CHÂN DUNG KHỔNG TỬ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Phi lộ | chương
1
2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
Chương 2
Bối cảnh lịch sử
A. Đồ biểu
lịch sử
ĐỜI |
VUA |
ĐÔ |
TIỀN SỬ |
Phục Hy, Thần Nông |
Trần (Hoài), Khúc Phụ |
CẬN SỬ 2686 |
Hoàng Đế |
Trác Lộc |
SỬ
2357-2255
2255-2205 |
Thời phong kiến
Nghiêu
Thuấn |
Bình Dương
Bồ Bản |
HẠ 17 vua, 439 năm
2205- 1766 |
Đại Võ (2205-2197)
Đế Kiệt (1818-1766) |
An Ấp |
THƯƠNG ÂN 28 vua, 644
năm, 1766-1122 |
Thành Thang (1766-1753)
Trụ (1154-1122) |
Bạc |
CHU 38 vua, 873 năm |
Văn Vương (thụy phong)
Võ Vương (1122-1115)
Bình Vương (770-719) |
Phong Cảo
Lạc Dương |
Thế Xuân Thu: 722-481
Thế Chiến Quốc: 481-249 |
Khổng Tử: 551-479
Mạnh Tử: 372-289 |
Bị chú: Niên lịch đây là theo Thông
Giám Cương Mục. Từ năm 827 trước Tây Lịch về trước sử Tàu còn có ghi
theo niên lịch ghi trong Trúc Thư kỷ Niên. Sự sai biệt giữa hai niên
lịch xê xích chừng vài chục năm. Trên đây chỉ ghi vua đầu và cuối đời.
Thời Khổng Tử ứng vào cuối đời Hồng bàng, ứng vào các vua sau đây bên
Nhật Bản: Thần Võ Thiên Hoàng (660- 585), Tuy Tĩnh Thiên Hoàng (581-
549), An Ninh Thiên Hoàng (548- 511), Ý Đức Thiên Hoàng (510- 477). (Xem
Synchronisme chinois, Variétés sinologiques No24)
B. Ít dòng
lịch sử
Thời Chu mạt là thời đế vương mạt vận,
thời phong kiến vô kỷ cương.
Còn đâu thời oanh liệt của vua Nghiêu, vua
Thuấn, tuy cũng phong kiến nhưng uy quyền đế vương còn tràn ngập thiên
hạ, mỗi năm năm lại rầm rộ đi tuần thú thiên hạ; tới bốn ngọn núi lịch
sử họp chư hầu bốn phương. Còn đâu cảnh huy hoàng trật tự thời Văn
Vương, Võ Vương hùng cứ Kiểu kinh, giữa những sông sâu núi thẳm, để làm
thế ỷ dốc, rồi lập thêm một đô ở Lạc Dương, triều kiến chư hầu; sai Bá
Cầm con Chu Công sang trọng nhậm nước Lỗ để trấn áp miền duyên hải, như
vươn hai caánh tay khổng lồ ôm ấp cả bình nguyên Trung Quốc vào trong.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Nay chỉ còn thời Khuyển Nhung tàn
phá Đế kinh (thời U Vương, 781- 770) để vua tôi nhà Chu lạc lõng dời đô
về lạc Dương (thời Chu Bình Vương, 770- 719). Nay chỉ còn là thời các
vua chư hầu lũng đoạn, xưng hùng xưng bá, mưu mô chém giết, giành giật
chính quyền, là thời cá lớn nuốt cá bé, là thời mà các nước nhỏ chông
chênh như trứng để đầu đẳng, thời mà chiến mã hí bên thành… Ta có thể
mượn lời Kinh Thi mà mô tả thời kỳ đó bằng những lời thơ thắm thiết sau:
Chiến tranh như mưa bấc tuyết sa đem tê
tái và hoang mang lại cho lòng người:
Vù vù gió bấc ghê thay,
Phay phay mưa tuyết, tuyết bay đầy trời
Ai ơi ai có yêu ai
Dắt nhau ta kiếm một nơi đi cùng
Còn gì là cái thung dung
Sự đời đã giục bên lòng xiết bao.
(Bội phong - Bắc phong)
(Bắc phong kỳ đê. Vũ tuyết kỳ phi. Huệ nhi
hiếu ngã. Huề thủ đồng qui. Kỳ hư kỳ từ. Kỳ cức chỉ thư.) (Kinh Thi, Tản
Đà, trang 132)
Bầu không khí chiến tranh bao trùm khắp
nơi:
Trống đánh thùy thuỳnh
Gươm giáo tập tành
Những ai đắp đất xây thành
Xa nhà xa nước riêng mình sang Nam.
(Bội phong - Kích cổ)
(Kích cổ kỳ đường. Dũng dược dụng binh.
Thổ quốc thành tào. Ngã độc nam hành.) (Kinh Thi, Tản Đà, trang 94)
Làm cho con dân đau lòng sinh ly tử biệt:
Tử sinh cách trở đôi nơi,
Cùng em anh đã nặng lời từ xưa.
Đôi ta những nguyện cùng già,
Cầm tay thủa ấy, bây giờ chưa quên.
Nhưng:
Cùng nhau thôi đã cách xa,
Sống đâu còn đến thân ta hỡi mình.
Thề xưa còn đó rành rành,
Nay thôi anh đã phụ tình cùng em.
(Bội phong - Kích cổ)
(Tử sinh khế khoát. Dữ tử thành thuyết.
Chấp tử chi thủ. Dữ tử giai lão. Hu ta khoát hề. Bất ngã hoạt hề. Hu ta
tuân hề. Bất ngã thân hề.) (Kinh Thi, Tản Đà, trang 96)
Những vua nước nhỏ, cũng có khi nước nhà
tan tác, cùng bọn vong thần vất vưởng nước người, đến nỗi:
Áo cừu đã rách tả tơi,
Bánh xe nào phải không rời sang Đông.
Ai ơi chẳng giúp nhau cùng,
Tủi thân hèn mọn, đau lòng lưu ly.
Ai ơi, ai chỉ cười khì.
(Bội phong - Mao khâu)
(Hồ cừu mông nhung. Phỉ xa bất đông. Thúc
hề bá hề. Mỹ sở dữ đồng. Tỏa hề vỹ hề. Lưu ly chi tử. Thúc hề bá hề. Rứu
như xung nhĩ.) (Kinh Thi, Tản Đà, trang 119- 120)
Dân thì đói khổ nghèo túng, cái nghèo túng
đó được mô tả trong bài Xuất tự Bắc môn:
Từ trong cửa Bắc bước ra,
Lòng ta trăm mối, cho ta ngậm ngùi.
Phận sao nghèo khổ suốt đời,
Nỗi ta ta biết, ai người biết ta.
Đành thôi còn nói chi mà,
Trời kia bảo vậy, biết là làm sao?
(Bội phong - Bắc môn)
(Xuất tự bắc môn. Ưu tâm ân ân. Chung lũ
thả bần. Mạc tri ngã gian. Dĩ yên tai. Thiên thực vi chi. Vị chi hà
tai.) (Kinh Thi, Tản Đà, trang 129- 130)
Nghiên cứu tỉ mỉ hơn ta thấy tình hình
Xuân Thu, Chu mạt tổng quát như sau:
1- CHU
- Linh Vương (571-545)
- Cảnh Vương (544-520)
- Điệu Vương (519)
- Kính Vương (519-476)
2- LỖ
- Tương Công (572-542)
- Chiêu Công (541-510)
- Định Công (509-495) (LN III, 19. - XII,
15)
- Ai Công (494-468) (LN II, 19 - III, 21 -
VI, 2 - XII, 9 - Trung Dung XX)
3- VỆ
- Linh Công (534-493) (LN XV, 1)
- Xuất Công (492-480) (Hiếu Công)
4- TỀ
- Trang Công (553-548)
- Cảnh Công (547-490) (LN XII, 11 - XVI,
12 - XVIII, 3)
- Án Nhụ Tử (489)
- Điệu Công (488-485)
- Giản Công (484-481) (LN XIV, 22)
- Bình Công (480-456)
5- SỞ
- Khang Vương (559-545)
- Hùng Quân (544-541)
- Linh Vương (540-529)
- Bình Vương (528-516)
- Chiêu Vương (515-489)
6- TỐNG
- Bình Công (575-532)
- Nguyên Công (531-517)
- Cảnh Công (516-453)
7- NGÔ
- Hạp Lư (514-496)
- Phù Sai (495-473)
8- VIỆT
- Câu Tiễn (498-465) (Câu Tiễn diệt Phù
Sai và Ngô năm 473)
9- TRỊNH
- Giản Công (565-530)
- Định Công (529-514)
- Hiến Công (513-501)
- Thanh Công (500-463)
10- TẤN
- Bình Công (557-532)
- Chiêu Công (531-526)
- Khoảnh Công (525-512)
- Định Công (511-475)
Ngoài ra còn các nước nhỏ như Trần, Thái,
Tào, Triệu, Ngụy, Hàn, Đằng, Tiết, Hứa, Kỷ, Cử, Trâu, v.v…
Đây là những đoạn trong Tứ Thư có liên lạc
đến những nước kể trên;
1- Đằng: MT, II, 13; V, 1; V, 2, 3; XIV,
30.
2- Kỷ: Trung Dung XXVIII.
3- Lỗ: Luận Ngữ: VI, 3, 22; VII, 16; XIII,
7; XIII, 13; XIV, 15, 38.
Mạnh Tử: II, 12, 16; IV, 7;
IV, 10; XII, 8, 13.
4- Ngụy: MT: I, 1- 4.
5- Sở: LN: XVIII, 5, 6, 7. MT: V, 1; ĐH:
X.
6- Tần: Luận Ngữ: XIV, 12; XIX, 12.
7- Tào: MT: XII, 2.
8- Tề: Luận Ngữ VI, 3, 22; XIV, 17, 18;
XIV, 22, 41; XVII, 9. MT: I, 7; II 1- 7, 10- 11; IV, 12- 14; VII, 7;
VIII, 3, 27, 32, 33; XI, 8- 9; XII, 6; XIII, 33- 39; XIV, 14, 23, 25,
29.
9- Tiết: MT: IV, 3.
10- Tống: LN VII, 22; MT IV, 3; VI, 8; TD,
XXVIII.
11- Thái: LN XI, 2.
12- Trần: LN VIII, 30; XI, 2; XV, 2.
13- Trịnh: LN XIV, 10; MT VIII, 2.
14- Vệ: LN: VI, 26; VII, 14; IX, 15; XI,
22; XIII, 7, 8, 9; XIV, 14, 19, 20, 26, 42; XV, 1, 6; XIX, 22.
15- Yên: MT IV, 3.
16- Trâu: MT II, 12; V, 2; XII, 5.
Trong Luận Ngữ ta thấy đề cập đến những
nước nhỏ, thành nhỏ, như:
Khuông (LN, IX) (Khuông ở giữa nước Trịnh
và Tống) (LN XI, 22).
Diệp (LN XIII, 16, 18) (Diệp giữa Thái và
Sở và thuộc Sở).
Phí (LN VI, 7; XVII, 5) (Phí thuộc Lỗ).
Trung Mâu (LN XVII, 7) (Trung Mâu thuộc
Tấn).
Trong Khổng Tử thế gia còn nói đến đất Bồ
(phía Tây nước Vệ), nơi mà Khổng Tử bị dân chúng ngăn không cho đến nước
Vệ, may nhờ có Công Lương Nhụ liều chết điều khiển năm cỗ xe chiến đấu
với dân Bồ sau mới thoát.
Chúng ta còn có thể có những nhận định sau
về thời Xuân Thu:
1- Thế lực Chu triều đã hết sức suy giảm.
Thời đức Khổng ta thấy có bốn vua kế tiếp:
- Linh Vương (571-545)
- Cảnh Vương (544-520)
- Điệu Vương (519)
- Kính Vương (519-476)
Năm 518, có loạn Vương Tử Triều. Kính
Vương chịu mất kinh đô, lui về Thành Chu (Hạ Chu) 30 dặm, phía đông
huyện Lạc Dương (Hà Nam).
Năm 516, sau khi đã đánh đuổi được Vương
Tử Triều, Kính Vương mới trở về được cố đô. Dẫu sao, Vương Tử Triều cũng
đã thoán vị và xưng vương được một thời gian. (Cf. Variétés sinologiques
No24, Synchronismes chinois par Mathieu Tchang SJ, nơi năm
Quý Mùi 518.)
2- Các nước chư hầu xích mích, tranh chấp
với nhau, nên thường có những trận giao binh:
Ví dụ: Tấn Sở tranh chấp về cương giới
(xem Sử Ký Tư Mã Thiên, chương Khổng Tử thế gia).
Ngô đánh Trần.
Sở cứu Trần đánh Ngô.
Tề đánh nhau với Lỗ (LN VI, 13) (Ai Công
2) (năm 484).
Ngô đánh nhau với Việt (xem Sử Ký Tư Mã
Thiên, chương Khổng Tử thế gia).
Thời đức Khổng chính là thời Ngô, Việt
tranh nhau, là thời Hạp Lư (514-496), Phù Sai (495-473) và Câu Tiễn
(498-465).
3- Nước Sở ở phía nam xa xôi hiểm trở, nên
các vua đều xưng vương:
- Khang Vương (559-545)
- Hùng Quân (544-541)
- Linh Vương (540-529)
- Bình Vương (528-516)
- Chiêu Vương (515-489)
- Huệ Vương (488-436)
4- Nước nọ đôi khi bị nước kia tiêu diệt:
Trần bị Sở thôn tính năm 478 (xem
Synchronismes chinois nơi các năm kể trên).
Tiết bị tàn vong vào năm 480.
Ngô bị tàn vong vào năm 473.
5- Các nước chư hầu không còn thần phục
quyền nhà Chu như xưa.
Ngược lại, các vua chư hầu lại thường bị
quyền thần nắm quyền.
Ví dụ nước Lỗ, trong các đời vua Tuyên
Công, Thành Công, Tương Công, Chiêu Công, Định Công bị ba họ Quí, Mạnh,
Thúc lấn quyền. Ba họ này thoạt kỳ thủy là ba con vợ lẽ của Hoàn Công
nước Lỗ (711- 699). Ba họ Mạnh, Quí, Thúc còn được gọi là Mạnh Tôn, Quí
Tôn hay Trọng Tôn, và Thúc Tôn. (xem Legge, The Chinese Classics, T 1,
p. 147 notes; xem Luận Ngữ Đoàn Trung Còn, các trang 261, 31, v.v…; xem
Đông Chu Liệt Quốc Võ Minh Trí dịch, trang 932; xem Sử Ký Tư Mã Thiên,
chương Khổng Tử thế gia).
Nổi bật nhất là họ Quí với những:
- Quí Võ Tử (Quí Tôn Túc)
- Quí Bình Tử (Quí Tôn Ý Như)
- Quí Hoàn Tử (Quí Tôn Tư)
- Quí Khang Tử (Quí Tôn Phi) (LN II, 20;
III, 1, 6; VI, 7; XI, 6; XII, 16- 18)
Rồi học mạnh với:
- Mạnh Ly Tử (Sử Ký Tư Mã Thiên, chương
Khổng Tử thế gia)
- Mạnh Ý Tử (Mạnh Tôn Vô Kỵ: LN II, 5)
- Mạnh Võ Bá (LN II, 6; V, 7)
- Mạnh Trang Tử.
Họ Thúc với:
- Thúc Tôn Châu Cừu (xem Đông Chu Liệt
Quốc Võ Minh Trí dịch, trang 932)
- Thúc Tôn Võ Thúc (LN XIX, 23)
Mội nhà quyền thần đều có thành, có ấp
riêng; giao cho gia thần cai trị (thời ấy gọi là quan Tể):
- Họ Mạnh có ấp Thành, do Liễm Dương cai
trị.
- Họ Thúc có ấp Hậu, do Nhược Diếu cai
trị.
- Họ Quí có ấp Phí, giao cho Quí Sơn Phất
Nhiễu (Quí Sơn Bất Nựu) và Dương Hổ cai trị. (xem Đông Chu Liệt Quốc Võ
Minh Trí dịch, trang 922).
Ở nước Tấn thì có ba nhà Triệu (Triệu
Ưởng), Ngụy, Hàn (LN XIV, 12) chuyên quyền…
Những quan đại phu lắm lúc coi mình như
vua: Ngang nhiên lấy tiền thuế vua cho vào kho mình (LN XVI, 3), dùng lễ
nhạc nhà Chu (LN III, 1, 2, 6).
Ngược lại, đại phu lại bị gia thần lũng
đoạn. Đó là trường hợp Dương Hổ, gia thần của Quí Hoàn Tử. Dương Hổ đã
có lần cùng Công Tôn Phất Nhiễu bắt giam Quí Hoàn Tử (xem LN XXII, 1, 5;
Khổng Tử thế gia, năm Khổng Tử 50 tuổi, tức Định Công bát niên.)
6- Đời Xuân Thu, trong khoảng đời đức
Khổng, nhìn vào liệt quốc, ta thấy những bộ mặt quen thuộc sau đây:
- Tề Cảnh Công với hai trung thần là thừa
tướng Yến Anh (Yến Bình Trọng hay Yến Tử) và thượng tướng Điền Nhương
Thư.
- Vệ Linh Công với bà vợ đa tình là Nam
Tử, một mỹ nhân mà trước khi về với Vệ Linh Công đã từng dan díu duyên
tơ với Công Tử Triều, một thanh niên nổi tiếng mỹ mạo ở nước Tống (LN
VI, 14); với sủng thần xinh trai là Di Tử Hà; với những quan đại phu hóm
hỉnh như Vương Tôn Giả (LN III, 13), trung trực như quan sử Ngư (LN XV,
6), quân tử như Cừ Bá Ngọc (LN XV, 6; XIV, 20).
- Trịnh Định Công với thừa tướng Tử Sản
(Công Tôn Kiều), một người nổi tiếng là bác học (LN XIV, 10, 9).
- Sở Chiêu Vương với quan đại phu là Tử
Tây (LN XIV, 10).
- Hạp Lư và Phù Sai với những Ngũ Tử Tư,
Tôn Võ, Tây Thi.
- Câu Tiễn với Phạm Lãi, Văn Chủng.
Ta cũng không nên quên những nhân vật như
Lão Tử ở Đông Chu; Sư Quyến thày đàn nước Vệ; Sư Quáng, thày đàn nước
Tấn. (xem Đông Chu, hồi 68).
7- Thời Chu mạt là thời luân thường đảo
lộn, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cah, con chẳng ra
con, anh em chẳng ra anh em.
- Vua chúa thời nghĩ chuyện ăn chơi, hưởng
thụ, hoặc chinh phạt lẫn nhau để tranh bá đồ vương, ưa xây cung cất
điện, xây thành xây quách, hơn là xây dựng đạo lý, nhân luân.
- Tấn Bình Công xây cung Tê Kỳ ở gần Khúc
Ốc (xem Đông Chu, trang 811).
- Sở Linh Vương xây cung Hoa Chương và
cung Tế Yêu, rong chơi hưởng thụ cùng những mỹ nữ lưng ong thắt đáy.
(xem Đông Chu, trang 811).
- Phù Sai xây Cô Tô đài để thơ mộng với
Tây Thi. (xem Đông Chu, trang 960).
- Cha lấy tranh vợ con: như Bình Vương
nước Sở lấy tranh nàng Mạnh Doanh, cô con dâu mà ông cưới về cho con là
thái tử Kiến. (xem Đông Chu, trang 852).
- Con muốn giết mẹ: Thái tử Khoái Hội nước
Vệ toan ám sát mẹ là nàng Nam Tử, vì dan díu với công tử Triều nước
Tống.
- Cha con cự địch lẫn nhau để tranh cướp
ngôi báu: công tử Triếp tức là Vệ Xuất Công cực địch với cha là Khoái
Hội tức là Vệ Trang Công sau này. Vụ tranh chấp này làm cho Tử Lộ chết
bất đắc kỳ tử. (xem Đông Chu, trang 977- 978).
- Anh em giết chóc lẫn nhau: Hoàn Công
nước Tề giết em là công tử Củ (LN XIV, 18). Hạp Lư nước Ngô, nhờ tay
Chuyên Chư, tặng anh mình là Vương Liêu một nhát gươm chủy thủ vào lưng.
- Thần dân rước voi về dầy mồ: như Ngũ Tử
Tư, vì báo thù cha, đã đem binh Ngô về đánh tan nát nước Sở là quê hương
của mình. (xem Đông Chu, trang 900- 908).
- Bày tôi đánh đuổi vua: Ba họ Quí, Mạnh,
Thúc hợp nhau đánh đuổi Lỗ Chiêu Công, làm cho Lỗ Chiêu Công phải lưu
vong sang đất Kiền Hầu nước Tề cho đến chết. (xem Khổng Tử thế gia, năm
Khổng Tử 35 tuổi).
- Bày tôi giết vua: Thôi Tử giết Tề Trang
Công (553- 548) (LN XIV, 22); Trần Thành Tử giết Tề Giản Công (484- 481)
(LN XIV, 22); Công Tôn Phiên bắn chết Thái Chiêu Công (518- 491) (xem
Khổng Tử thế gia, năm Khổng Tử 61 tuổi).
Có thể nói được rằng thời Xuân Thu, Chu
mạt, người ta không còn biết con người sinh ra đời để làm gì, và cũng
chẳng còn tôn trọng sinh mạng con người. Người ta giết nhau như bỡn, tự
tử như chơi.
Ông lái đò, cũng như cô gái sông Lô, đã tự
tử vì cái khí tiết không đâu, sau khi đã giúp Ngũ Tử Tư qua sông, hay đã
biếu Tử Tư một nắm cơm. Mạc Gia cam tâm nhảy vào lò để đúc nên đôi kiếm
Can Tương, Mạc Gia. (xem Đông Chu, trang 884).
Sừ Sư tham vàng, giết hai con lấy huyết
bôi vào sắt, để đúc hai vòng kim câu dâng cho Hạp Lư (xem Đông Chu,
trang 885)…
Giữa thời
buổi nhiễu nhương, tao loạn, cương thường điên đảo ấy, đức Khổng ra đời,
đem đuốc chân lý soi cho nhân thế…
Mục
lục | Phi lộ | chương
1
2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
|