CHÂN DUNG KHỔNG TỬ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
Chương 12
Đức Khổng, con
người linh động và uyển chuyển
Đức Khổng là một trong những người đã biết
áp dụng Dịch lý vào cuộc đời, cho nên cuộc sống của Ngài hết sức linh
động và uyển chuyển.
Khảo sát đời sống Ngài, ta sẽ hiểu cách
người xưa áp dụng Dịch lý vào đời sống, vào cách tiếp nhân xử thế; xử
kỷ, đối vật; vào cách trị dân.
Trong chương này ta sẽ nghiên cứu xem:
A. Đức Khổng áp dụng Dịch lý vào đời sống
Ngài ra sao?
B. Người xưa áp dụng Dịch lý vào phép trị
dân ra sao?
C. Dịch Kinh đại khái chủ trương những gì?
A. ĐỨC
KHỔNG ÁP DỤNG DỊCH LÝ VÀO CUỘC ĐỜI NGÀI RA SAO?
Dịch lý là các định luật chi phối mọi cuộc
biến thiên, chuyển dịch trong hoàn võ và trong nhân sinh, nhân thế.
Con người sinh ra ở đời không thể trần
trần một nếp, không thể ù lì bất động, mà phải biến thiên; phải biết
khuất, thân, tiến, thoái; phải biết tùy thời xử thế; tùy cảnh ngộ mà
xuất xử, hành tàng.
Đằng khác, con người sinh ra không phải để
thích ứng (adaptation) suông với hoàn cảnh, mà còn có nhiệm vụ tiến hóa
(évolution). Tiến hóa tức là phát triển, thi thố mọi tiềm năng, tiềm lực
của mình. Trong tiếng Đức, chữ Entwicklung vừa có nghĩa là tiến hóa, vừa
có nghĩa là phát triển (développement).
Các định luật biến động, chuyển dịch là là
những định luật chi phối vũ trụ quần sinh.
Đức Khổng một hôm đứng trên bờ sông, đã
than thở:
«Vật như sông nước cùng trôi,
Ngày đêm chuyển dịch, chẳng ngơi, chẳng
ngừng!»
(Thệ giả như tư phù bất xả trú dạ. - LN,
IX, 16; xem them: Khổng Tử thánh tích đồ, trang 60, 61)
Ý Ngài muốn dạy đệ tử rằng: thể theo mạng
Trời, mọi vật trong vũ trụ đều biến hóa; dầu ngày, dầu đêm, dầu trong
phút chốc, không vật gì ngừng nghỉ một chỗ. Vậy kẻ học đạo nên đắc lý
ấy, mà tiến lên trên đường đạo lý; mỗi ngày nên cải hóa lấy mình. (Cf.
LN, Đoàn Trung Còn dịch, trang 141, lời bàn của Đoàn Trung Còn).
I. ĐỨC KHỔNG BIẾT THÍCH
THỜI, QUYỀN BIẾN
Vì thế nên chủ trương của đức Khổng là
uyển chuyển, tùy thời xử thế.
Ngài nói: «Người quân tử ở trên đời không
nhất thiết phò cái gì, không nhất thiết chống cái gì; cái gì phải thời
theo.» (Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mịch dã, nghĩa chi dĩ
tỉ. - LN, IV, 10).
Nhân khi phê bình các ẩn sĩ như Bá Di,
Thúc Tề, Hạ Huệ, Thiếu Liên, v.v…đức Khổng tuyên bố Ngài không giống các
vị ấy, vì Ngài đã không nhất thiết vạch sẵn cho mình một thái độ, một
đường lối bất di, bất dịch; nhưng Ngài uyển chuyển tùy thời. Ngài nói:
«Ta thì không thế, không nhất thiết là không thể, không nhất thiết là có
thể.» (LN, XVIII, 8: Ngã tắc dị ư thị, vô khả, vô bất khả. - xem thêm
Mạnh Tử, Công Tôn Sửu thượng.)
Đức Khổng rất trọng chữ Thời, nên trong
Kinh Dịch có tất cả 12 quẻ đã đề cập đến chữ Thời, mà ta có thể trình
bày thành mấy vần thơ sau đây:
«Thời đại hỹ tai» bốn quẻ gồm:
CÁCH, DI, ĐẠI QUÁ, GIẢI theo luôn;
DỰ, ĐỘN, CẤU, LỮ bàn «thời nghĩa»;
«Tùy thời chi nghĩa» độc TÙY suông;
Nói về «thời dụng» âu ba quẻ:
Một KHẢM, hai KHUÊ, KIỂN nữa tam.
Vì thế Ngài hết sức linh động. Nhan Hồi
hỏi Ngài về cách trị nước. Ngài trả lời:
- Nên theo lịch nhà Hạ (2205- 1765) (vì
lịch đó lấy tháng Dần làm tháng giêng, tháng đầu năm. Lúc ấy thời tiết
đã bớt lạnh, thuận tiện cho công việc đồng áng).
- Nên đi xe nhà Ân (vì xe nhà Ân bền
chắc).
- Nên đội mũ nhà Châu (vì mũ nhà Châu khéo
hơn, đẹp hơn).
- Nên dùng nhạc Thiều của vua Thuấn (2255-
2205) vì nhạc ấy toàn mỹ, mà không nên dùng nhạc Trịnh (806- 395), tuy
mới hơn, nhưng khiêu dâm (xem LN, XV, 10; LN Đoàn Trung Còn, 245)
Tinh thần quyền biến ấy còn được minh
chứng bằng ba trường hợp khác nhau sau đây:
a- Trong thiên Tử Hãn IX, 3, đức Khổng
nói: «Đội mũ bằng gai là theo lễ xưa. Nhưng đời nay người ta toàn dùng
mũ bằng tơ rẻ tiền hơn. Vậy ta làm theo đại chúng.»
«Còn trong việc bái yết vua, mình ở dước
bậc thềm mà bái theo lễ xưa. Nhưng ngày nay các quan đều ở bậc trên mà
bái. Tuy ta trái với đại chúng, nhưng ta vẫn theo lễ xưa là ở dưới bậc
thềm mà chiêm bái vậy.» (LN, Tử Hãn IX, 3)
b- Trong thiên Tiên Tấn XI, 1, Ngài nói:
«Về phương diện lễ nhạc, người xưa xem ra quê mùa hơn, người nay xem ra
thanh lịch hơn. Nếu như ta dùng lễ, ta sẽ theo người xưa.» (LN, Tiên Tấn
XI, 1).
c- Về lễ, sau khi đã khảo sát lễ nhà Hạ,
nhà Ân, nhà Châu, Ngài theo nghi lễ nhà Châu, vì thấy trang nghiêm rực
rỡ hơn. (Cf. LN 9, 14.- Trung Dung, XX)
Mạnh Tử, một triết gia chủ trương quyền
biến tùy thời (xem Mạnh Tử, Ly Lâu thượng VII, 17) đã hết lời khen đức
Khổng là một vị thánh nhân biết «tùy thời». Mạnh Tử viết:
«Đức Khổng khi ra khỏi nước Tề, gạo vừa vo
xong, chưa kịp nấu chín, thế mà Ngài tiếp lấy và vội vã ra đi. Khi ra
khỏi nước Lỗ, Ngài nói rằng:”Ta đi chậm chậm vậy thôi.” Đó là cách buộc
lòng rời đất nước của cha mẹ vậy. Lúc cần đi gấp thì Ngài đi gấp; lúc
cần ở lâu thì Ngài ở lâu. Khi nên lui về ẩn, thì Ngài lui về ẩn; khi nên
tiến ra làm quan thì Ngài tiến lên làm quan. Đó là phong độ của đức
Khổng vậy… Ngài là một bậc thánh biết thích thời.» (Xem Mạnh Tử, Vạn
Chương chương cú hạ X, 1)
Mạnh Tử viết thêm: «Đức Khổng bình sinh ra
làm quan là do một lẽ trong ba lẽ này: một là thấy mình có thể thi hành
đạo lý; hai là nhà vua giao tế với mình có lễ phép và cung kính; ba là
thấy bậc quốc quân ái mộ tài đức mình, đem công quỹ ra mà cấp dưỡng mình
vậy. Hồi ở nước Lỗ, lúc ông Quí Hoàn Tử cầm quyền, thấy mình có thể thi
hành đạo lý, Ngài đã ra làm quan. Khi ở nước Vệ, nhằm khi vua Linh Công
giao tế với Ngài có lễ phép và cung kính, Ngài chịu nhận chức quan. Và
lúc ở Vệ, nhằm đời vua Hiến Công (Xuất Công), vua ái mộ tài đức Ngài,
đem công quỹ ra mà cấp dưỡng Ngài, cho nên Ngài mới ra làm quan vậy.»
(Mạnh Tử, Vạn Chương chương cú hạ, 4).
II. ĐỨC KHỔNG «TỐ KỲ VỊ
NHI HÀNH»
Đức Khổng đã triệt để áp dụng phương châm
«quân tử tố kỳ vị nhi hành» mà Tử Tư đã ghi chép lại trong Trung Dung
như sau:
«Người quân tử sống theo địa vị,
Không ước mơ lo nghĩ viễn vông.
Sang giàu sống lối giàu sang,
Nghèo nàn sống lối nghèo nàn ngại chi.
Tới man di, sống y man mọi,
Gặp gian lao, vui nỗi gian lao.
Bất kỳ sống ở cảnh nào,
Lòng người quân tử ra vào thỏa thuê.
Ở cấp trên không đè nén dưới,
Ở dưới không luồn cúi người trên.
Trời, người, chẳng oán chẳng phiền,
Ung dung thanh thản, chờ xem ý trời.»
(Trung Dung chương XIV)
Nguyên tắc này, đức Khổng lại nhắc lại nơi
Tượng Truyện quẻ Cấn.
«Cấn là núi mọc chập chùng,
Quântử cư vị, chứ không ra ngoài.»
(Tượng viết: Kiêm sơn. Cấn. Quân tử dĩ tư
bất xuất kỳ vị. - Dịch, Cấn quái, Tượng Truyện).
Đó cũng chính là đường lối của Văn Vương
mà Đại Học đã đề cao:
«Văn Vương thâm thúy biết bao,
Luôn luôn lo giữ sống sao chu toàn.
Làm vua: một dạ nhân khoan,
Làm tôi: kính cẩn lo toan hết lòng.
Làm con: hiếu thảo thủy chung,
Làm cha: nhân ái, bao dung, khoan từ.
Cùng người tiếp đãi giao du:
Một lòng thành tín, khư khư chẳng rời.»
(Đại Học chương III)
Biết nguyên tắc này, ta sẽ hiểu rõ hơn
hành vi và thái độ của đức Khổng.
Đức Khổng chủ trương: «Nếu mình chẳng có
chức vị trong một xứ, thì chẳng cần mưu tính chính sự của xứ ấy.» (Tử
viết: Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chánh. - LN, VIII, 15.)
Mạnh Tử nói: «Đức Khổng khi mới ra làm
quan, Ngài từng làm chức Ủy lại (tiểu quan trông coi thương khố). Ngài
nói rằng:”Ta chỉ lo cho sổ sách phù hợp với việc thâu xuất lúa thóc, như
vậy là đủ rồi.” Rồi Ngài làm chức Thặng điền (tiểu quan lĩnh việc chăn
nuôi). Ngài nói rằng:”Ta nuôi bò, chiên cho mập mạp, mạnh khỏe và chóng
lớn, thế là đủ rồi.” Ở địa vị thấp mà trèo đèo lên tước vị cao, là phạm
tôi việt chức vậy. Làm quan lớn tại triều đình, mà chẳng thi hành đạo lý
để dạy dân, giúp nước, đó là một điều sỉ nhục vậy. Đức Khổng không hề
mắc hai lỗi đó.» (Mạnh Tử, Vạn Chương hạ, 5.)
Vạn Chương hỏi rằng: «Đức Khổng khi có
lệnh vua triệu, chẳng đợi thắng xe, Ngài đi liền. Như vậy đức Khổng có
điều chẳng phải chứ gì?» Mạnh Tử đáp: «Đức Khổng thuở ấy đang làm quan,
Ngài thi hành phận sự của một viên quan. Vua vì chức quan của Ngài mà
triệu Ngài vậy.» (Xem Mạnh Tử, Vạn Chương X, 7. - xem thêm LN, X, 13:
Quân mạng triệu, bất sĩ giá, hành hỹ.)
III. ĐỨC KHỔNG AM TƯỜNG
LẼ BIẾN DỊCH, THĂNG TRẦM CỦA TRỜI ĐẤT
Ngài viết nơi Thoán Truyện quẻ Phong:
«Vừng dương cao sẽ xế ngang,
Trăg tròn, rồi sẽ chuyển sang vơi, gầy.
Đất trời, lúc rỗng, lúc đầy,
Thăng trầm, tăng giảm, đổi thay theo
thời.
Đất trời còn thế, nữa người.
Quỉ thần âu cũng một bài thịnh suy.»
Cho nên Ngài dạy phải bền gan, trì chí,
chớ nên thất vọng khi cùng khổ. Luận Ngữ viết: «Quân tử cố cùng.» (LN,
XV, 1). Hào Thượng Cửu quẻ Bĩ viết:
«Tượng rằng bĩ cực thái lai,
Có gì trường cửu ở đời này đâu?»
Ngược lại, Ngài chủ trương phải hết sức
khiêm cung, cẩn trọng khi thịnh mãn; chỉ có như vậy mới giữ được sự
thịnh mãn của mình.
Trong quyển Khổng Tử Thánh Tích Đồ có kể:
Trong miếu thờ Lỗ Hoàn Công có treo một bình gọi là «y khí». Để không
thì nghiêng; đổ nước vào lưng chừng thì ngay ngắn, đổ nước đầy tới miệng
thì lật úp sấp lại. Vua chúa treo để tự răn. Đức Khổng bảo môn đệ đổ
nước thí nghiệm, thấy đúng như vậy. Ngài dạy các môn đệ rằng: Muốn trì
mãn (giữ sự sung mãn), phải hết sức khiêm cung (Xem Khổng Tử Thánh Tích
Đồ trang 62, 63). Ngài cũng dạy đệ tử bài học khiêm cung tương tự, khi
Ngài đọc tới hai quẻ Tổn, Ích (Xem Khổng Tử Thánh Tích Đồ trang 81). Lý
do là vì:
«Trời làm vơi chốn rồi rào,
Mà thêm vào những chỗ nào khiêm cung.
Đất soi mòn, bớt cao phong,
Để cho lòng biển, lòng sông thêm dày,
Quỷ thần hại kẻ no đầy,
Mà đem phúc lại cho người khiêm cung.
Người thường ghét kẻ thừa dùng,
Còn người khiêm tốn thật lòng, thời ưa.
Trên khiêm, thì sáng mãi ra,
Dưới khiêm, ai kẻ hơn ta được nào,
Khiêm cung, giữ vẹn trước sau,
Rồi ra, quân tử gót đầu hanh thông.»
(Dịch, Khiêm quái, Thoán Truyện)
IV. ĐỨC KHỔNG TỬ NHÌN
THẤY CƠ VI CỦA CUỘC BIẾN HÓA
Theo Dịch lý cái gì cũng phát triển,
chuyển dịch từ bé đến lớn, từ gần đến xa. Cho nên đức Khổng dạy người
phải ngăn chặn họa hoạn, tai ương, loạn lạc ngay từ khi chúng mới nất
nanh, mầm mộng.
Luận Ngữ viết: «Nhân vô viễn lự, tất hữu
cận ưu.» (Người không lo xa, ắt có rầu gần. - LN, XV, 2). Nơi quẻ Khôn,
đức Khổng dạy về «phòng nguy lự hiểm» như sau:
«Nhà nào tích thiện sẽ hay,
Nhà nào tích ác sẽ đầy tai ương,
Tôi mà dám giết quân vương,
Con mà giết bố, dễ thường ngay sao?
Việc đâu một sớm, một chiều,
Duyên do tích lũy, bao nhiêu lâu rồi.
Duyên do lần dẫn tới nơi,
Tại mình chẳng sớm phanh phui tỏ tường.
Dịch rằng: Khi bước trên sương,
Hãy phòng băng cứng, thời thường đến
sau,
Ý rằng chuyện sẽ nối nhau,
Nếu mình để mặc từ đầu, đến đuôi.»
(Dịch, Khôn quái, Văn Ngôn, hào sơ lục.)
V. ĐỨC KHỔNG CHỦ TRƯƠNG
LÀM GÌ CŨNG PHẢI TÙY THỜI, NHẤT LÀ TRONG PHẠM VI CHÁNH TRỊ
Theo Dịch lý, một công chuyện gì cũng có
đầu, có đuôi, có giai đoạn, có tiết tấu. Phàm công chuyện gì muốn nên
công, chẳng những cần đến tài đức của người chủ xướng mà còn cần đến
hoàn cảnh thuận tiện, thời cơ thuận tiện, tâm cơ thuận tiện. Phàm việc
gì bị gàng quải sẽ khó nên công; phàm việc gì được ủng hộ sẽ dễ thành
sự. Như vậy tuy ta làm điều hay, mà lỗi thời, lỗi vận, trái cảnh, trái
nơi, ngược đời, ngược chúng, cũng thất bại như thường; dẫu người làm
điểu dở, nhưng khéo xoay, khéo xở, lại gặp thời, gặp vận vẫn thành công
như thường. Vì thế người quân tử phải lấy đó làm phương châm hành sự.
Lúc nước có đạo, nên đem tài sức ra giúp
đời, vì đó là thời cơ thuận tiện để thi hành đạo lý.
Quẻ Thái, hào Sơ Cửu viết:
«Hào Sơ Cửu, cỏ gianh muốn nhổ,
Nhổ một cây, cụm bửa lên theo,
Giúp đời, đã đúng lúc chiều.»
Khi nước vô đạo, khi tiểu nhân lên cầm
quyền, người quân tử cần phải lui về ẩn dật.
Tượng Truyện quẻ Bĩ viết:
«Tượng rằng: Trời đất quải gàng,
Mỗi bên, mỗi ngã, đôi đàng chẳng giao.
Hiền nhân đức cả, tài cao,
Liệu bề che dấu, cốt sao thoát nàn.
Đừng mong lợi lộc, vinh quang.
Tiểu nhân đắc thế, ẩn tàng là hơn.»
VI. ĐỨC KHỔNG BIẾT RẰNG
CON NGƯỜI BỊ HOÀN CẢNH CHI PHỐI RẤT NHIỀU
Theo Dịch lý, sự biến hóa và môi trường
biến hóa có ảnh hưởng và liên lạc với nhau rất nhiều. Vì thế đức Khổng
dạy các môn đệ không được đến một nước loạn lạc, vô đạo, đảo điên (LN,
VII, 14: Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư). Hơn nữa phải xa lánh kẻ
tiểu nhân. Đã không ý hợp tâm đầu với tiểu nhân, mà còn mưu sự với tiểu
nhân, thời tránh sao được họa hại? (LN, XV, 39: Đạo bất đồng bất tương
vi mưu.)
Dịch Kinh về điểm này đã luận như sau:
«Dịch kinh, trong cả toàn pho,
Gần mà chẳng hợp, tức là chẳng hay.
Chẳng hay, họa hại có ngày.
Phàn nàn, tủi hận dắt dây hiện hình.»
(Hệ Từ Hạ chương 12: Phàm Dịch chi tình.
Cận nhi bất tương đắc. Tắc hung. Hoặc hại chi. Hối thả lận.)
VII. ĐỨC KHỔNG CHỦ
TRƯƠNG PHÀM LÀM CÔNG VIỆC GÌ CŨNG CẦN PHẢI CÓ NGHIÊN CỨU, CÓ TỔ CHỨC, CÓ
GẮNG GỎI MỚI NÊN CÔNG
Trung Dung viết:
«Việc gì tính trước cũng linh,
Không toan tính trước âu đành dở dang.
Lời xếp trước, hoang mang khôn lẽ,
Việc tính rồi hồ dễ rối ren.
Hành vi đã sẵn chốt then,
Sẽ không vấp vướng, sẽ nên tinh thành.
Đạo làm người có rành duyên cớ,
Sẽ mênh mang muôn thuở, muôn đời…»
(Trung Dung chương XX)
Sự chuẩn bị chu đáo đó cũng đã được Kinh
Dịch đề cao như sau:
«Hiền nhân thủ khí trong người,
Đợi thời hoạt động, đợi thời ra tay.
Sẵn đồ, lại sẵn dịp may,
Làm gì mà chẳng được hay, được lời.
Làm mà thông suốt, xong xuôi,
Không vương trở ngại, ắt thời nên công.
Ý rằng: Sắm đủ đồ dùng,
Sắm sanh đầy đủ, ra công mới là.»
(Dịch, Hệ Từ Hạ, chương V, bình giải hào
Thượng Lục quẻ Giải)
Hơn nữa, lúc nào cũng phải thận trọng, lo
lắng, dẫu công trình đã gần tới thành công.
Hào Cửu Ngũ quẻ Bĩ viết:
«Cơn đen, vận bĩ đã lui,
Đại nhân đã gặp được hồi hay ho.
rằng nguy, rằng hỏng mới là,
Khóm dâu vững chãi, thiết tha buộc
ràng.»
(Dịch, Bĩ quái, hào Cửu Ngũ.)
Hệ Từ quảng luận hào này như sau:
«Nguy thay, kẻ tưởng vững ngôi,
Táng vong, kẻ tưởng thảnh thơi, trường
tồn.
Loạn là kẻ tưởng trị an,
Tưởng an, khinh thị, ly loàn mới sinh.
Cho nên, quân tử giữ mình,
Đương yên, mà vẫn nhớ rành cơn nguy.
Đang còn, vẫn sợ mất đi.
Nước yên, mà vẫn phòng khi ly loàn.
Biết lo, thân mới được an,
Biết lo, nên mới bảo toàn quốc gia.
Dịch rằng: Rằng nguy, rằng hỏng, mới
là,
Khóm dâu vững chãi, thiết tha buộc
ràng.»
(Hệ Từ Hạ, V)
VIII. TUY NHIÊN ĐỨC
KHỔNG CHO RẰNG HAY TẠI MÌNH, DỞ CŨNG TẠI MÌNH
Mạnh Tử thuật:
Thuở xưa có một đứa trẻ hát:
«Thương Lang nếu nước mà trong,
Ta đem giải mũ ra giòng giặt chơi.
Thương Lang nước đục thời thôi,
Ta dùng ta rửa, rửa đôi chân này.»
Nghe câu hát ấy, đức Khổng nói với đệ tử
rằng: «Các ngươi hãy lắng nghe: Nước trong thì dùng giặt giải mũ; nước
đục thì dùng rửa bàn chân. Đó là người ta tùy theo sự tốt xấu, trong đục
mà dùng vậy. Này, một người tự khinh mình trước, rồi kẻ khác mới khinh
khi mình. Một nhà tự hủy hoại mình trước, rồi kẻ khác mới hũy hoại nhà
mình. Một nước mà phe này, đảng nọ, người này, kẻ khác đánh nhau, rồi
nước khác mới thừa dịp mà đánh nước mình.»
Trong thiên Thái Giáp, Kinh Thư có chép
rằng: «Những tai ách do Trời làm ra, mình còn tránh được; những tai ách
do tự mình gây nên, thì mình phải chết.» (Xem Mạnh Tử, Ly Lâu thượng,
8). Thế là «Linh tại ngã, bất linh tại ngã.»
Trung Dung viết:
«Người quân tử như tay xạ thủ,
Chệch hồng tâm, lỗi đó trách mình.»
(Trung Dung, XIV)
IX. ĐỨC KHỔNG LINH
ĐỘNG, BIẾN DỊCH CỐT LÀ ĐỂ THỰC HIỆN ĐẠO LÝ, CỐT LÀ ĐỂ ĐI ĐẾN CHỖ TOÀN
THIỆN
Đức Khổng tùy thời xử thế, cốt là để tu
đạo lập thân, đem Trung, đem toàn thiện vào trong lòng mình (TRUNG), rồi
ra sẽ thành nhân chi mỹ (LN, XII, 15), làm cho người trở nên giống mình
(THỨ) để cùng nhau tiến bước mãi mãi, cố gắng mãi mãi (LN, X, 18), và
chỉ dừng bước nơi mức hoàn thiện (Chỉ ư chí thiện. - Đại Học 1).
Tóm lại, làm người phải biết thời cơ, như
chim trĩ trước khi muốn đậu, liệng vòng tròn rồi mới đậu, thấy người có
khí sắc dữ tợn thì bay đi (LN, X, 18); và phải biết «chỉ ư chí thiện»
như chim hoàng điểu, nói trong Đại Học, biết tìm nơi góc núi mà đậu cho
yên thân. (ĐH III: Miên mang hoàng điểu, chỉ vu kỳ ngung).
B. NGƯỜI
XƯA ÁP DỤNG DỊCH LÝ VÀO PHÉP TRỊ DÂN RA SAO?
Trong Tứ Thư, Ngũ Kinh,, đức Khổng đã
nhiều lần lấy gương xưa tích cũ, đường xưa lối cũ ra để gián tiếp dạy
người cầm quyền phải áp dụng Dịch lý vào công cuộc chính trị.
Người xưa trị dân dực vào ba nguyên tắc:
- Thuận theo thời trời
- Thuận theo thế đất
- Thuận theo lòng người.
1. Trị dân thuận theo
thời trời
Người xưa trị dân rất chú trọng đến thời
trời, vì thế rất chú trọng đến thiên văn và lịch số.
Vua Nghiêu từng sai Hi, Hòa khảo sát tinh
tượng, tiên đoán các ngày nhật thực, nguyệt thực, v.v… Thời Nghiêu đã có
tên nhị thập bát tú… (xem Kinh Thư, Nghiêu Điển).
Thiên Nguyệt Lệnh trong Lễ Ký đã mô tả tỉ
mỉ công việc của nhà vua trong từng tháng mỗi năm.
Đại khái:
- Trong những mùa Xuân, Hạ, nhựa sống đang
tràn đầy trong vũ trụ, công việc đồng áng tằm tang đang bận rộn, vua sẽ
không động dụng đến dân chúng, sẽ không giết lát tội nhân, không động
dụng quân sĩ binh đao; dân sẽ không giết chim, phá tổ; không săn bắn;
không vét lát sông hồ; không đốt phá rừng rú; không chặt cây, đẵn cối.
Vả cây cối đẵn vào mùa Xuân, Hạ sẽ dễ bị mọt. (Phàm mộc Xuân Hạ trảm giả
đa đố. - Khâm định Lễ Ký án. Cf. Couvreur Li Ki, I, p. 369)
- Trong những mùa Thu, Đông, vạn vật héo
khô dần, vua mới bắt đầu cho thi hành các hình án trảm quyết. thu, Đông
là những mùa gặt hái, thâu liễm. Người xưa chặt cây, chặt tre vào ngày
Đông Chí.
- Khi Âm Dương nhị khí giao nhau, nên giảm
công việc, tránh viễn hành. (Xem Nguyệt Lệnh, các ngày Đông Chí, Hạ
Chí).
- Trước Xuân Phân ba ngày thường có sấm
động; nhà vua truyền dân chúng kiêng việc phòng sự, kẻo sinh quái thai.
- Ngày Xuân Phân và Thu Phân, nhật dạ
tương đồng, nên nhà vua truyền xem xét lại cân lường, đấu hộc, v.v… (Xem
Nguyệt Lệnh Lễ Ký Couvreur I, 330, 410. Xem Nguyệt Lệnh trong quyển
Khổng Học Tinh Hoa của tác giả, trang 337- 438).
2. Người xưa trị dân
thuận theo thủy thổ
Vua Vũ là vị vua Trung Hoa đầu tiên rất
sành về địa lý. Ngài đã vẽ địa đồ nước Trung Hoa. Thiên Vũ Cống trong
Kinh Thư cho thấy:
Ngài biết rõ:
- Địa thế từng miền.
- Năng suất đất đai của từng miền.
- Nghề nghiệp của từng miền.
- Đường lối giao thông của từng miền.
Tùy theo sức sản xuất và sự phú cường của
từng miền, Ngài định thuế khóa và phẩm vật cống hiến. (Xem Kinh Thư Vũ
Cống.)
Lễ Ký viết: «Các thánh vương xưa thuận
theo định luật trời đất mà cai trị. Các Ngài không bắt người vùng núi
xuống ở vùng biển; không bắt người ở ngoài đảo vào ở trong đồng. Các
Ngài sử dụng ngũ hành, sử dụng nguyên liệu vật thực tùy theo thời. Các
Ngài tùy tuổi dân mà cho phép kết hôn; tùy tài đức mà ban tước vị.
«Các Ngài sử dụng dân theo đúng thời tiết,
cho nên trong nước thoát thủy tai, hạn hán, côn trùng; dân chúng không
lo đói khát.» (Cf. Lễ Ký, Lễ Vận, tiết IV, 16. Couvreur Li Ki, I, 535;
xem thêm Lễ Ký, Lễ Khí, tiết II, 10; tiết 1, 3.)
3. Người xưa cai trị
thuận theo nhân tâm
Các vị thánh vương xưa cho rằng dân muốn
là trời muốn, nên làm vua phải biết thuận nhân tâm.
Vậy nên các vua xưa, làm việc gì trọng
đại, thường hỏi ý dân, hay ít ra là giải thích cho dân, cho quân được rõ
nguyên do hành động của mình.
- Thành Thang trước khi cất binh đánh vua
Kiệt nhà Hạ, đã làm bài Thang Thệ, phủ dụ dân quân (Xem Kinh Thư, Thang
Thệ).
- Võ Vương trước khi cất binh đánh vua Trụ
nhà Thương, đã họp quân sĩ và chư hầu ở bến Mạnh Tân, để hiểu thị (Xem
Kinh Thư, Thái Thệ).
- Vua Bàn Canh khi muốn dời đô từ Cảnh
sang Ân để đề phòng lụt lội cho dân, đã hội họp dân lại để giải thích
hơn thiệt. (Kinh Thư, Bàn Canh).
Đại Học viết:
«Sướng thay bậc phụ mẫu dân,
Cùng dân yêu ghét muôn phần chẳng sai.
Đáng làm cha mẹ muôn người.»
(Đại Học X)
Luận Ngữ chủ trương phải sử dụng dân cho
hợp thời (LN, I, 5: Sử dân dĩ thì.)
Trung Dung cũng ghi:
«Muốn bách tính kính tin một dạ,
Xâu phải thời, thuế má phải chăng.»
Tóm lại, theo thời trời, theo thế đất,
theo nhân tình mà cai trị, chính là bí quyết thành công của người xưa.
Thế tức là:
- «Thượng luật thiên thời, hạ tập thủy
thổ» của Trung Dung (chương XIX)
- «Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở
ố, ố chi.» của Đại Học (chương X)
- «Sử dân dĩ thì.» của Luận Ngữ (I, 5) và
Trung Dung (chương XX).
Đó cũng chính là ba yếu tố tạo dựng lịch
sử: thiên thời, địa lợi, nhân hòa đề cập ở thiên Công Tôn Sửu hạ, sách
Mạnh Tử.
C. DỊCH KINH
ĐẠI KHÁI CHỦ TRƯƠNG NHỮNG GÌ?
Dịch Kinh khảo sát tất cả hiện tượng biến
thiên, các trạng thái chuyển dịch vô thường của một bản thể bất biến mà
Dịch gọi là Thái Cực.
Về vũ trụ quan, Dịch cho rằng vạn vật từ
một Đại Thể, một Bản Thể, một Nguyên Thể sinh xuất, phát tán ra; biến
thiên, thắng giáng theo định luật tuần hoàn, rồi lại kết cục trở về
Nguyên Thể.
Vì thế mà Nho gia sau này chủ trương:
«Nhất thể tán vạn thù, vạn thù qui nhất
thể.»
«Vạn vật tuần hoàn, chung nhi phục thủy.»
Về nhân sinh quan, Dịch Kinh chủ trương
con người phải biết tùy thời xử thế, để tránh được điều họa hung, mưu
cầu được hạnh phúc, cát tường. Kinh Dịch dạy con người nên sống theo lối
đường người quân tử (Dịch vi quân tử mưu, bất vi tiểu nhân mưu); và nếu
có thể, trở nên hiền thánh, sống huyền hóa với đất trời (xem quẻ Kiền)
Dịch Kinh, ngoài ra, còn muốn đề cập đến
các định luật biến dịch của vũ trụ cũng như của quần sinh.
«Dịch sở dĩ có là cốt để mở mang trí tuệ
cho con người, tác thành muôn việc cho con người, bao trùm tất cả đạo lý
trong thiên hạ …» (Phù Dịch sở dĩ vi giả dã, khai vật thành vụ, mạo
thiên hạ chi đạo, như tư nhi dĩ dã. - Hệ Từ Thượng, chương XI, tiết I).
Dịch Kinh theo đúng khuôn khổ của trời
đất, vì vậy nên có thể điều hòa, sắp xếp mọi việc trong thiên hạ (Dịch
dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên hạ chi đạo. - Hệ Từ Thượng,
chương IV). Vì không thể nào đề cập đến Dịch Kinh một cách nông cạn, một
sớm một chiều được, nên ở đây chúng ta chỉ bàn qua về phương pháp xu
cát, tị hung của Kinh Dịch.
Dịch Kinh dạy chúng ta xu cát, tị hung
bằng sự hiểu biết của mình, bằng sự cố gắng của mình, sự khéo léo của
mình.
Dịch Kinh nhận định rằng ta lệ thuộc rất
nhiều vào hoàn cảnh, cho nên biết hoàn cảnh là biết được một phần lớn số
phận cá nhân.
Hoàn cảnh hay, dở khác nhau, tùy như ở chỗ
chính thắng hay tà thắng; quân tử thắng hay tiểu nhân thắng; tinh thần
thắng hay vật chất thắng; tinh thần làm chủ hay vật chất làm chủ. Nhưng,
trong mỗi hoàn cảnh, cá nhân có hay có dở khác nhau, vì địa vị tài đức
khác nhau; vì có người giúp đỡ hay gàng quải; vì gần quí nhân hay tiểu
nhân…
Hành động có hay có dở khác nhau:
+ Hành động hay:
- sẽ đem lại lợi ích.
- hợp đạo lý
- hợp tình, hợp cảnh, không làm cho ta
phải xấu hổ, hay hối hận, phàn nàn.
+ Hành động dở sẽ đem lại cho mình hung
họa, làm cho mình băn khoăn, hối hận.
+ Một phần lớn hung họa của ta phát sinh
là vì ta:
- sống trong những hoàn cảnh bất xứng,
địa vị bất xứng.
- thiếu tài đức
- thiếu nhẫn nại.
- thiếu quan phòng
- ghét nhau mà vẫn phải gần nhau
- giao thiệp với nhau toàn bằng sự dối
trá.
Vậy, muốn sống một đời sống lý tưởng, phải
thuận theo đạo lý, tức là theo các định luật thiên nhiên, đừng gàng quải
với trời đất, với tuổi tác. Phải tìm hoàn cảnh thuận tiện cho mình mà
sống, giao thiệp với những người mình thích; rồi lại phải tránh ác,
tránh hung, từ khi nó mới chớm phát; phải cố gắng tạo cho mình một lề
lối sống hay, đẹp; khi đã được phải chắt chiu bảo vệ.
Đó là chủ trương của Dịch về phép xu cát
tị hung. Nếu mình theo được vậy, mình sẽ thấy tinh thần thung dung,
thoải mái, óc chất minh mẫn, con người khỏe khoắn, linh động và sẽ được
mọi người quí mến, kính trọng; mình sẽ như một vị thuyền trưởng có kinh
nghiệm, lèo lái con thuyền bản thân trên trùng dương trần thế, cho đến
bến bờ hoàn thiện.
Nhận định ra được chân giá trị của Dịch,
lại biết áp dụng thực thi được Dịch lý vào công cuộc tu luyện bản thân,
nên đức Khổng rất tha thiết khảo cứu Kinh Dịch.
Ngài nói: «Nếu Trời cho ta sống thêm ít
tuổi nữa để học Dịch, ta có thể không phạm lỗi lầm lớn nữa.» (LN, VII,
16). Lời nói ấy thật là khiêm tốn và cũng là một lời chân thành khuyến
cáo chúng ta nên để tâm học Kinh Dịch.
CHÚ THÍCH
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11
12 13
14 15
16 17
18 19
20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
|