cú hạ, 1).
Xưa cũng như nay, Nhạc có mục đích có ý
nghĩa của nó. Hiểu nhạc như vậy, sẽ giúp ta hiểu thêm về đức Khổng và
quan niệm của Nho gia sau này về Nhạc và công dụng của Nhạc…
CHÚ THÍCH
Tam bách
ngũ thiên, Khổng Tử giai huyền ca chi, dĩ cầu hợp Thiều, Vũ, Nhã, Tụng
chi âm. (Sử Ký Tư Mã Thiên, chương Khổng Tử thế gia.)
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13
14 15
16 17
18 19
20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
|