CHÂN DUNG KHỔNG TỬ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17
18 19
20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
Chương 17
Đức Khổng, một
chính trị gia
Đức Khổng ưa thích làm
chính trị
Ngược lại hẳn với các thánh nhân khác, xa
lánh cuộc đời, lo siêu thoát lấy mình, khinh khi ngoại cảnh và chỉ chú
trọng đến vấn đề tu luyện tâm thần, đức Khổng chủ trương rằng sau khi đã
hoàn thiện mình, cần phải hoàn thiện người khác. (LN, XII, 15: Quân tử
thành nhân chi mỹ. - LN, XIV, 45: Tu kỷ dĩ an bá tánh. - LN, IV, 15: Phu
tử chi đạo trung thứ nhi dĩ hỹ).
Ngài cũng chủ trương:
Cuộc đời có hai chiều, hai mặt: nội tâm và
ngoại cảnh. Nên người quân tử cần sắp xếp thời giờ, lo cho chu toàn đầy
đủ mọi mặt. Vì thế Trung Dung mới viết:
«Thiên nhiên tự tính uy linh,
Trong ngoài hai mặt một mình quán thâu.
Nên quân tử biết câu sau trước,
Xếp thời giờ tổ chức cho hay.»
(Trung Dung XXV)
Lòng ưa thích và mong mỏi được làm chính
trị tothi ân bá đức, để cải thiện thiên hạ ấy, đã nhiều lần được xác
định trong Luận Ngữ cũng như trong Mạnh Tử.
Tử Cầm hỏi Tử Cống: «Thầy ta đến nước nào
cũng được dự nghe chính trị. Đó là Thầy ta thích nghe hay là người ta
muốn mời Ngài nghe?» Tử Cống đáp: «Thầy ta, ôn, lương, cung, kiệm,
nhượng, nên mới được như vậy. Cái ước muốn của Thầy ta khác người là nhờ
vậy đó.» (LN, I, 10).
Sách chép rằng: «Đức Khổng nếu ba tháng mà
chẳng gặp vua, thời lòng dạ dường như bàng hoàng, thiếu thốn.» (Mạnh Tử,
Đằng Văn Công hạ, 3).
Trong đời Ngài, Ngài đã tiếp xúc với nhiều
vua chúa thời ấy như:
Tế Cảnh Công (547-490) (LN, XII, 11. -
XVI, 12. - XVIII, 3).
Lỗ Định Công (509-495) (LN, III, 19. -
XIII, 15).
Vệ Linh Công (554-495) (LN, XV, 1).
Vệ Xuất Công (492-480) (Mạnh Tử, Vạn
Chương hạ, 4).
Trần Mẫn Hầu (500-478).
Sở Chiêu Vương (LN, XIV, 10).
Lỗ Ai Công (494-468) (LN, II, 19. - III,
21. - VI, 2. - XII, 9. - Trung Dung XX. - Lễ Ký: Ai Công, v.v…)
Nhưng Ngài nhận thấy không ai là người có
tài, có đức, để có thể công tác lâu dài. Ngài phàn nàn: «Những người làm
chính trị thời nay toàn là bọn “đẩu sao”, toàn là những phường giá áo
túi cơm (LN, XIII, 20: Viết: kim chi tùng chính trị giả, hà như ? Tử
viết: “Y! Đẩu sao chi nhân, hà túc toán dã.”, những người hữu danh vô
thực.» (LN, VI, 23: Tử viết: cô bất cô, cô tai! Cô tai!)
Vì thế mà có lần Ngài muốn đi cộng tác
với:
- Phật Bật ở Trung Mâu (LN, XVII, 7)
- Triệu Ưởng ở Tấn (xem Khổng Tử Thế Gia,
Khổng Tử 59 tuổi), hoặc đi khái hóa cho những đoàn mọi rợ. (LN, IX, 13).
Tuy nhiên không phải Ngài muốn tham chính
với bất cứ giá nào. Ngài không bao giờ chịu khuất thân để phụ họa với
vua chúa. Ngài tự ví mình như hạt ngọc quí, tuy muốn đem bán, nhưng phải
đợi cho được giá mới bán (LN, IX, 12). Khi cộng sự với vua chúa, nếu
khuyên can đôi ba lần mà chẳng nghe, hoặc nếu vua tỏ vẻ thờ ơ bất kính,
Ngài liền tìm cách rút lui. Đó là cách Ngài đã đối xử với Lỗ Định Công
và Vệ Linh Công (xem Lễ Ký, Khúc Lễ I, tiết III, mục I: Vi nhân thần chi
lễ, bất hiển gián. Tam gián nhi bất thính, tắc đào chi.- Xem LN, XVIII,
4. - XIII, 9. - XV, 1. - XII, 6. - XIV, 17. v.v…)
Tại sao đức Khổng thích
làm chính trị ?
Đức Khổng thích làm chính trị không phải
vì danh, vì lợi, nhưng chính là vì muốn giáo hóa muôn dân, cho muôn dân
nhận thức được chân giá trị của con người; chính là vì muốn cải thiện
muôn dân, đem an bình lại cho thiên hạ.
Dạy học thì dạy được bất quá vài trăm, vài
nghìn người, nhưng làm chính trị có thể cải hóa được muôn người, triệu
người, có thể chuyển hóa được thiên hạ.
Vì thế mà đức Khổng mới nói: «Làm chính
trị là bổn phận cao quí nhất của con người.» (Nhân đạo chính vi đại. -
Lễ Ký, Ai Công vấn, tiết 6).
Nhưng làm chính trị đối với Khổng Tử là cả
một khoa học, và một nghệ thuật siêu vi. Lý tưởng về chính trị của Ngài
là sự đúc kết lại tất cả tinh hoa của các bậc đế vương thời cổ. Lý tưởng
mà Ngài đã đề xướng lên, từ thời Ngài đến nay, chưa có vị vua chúa nào
đạt nổi và thực hiện được cho tới thập phần hoàn mỹ.
Ta sẽ khảo sát nền chính trị lý tưởng ấy
trên phương diện lý thuyết:
1. Tại sao phải có
chính quyền?
Con người sinh ra đời, không phải ai cũng
thông sáng, không phải ai cũng biết lẽ phải trái, biết ăn ở cho phải đạo
làm người. Tình dục con người thường hay phóng túng, cần phải có người
chỉ huy, cầm cương, nảy mực, lèo lái, hướng dẫn. Hơn nữa, sự sống chung
cần phải được điều hòa, mới có thể cùng nhau sống an vui và hạnh phúc
được. Vì thế nên cần phải có những người hay, cầm đầu dân nước.
2. Chính quyền phải là
một chính quyền lý tưởng
Nhưng nếu muốn cho dân chúng sống an vui,
sung túc, và có cơ phát triển, tiến bộ, cần phải có một chính quyền lý
tưởng.
Đức Khổng chủ trương và tha thiết cổ súy
một chính quyền lý tưởng trong đó vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha,
con ra con (LN, XII, 11), biết tương kính tương thân, thượng hòa hạ mục
(LN, III, 19. - Lễ Ký, Ai Công vấn chính, 9: «Ái dữ kính, kỳ chính chi
bản dã.» - Ai Công vấn, tiết 11: «Vi chính tiên lễ, lễ kỳ chính chi bản
dư?»)
Chính quyền lý tưởng ấy phải được xây dựng
trên căn bản hoàn thiện, hoàn mỹ; tức là phải tự coi mình có thiên chức,
thiêng mạng, để đem an lạc lại cho chúng dân, và có nhiệm vụ hướng dẫn
chúng dân tới hoàn thiện, hoàn mỹ, tới Thượng Đế (Xem Trung Dung XX. -
xem Hồng Phạm, tiết 9: Ngũ viết Hoàng Cực…)
3. Chính trị phải được
xây dựng trên những căn bản hằng cửu, tự nhiên
Chính trị phải dựa trên căn bản:
+ Tôn giáo: Làm chính trị là thay
Trời để thi ân, giáo hóa và hướng dẫn dân chúng (Xem Hồng Phạm Cửu Trù.
- xem Kinh Thư, Thái Thệ tiết 3. - xem Mạnh Tử, Lương Huệ Vương hạ, tiết
3)
+ Triết lý: Làm chính trị là cốt
cải thiện dân, đưa dân đến hoàn thiện. «Chính giả, chính dã.» (LN, XII,
16. - Lễ Ký, Ai Công vấn, tiết 7); «Nhân giả nhân dã.» (Trung Dung XX);
«Hội kỳ hữu cực; qui kỳ hữu cực.» (Hồng Phạm, tiết 13).
+ Đạo đức: Làm chính trị phải dựa
vào hai tôn chỉ: «Yêu dân và kính dân» (Xem Lễ Ký, Ai Công vấn, tiết 9:
Ái dữ kính, kỳ chính chi bản dã).
Hơn nữa, muốn sửa trị người, mình phải là
người hẳn hoi, ngay chính trước đã. Có vậy mới chính được người. Đó là
một đề tài mà Tứ Thư, Ngũ Kinh, thường đề cập tới.
4. Chính trị như vậy có
nghĩa là cải thiện toàn dân, nên bất kỳ ai cũng phải đóng góp.
Từ vua đến dân ai cũng phải tu thân (Đại
Học). người quân tử, chẳng ra khỏi nhà, vẫn làm chính trị được là vì
vậy. (LN, I, 21. - Đại Học IX).
5. Làm chính trị phải
có phương pháp, có đường lối
[1]. Hồng Phạm đưa ra 9
tôn chỉ, mà xưa gọi là Cửu Trù:
1- Ngũ hành
Đấng quân vương phải am tường vật lý, phải
biết khai thác hết các tài nguyên của đất nước để lo cho dân no ấm.
2- Ngũ sự
Đấng quân vương phải biết phương pháp tu
thân.
- Dáng điệu phải nghiêm trang, kính cẩn.
- Nói năng phải hợp lý.
- Trông nhìn phải sáng suốt.
- Nghe ngóng phải tinh tế.
- Nghĩ ngợi phải cho thấu triệt.
Được như vậy đấng quân vương sẽ trang
nghiêm, oai vệ, lý sự, đàng hoàng, khôn ngoan, sáng suốt, tinh tường,
mưu lược.
3- Bát chính
Đấng quân vương phải biết trị dân.
Cương lĩnh trị dân gồm 8 điểm. Trị dân là
lo cho dân:
1. No ấm.
2. Sung túc, đủ tiện nghi.
3. Có lễ nghi, tế tự.
4. Có nhà cửa đất đai.
5. Có một nền giáo hóa hẳn hoi.
6. Khỏi bị bọn gian ác, bất lương, đạo tặc
quấy nhiễu.
7. Biết đường tiếp nhân xử thế.
8. Được bảo vệ tính mạng và tài sản, thoát
nạn ngoại xâm, nhờ có binh hùng tướng mạnh của nhà nước.
4- Ngũ kỷ
Đấng quân vương phải am tường ý nghĩa:
- Năm
- Tháng
- Ngày
- Sự vận chuyển của nhật, nguyệt, tinh,
thần
- Lịch số.
Như vậy, mới có thể dạy dân biết cách điều
hòa công tác cho hợp thời, hợp tiết, để được ấm no thịnh vượng; cho
trời, đất, người cùng hòa tấu một bản nhã ca thanh bình, thái thịnh.
5- Hoàng cực
Đấng quân vương sẽ ở ngôi Trời, ngôi Hoàng
Cực, thay Trời trị dân. Muốn được vậy, phải có đức hạnh siêu phàm thoát
tục, xứng đáng làm môi giới giữa Trời và muôn dân.
6- Tam đức
Thuật trị dân phải dựa vào ba đức sau này:
- Chính trực
- Cương (cương quyết, khi nước loạn, khi
đối đầu với những kẻ phản loạn, lưu manh)
- Nhu (nhu hòa, khi nước an bình, khi giao
tiếp với những người đạo cao đức cả).
7- Kê nghi
Đấng quân vương phải biết suy nghĩ, bàn
bạc, hỏi han, khi gặp trường hợp nan giải.
Trước một công việc trọng đại, sẽ hội ý
kiến:
- của nhà vua
- của khanh sĩ, thứ dân
- của Thượng Đế (bằng cách bói thi qui)
Phối kiểm lại, sẽ biết thế nào là tốt, thế
nào là xấu, và tìm ra được đường lối đẹp đẽ nhất để xử sự.
8- Thứ trưng
Đấng quân vương phải nhân các điềm Trời,
mà soát xét lại đường lối cai trị của mình, xem tuần tiết, độ lượng gió
mưa nóng lạnh của Trời mà suy ra xem mình đã cai trị dở hay hay. Lý do
là vì đấng quân vương, đúng với danh hiệu nó, sẽ cảm ứng được với đất
trời, vả hiểu được tiếng nói thầm lặng của đất trời, qua các biến thiên
của thời tiết.
9- Ngũ phúc, lục cực
Đấng quân vương phải nhìn vào tình cảnh
nhân dân để nhận định giá trị của nền cai trị mình.
Nền cai trị mà hay, dân chúng sẽ hưởng
được ngũ phúc:
- Thọ
- Giàu
- Yên vui
- Ham chuộng nhân đức
- Chết già yên ổn
Nếu cai trị mà dở, dân chúng sẽ lâm vòng
lục cực:
- Chết non
- Bệnh tật
- Lo buồn
- Nghèo khổ
- Tội ác
- Yếu ớt
Thế mới hay:
Con người chẳng những soi bóng nước
Còn phải ngắm mình trước chúng dân.
(Cố hữu ngôn viết: Nhân vô ư thủy giám,
đương ư dân giám. Kinh Thư, Tửu cáo, tiết 12.)
Ngoài ra Kinh Thư còn khuyến cáo các vua
chúa phải chọn hiền thần (Xem Ích Tắc, tiết 4, 5. - Phó Duyệt, v.v…) và
vua tôi phải cộng tác chặt chẽ với nhau để mưu cầu hạnh phúc cho dân
(Xem Ích Tắc, tiết 11).
[2]. Trung Dung cũng
đưa ra 9 tôn chỉ, gọi là Cửu Kinh
1/ TU THÂN
Đấng quân vương phải giữ tâm hồn cho trong
sạch; cử chỉ tác phong phải trang nghiêm, đĩnh đạc; như vậy mới làm cho
đạo nghĩa trở nên thịnh đạt được.
2/ KÍNH HIỀN TÀI
Có kính hiền tài thì những trang hiền tài
mới giúp đỡ mình hết lòng.
Muốn tỏ lòng kính hiền, «chiêu hiền đãi
sĩ», nhà vua phải xa lánh nữ sắc, xa lánh kẻ nịnh hót, phải trọng nghĩa
khinh tài.
3/ PHẢI THƯƠNG YÊU HỌ HÀNG
Phải giúp đỡ họ hàng, nghe lời họ hàng,
như vậy thân tộc sẽ không ai oán than.
4/ KÍNH ĐẠI THẦN
Phải cho họ đủ phương tiện làm việc, đủ
quyền hạn, thì họ mới chân thành mà cộng tác với mình.
5/ THƯƠNG YÊU CÔNG BỘC QUỐC GIA
Tăng lương cho họ, như vậy họ mới nỗ lực
để đền đáp.
6/ THƯƠNG DÂN NHƯ CON
Không được bắt dân làm xâu khi họ đang bận
công việc đồng áng; không được thâu thuế nặng. Có thương dân thì dân mới
hài lòng.
7/ KHUYẾN KHÍCH NHÂN TÀI, KHUẾCH TRƯƠNG
BÁCH NGHỆ
Phải biết khuyến khích, mở cuộc thi đua,
treo giải tưởng thưởng thợ thuyền, như vậy nước sẽ không thiếu hòa tài.
8/ ĐÓN TIẾP NGƯỜI VIỄN XỨ
Biết chiêu tập nhân tài, người giỏi ở tứ
phương sẽ về với mình.
9/ CHE CHỞ CHƯ HẦU
Thật lòng giúp đỡ những nước nhỏ, thiên hạ
sẽ sợ uy mình, sẽ thần phục mình.
[3]. Luận Ngữ chủ
trương:
- Phải chọn người tài đức cộng sự (LN,
VII, 20. - XII, 19. - XVIII, 11).
- Phải luôn luôn cẩn trọng, không được coi
thường thiên chức lãnh đạo dân con của mình (LN XIII, 15).
- Bậc quốc quân phải biết thi ân mà không
tốn của; bắt dân làm mà dân vẫn yêu; có nhiều ước muốn mà không mang
tiếng tham lam; thư thái mà không kiêu căng; uy nghi mà không hung hãn.
Thi ân không tốn của là lo khai thác nguồn
lợi cho dân; bắt dân lao tác nhưng hợp thời, đúng lúc nên dân không ta
thán; ước muốn nhân nghĩa thì sao mang tiếng tham lam; đối với dân chúng
bất kỳ ít nhiều lớn nhỏ luôn luôn có một thái độ nhã nhặn, đó là thư
thái mà chẳng kiêu căng; mũ áo chỉnh tề, dáng đi, nét mặt trang nghiêm,
khiến dân trông vào tự nhiên kính sợ, như vậy là uy nghi mà không hung
hãn.
Ngài không bao giờ chém giết trước khi
giáo hóa, bảo ban; không đòi hỏi thành công khi chưa chỉ thị, hướng dẫn;
không bao giờ ra lệnh chậm trễ mà bắt hoàn tất cấp tốc; không so kè,
biển lận, khi tưởng thưởng (xem LN XX, 2).
Không được hành sự hấp tấp vội vàng; không
tham lợi nhỏ để hỏng việc lớn, v.v… (LN XIII, 17).
[4]. Đại Học chủ
trương:
- Muốn làm chính trị, muốn đem an bình lại
cho thiên hạ, trước hết phải chính kỷ, rồi mới đến chuyện chính nhân tâm
sau. (Đại Học I).
- Không được làm trái ý dân (Đại Học X).
- Phải trọng nhân nghĩa hơn tài lợi (Đại
Học X).
- Đã làm chính trị thời không được làm
kinh tài, tranh lợi với dân (Đại Học X).
- Người trên mà tham tài, mà vơ vét tài
sản của dân, mà dùng tiểu nhân nhũng nhiễu dân, thì dẫu thánh nhân giáng
hạ, cũng người cứu nổi họa nhà tan nước nát (Đại Học X).
[5]. Lễ Ký chủ trương:
Muốn trị dân phải biết áp dụng, thực thi:
- Lễ, nhạc, Hình, Chính (xem Minh Đường
Vị, 34).
- Lễ là dạy dân biết nhân luân, biết hiếu
kính (xem Lễ Ký, Khúc Lễ, phần I, tiết I, mục 22: Thánh nhân đem Lễ dạy,
để con người xử sự khác biệt với muông thú. - xem Lễ Ký, Khúc Lễ, các
mục tiếp theo).
- Lễ chi phối hành vi, cử chỉ con người;
những cách giao tiếp của con người. «Lễ không cho phép đi quá giới hạn,
mực thước đã qui định; không cho phép xâm phạm quyền lợi người khác; vũ
nhục khinh khi hay sàm sỡ với người khác.» (Lễ Ký, Khúc Lễ, phần I, tiết
I, mục 8, 9, 10).
- Nhạc có mục đích đem lại sự vui thỏa cho
con người; sự đoàn kết hòa mục trong dân chúng; tình tương thân tương ái
trong các tầng lớp xã hội (Lễ Ký, Nhạc Ký, XVII, 15).
- Hình có mục đích ngăn chặn những chuyện
phạm pháp sa đọa (Hình phạt trúng cố thứ dân an. - Lễ Ký, Đại Truyện,
tiết 19).
- Chính tổ chức công cuộc cai trị (xem Lễ
Ký, Vương Chế, tiết III, mục I. - Ibid. tiết V, mục 28).
6. Làm chính trị phải
biết tiên liệu, qui định mọi sự.
Chính trị là tiên liệu, là qui định mọi
công chuyện lớn, nhỏ.
Lớn như:
- Cách tổ chức quốc gia, phân châu, phân
dã.
- Số lượng các nước lớn, nhỏ.
- Phẩm trật quan chức nơi triều đình cũng
như ở các nước chư hầu.
- Số lương hướng tương ứng với từng chức
vụ.
- Phân hạng nông dân với những ruộng đất
cho mỗi hạng..
- Minh định công việc của từng hàng quan
lại.
- Minh định những hạng người được chính
quyền đặc biệt cấp dưỡng.
- Minh định những lễ nghi trong dân gian.
Nhỏ như:
- Cách nam nữ đi lại, xe cộ đi lại trong
đường phố, v.v…(xem Lễ Ký, Vương Chế).
- Nhất nhất công việc gì cũng được minh
định tiên liệu trước hết.
Vì thế td mới viết:
«Việc gì tính trước cũng linh,
Không toan tính trước, âu đàng dở
dang.»
(Trung Dung XX)
7. Làm chính trị phải
biết thường xuyên kiểm điểm lại công trình hoạt động cũng như uy thế của
chính quyền.
Kiểm soát bằng cách:
- Tuần thú
- Triều sính
- Nghiên cứu dân ca, ca dao, đồng dao.
- Nghe lời gián nghị.
- Thu thập các lời phê bình, v.v…
Tóm lại, chính trị có mục đích làm cho
dân:
- No ấm
- Sống trong an bình, trật tự, hòa hợp.
- Sống xứng đáng với danh nghĩa con người
- Biết hướng thượng, tiến tới tinh hoa,
hoàn thiện.
Đẹp đẽ thay là quan niệm của đức Khổng về
chính trị.
Ngày ai không ai có thể chối cãi được rằng
muốn cho con người tiến bộ, muốn cho con người có đời sống ngày một cao
đẹp hơn, cần phải luôn luôn để ý cải tạo hoàn cảnh xã hội, để cho mọi
người có được một khung cảnh thuận tiện để cùng nhau sống an vui hòa
hợp.
Các đạo giáo ngày nay đều nhận thấy mình
không thể nhắm mắt, bỏ qua những tệ đoan xã hội, những thực trạng thối
nát, những nguy cơ đọa lạc con người, và đang cố dấn thân, cố đi vào
đời, để cải tạo hoàn cảnh.
Quan niệm của đức Khổng về chính trị cho
đến ngày nay vẫn chưa ai vượt được.
Gần đây, bác sĩ Ferson viết: «Nếu bạn muốn
giúp con người vươn lên, bạn phải cải tổ lại tình trạng xã hội, cải tổ
lại những môi trường mà con người bắt buộc phải sống ở trong, đó là nghề
nghiệp, công việc, gia đình, trường ốc, và giáo đường.»
Thế tức là:
- Muốn cải tạo con người, cần cải tạo xã
hội.
- Muốn cải tạo xã hội, cần cải tạo con
người.
Hai công
việc đó đi song hành với nhau, và phải được coi trọng ngang nhau. Đó là
chân lý vĩnh cửu có thể dùng làm phương châm cho các chính trị gia vạn
đại …
CHÚ THÍCH
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17
18 19
20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
|