CHÂN DUNG KHỔNG TỬ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
Chương 7
Đức Khổng, con
người rất cũ và rất mới
Suy khảo về cuộc đời đức Khổng, ta thấy
Ngài có một điểm hết sức đặc biệt và một thái độ hết sức khiêm tốn.
Ngài nói: «Ta trần thuật chứ không sáng
tạo,
Tin cổ nhân, mộ đạo cổ nhân.» (LN,
VII, 1)
Trung Dung viết thêm:
«Đức Khổng tiếp nối đạo Thuấn, Nghiêu,
Làm sáng tỏ lối đường Văn, Võ.»
(Trung Dung, chương XXX)
Ngài sống vào khoảng thời gian từ 551 đến
479 trước kỷ nguyên, mà đã tốn rất nhiều công phu khảo sát về các đạo
giáo, chính trị, tư tưởng, triết học, phong tục của một khoảng thời gian
lịch sử ước chừng 2.000 năm về trước cho tới đời Ngài. Ngài đã san định,
biên khảo trước sau sáu bộ sách lớn: Lễ, Nhạc, Thi, Thư, Dịch, Xuân Thu.
Đây ta chỉ đề cập sơ về Thi, Thư, Dịch, Xuân Thu.
A. KINH
THI
Kinh Thi mô tả lại niềm tín ngưỡng của các
vị thánh vương nhà Châu; ghi chú lại những phong tục và nếp sống thường
nhật của dân Trung Hoa, từ thời Hậu Tắc cho tới thời đức Khổng. Hậu Tắc
hay Khí, tức là anh em ruột với vua Nghiêu (2356- 2255), mới đầu ở đất
Thai. Sau này cháu bốn đời ngài, là Công Lưu, thiên sang đất Bân.
Năm Giáp Dần, 1327, cháu 16 đời của Ngài,
là Cổ Công Đản Phụ, lại thiên sang dãy Kỳ Sơn, và cải quốc hiệu là Châu.
Năm Đinh Dậu, 1284, tức năm 41 đời vua Vũ
Đinh, Cổ Công Đản Phụ sinh Quí Lịch.
Năm Canh Dần, 1231, tức năm 28 đời vua Tổ
Giáp, Quí Lịch sinh Văn Vương.
Năm Nhâm Thìn, 1169, tức năm thứ 2 đời vua
Đế Ất, Văn Vương sinh Cơ Phát, tức là Chu Vũ Vương sau này.
Kinh Thi, ngoài những thi ca mô tả phong
tục, tâm sự, nếp sống thường ngày của người xưa, còn cho ta thấy một
niềm tin về Thượng Đế hết sức lạ lùng, và một nền đạo đức hết sức cao
siêu.
Kinh Thi chủ trương rằng các bậc thánh
vương, các bậc hiền thánh đời xưa, đã có một đời sống tinh toàn, phối
kết với Thượng Đế với Thượng Đế và chủ trương Thượng Đế sống rất gần
vua, gần dân, gần quân sĩ.
Kinh Thi viết:
«Quân Thương Ân bạt ngàn Mục Dã,
Một rừng người chật cả sa tràng.
Cho ba quân thêm dạ sắt gan vàng,
Võ Vương kêu: Thượng đế ở cùng ta đó,
Ba quân hãy vững lòng vững dạ.»
Lời kêu gọi đó làm cho binh sĩ nhà Châu ào
lên đánh tan quân Thương Ân trong có một buổi sáng.
Kinh Thi viết thêm:
«Nơi Mục Dã mênh mang rộng rãi,
Xe bạch đàn chói chói chang chang,
Ngựa tứ nguyên phau phau đẹp rỡ ràng,
Khương thượng phụ trông oai phong lẫm
lẫm,
Ngài như chim ưng xoè tung đôi cánh,
Giúp Võ Vương thế mạnh xiết bao,
Cả phá Thương, ba quân tiến ào ào,
Sau một sáng, trời thanh quang trở
lại.»
Thời buổi thô sơ ấy, nhân loại đã tin rằng
Trời chiếu ánh sáng muôn trùng vào tâm hồn họ, để làm khuôn phép mẫu
mực, để ra mệnh lệnh cho họ theo. Các vương giả, hiền nhân thời ấy cố
gắng sống sao cho đức hạnh tuyệt vời, để kết hợp với Trời, để có thể coi
như là vẻ sáng của Trời, như Văn Vương. Họ mong muốn được đức hạnh như
Trời (dữ Thiên, đồng đức).
Hễ thấy ai:
Đức sáng quắc sáng choang ở dưới,
Họ liền biết:
Mệnh hiển dương, chói lọi ở trên.
Thời buổi ấy, các bậc hiền nhân, vương giả
đều tin có ảnh tượng Trời trong đáy lòng mình.
Văn Vương nói:
«Chẳng thấy nhãn tiền, nhưng vẫn giáng
lâm,
Chẳng phải long đong nhưng vẫn giữ
được.»
Thế là nhờ sự hiếu cổ, tồn cổ của đức
Khổng mà ngày nay ta còn có được một bằng chứng lịch sử cụ thể về quan
niệm «Thiên Nhân Tương Dữ» của người xưa, về ước vọng của hiền thánh
xưa, là sống phối hợp với Trời.
Trương Kỳ Quân, một học giả Trung Hoa Dân
Quốc hiện đại đã viết: «Trung Quốc từ thời đại Đường Ngu (Nghiêu Thuấn)
tới nay vốn có tư tưởng về nhẽ”Thiên Nhân Hợp Nhất”. Kính Trời cốt là để
yêu người. Yêu dân tức là để tôn Thiên. Thánh triết lịch đại đều nối
tiếp phát huy cái đạo”Thiên Nhân Hợp Nhất” ấy. Lão Tử chính là một trong
các bậc thánh hiền ấy.» (Cf. Trương Kỳ Quân, Trung Hoa Ngũ Thiên Niên
Sử, chương Lão Tử.)
Khảo Đạo Đức Kinh, ta thấy Lão Tử cũng
sùng cổ như Khổng Tử và cũng chủ trương: «Lý tưởng của người xưa là sống
phối kết với Trời.» (Thị vị phối Thiên, cổ chi cực. Đạo Đức Kinh, ch.
68).
Nơi chương 15, Đạo Đức Kinh, Lão Tử mô tả
hình dung dáng dấp những người xưa sống khuôn theo đạo cả, kết hợp với
Trời như sau:
«Ai
người xưa khuôn theo Đạo cả,
Sống
huyền vi rất khó tri tường.
Nay ta
gạn ép văn chương,
Hình
dung dáng dấp liệu đường phác ra.
Họ e
ấp như qua băng tuyết,
Họ ngỡ
ngàng như khiếp láng giềng.
Hình
dung phong thái trang nghiêm,
Băng
tan, tuyết tán như in lạnh lùng.
Họ đầy
đặn in chừng mộc mạc,
Nhưng
phiêu khinh man mác hang sâu.
Hỗn
mang ngỡ nước đục ngầu,
Đục
ngầu lắng xuống một mầu trong veo.
Ngỡ ù
cạc một chiều an phận,
Nào ai
hay sống động khôn lường.
Phù
hoa gom góp chẳng màng,
Đã say
đạo cả coi thường phù hoa.
Sống
ẩn dật không phô thanh thế,
Việc
thế gian hồ dễ đổi thay..»
(Lão Tử,
Đạo Đức Kinh, chương 15.)
B. KINH THƯ
Kinh Thư
mô tả lại gương tích ít nhiều vị đế vương xưa, từ thời vua Nghiêu (2356-
2255) cho đến đời vua Bình Vương (770- 719), tức là đến hết thời Tây
Chu. Nếu ta bỏ đoạn cuối nói về Tần Mục Công (659- 620), và đọc tiếp
theo bộ Xuân Thu, ta sẽ có một quan niệm khái quát về các bậc thánh
vương Trung Hoa thời cổ, và sự thăng trầm của các nền chính trị Trung
Hoa, từ Nghiêu cho tới năm 14 đời Ai Công nước Lỗ (481).
Nhưng mục
đích Kinh Thư là cho ta thấy rõ quan niệm về nền Thiên trị Trung Hoa
thời cổ, với bản hiến chương căn bản của nó là Hồng Phạm Cửu Trù.
Thế nào
là một nền Thiên trị?
Nền Thiên
trị là một nền chính trị nhận Trời làm khởi điểm và làm cùng điểm nhân
loại; lấy sự hoàn thiện làm khởi điểm và làm cùng điểm nhân loại. Nên
bậc thánh vương tế tự Trời, tức là lấy Trời làm cùng điểm, làm cứu cánh
cho mình và cho muôn dân, cố đem những khuôn phép hằng cửu áp dụng vào
công cuộc trị dân, tức là dùng những khuôn phép hoàn thiện để uốn nắn
con người trở nên hoàn thiện.
Những
luật pháp cũng cố khuôn theo đúng các định luật thiên nhiên; nên luật
pháp của dân xưa chính là tam cương ngũ thường; chính là nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín. Các luật lệ nhân tạo, các hình pháp nhân tạo đều cố hết
sức tránh. Nếu bất đắc dĩ phải lập ra, thì chỉ muốn dùng tạm thời. Thế
tức là ý nghĩa «dùng hình pháp cốt là mong sao bỏ được hình pháp», «xử
kiện cốt là mong sao bỏ được kiện tụng.»
Thiên tử
hay thánh vương phải là một người siêu việt quán tam tài, nối kết Trời,
đất, người.
Tinh thần
ngài phối hợp với Trời, vì thế gọi là Thiên Tử.
Tim óc
người nhân hậu, thông minh, cốt là để thương xót, hướng dẫn chúng dân.
Thể xác
người và áo mão người tượng trưng cho vẻ đẹp đẽ của vật chất.
Ảnh
hưởng, ân trạch, ngài thụ lãnh được nơi Trời, sẽ qua trung gian các hiền
thần, thâm nhập vào bách tính. Bách tính hấp thụ được ảnh hưởng ấy, sẽ
được giáo hóa, sẽ được hoán cải.
Chúng dân
lại đem tài sức ra cải tạo vật chất, cải tạo hoàn cảnh, trong những điều
kiện thuận tiện.
Vật chất
được hoán cải, canh tác, trở ngược lại sẽ đem no ấm, sung túc lại cho
chúng dân.
Con người
được no ấm, an bình, có cơ hội học hỏi, suy nghĩ, sẽ tiến dần trên các
nấc thang giá trị, để tiến dần tới hoàn thiện. Hơn nữa, mọi người sẽ
trông vào gương sáng của vì thiên tử, sẽ cố gắng hướng thượng, cải thiện
mình mãi mãi, để tiến tới chí mỹ, chí thiện…
Nói cách
khác, các bậc thánh vương lên trị nước không phải là để hưởng thụ, để
buông thả cho dục tình tha hồ mà phóng túng, nhưng chính là để tuân theo
ý Trời, tuân theo những định luật nhiên nhiên của trời đất và nhân loại.
Vì thế, các Ngài thời thường yêu cầu đình thần và dân chúng đàn hạch,
kiểm thảo hành vi, hoạt động của mình.
Các Ngài
hứa đem an bình lại cho nhân loại; thế nhưng không có hứa suông, mà lại
dạy mọi người phải thực hiện an bình, bằng cách tu thân, bằng cách tôn
trọng tam cương ngũ thường, giữ vẹn tín nghĩa, trọng đức, khinh tài, cố
gắng không ngừng để cải thiện hoàn cảnh, cải thiện nội tâm, tiến mãi
trên con đường chân, thiện, mỹ.
Thế tức là dạy cho dân biết tự trọng, biết tự tạo cho mình một nếp sống
an bình, an lạc, do tài đức của moi người chứ không phải là ngồi không
ăn sẵn, ỷ lại, chờ mong Trời đổ an bình xuống cho mình, như đổ mưa móc
xuống cho cây cỏ.
Xét Hồng
Phạm Cửu Trù ta thấy nó xây nền tảng chính trị trên căn bản vĩnh cửu
tuyệt đối, vì đã biết lấy Trời làm căn cốt cho mọi người. Trời từ đáy
thẳm lòng sâu vũ trụ, đáy thẳm lòng sâu con người, đã tung tỏa muôn ánh
hào quang để hướng dẫn nhân loại. Thiên tử là người hấp thụ được hào
quang ấy nhiều nhất, nên vừa thông minh vừa đạo đức vượt quá chúng nhân,
vừa thay Trời trị dân, vừa là gương mẫu sống động cho một đời sống lý
tưởng cao đẹp nhất, lúc nào cũng treo cao cho muôn dân soi chung, và là
trung gian giữa Trời người; qui tụ lại mọi điều hạnh phúc của Trời, để
rồi lại tung toả ra cho toàn dân thiên hạ. Nó cũng dựa trên sơ đồ Trung
điểm và vòng Dịch để tổ chức quốc gia. Nó cũng dựa theo sơ đồ Trung điểm
và vòng Dịch để tổ chức quốc gia.
Lập đế đô
ở giữa muôn dân và càng xa đế đô, là càng xuống man di, mọi rợ, xuống
tới các tầng lớp thấp kém.
Cũng vì
thế mà muôn dân đều có nguyện vọng về sống ở đế đô, gần thiện tử. Đại
Học nói: «Bang kỳ thiên lý, duy dân sở chỉ» cũng không ngoài ý đó.
Ở nơi con
người cũng theo một tổ chức như vậy. Tầng ngoài cùng là dáng điệu, tầng
trong cùng là duệ trí. Có đạt tới duệ trí mới đạt tới mức thánh thiện.
(Hồng Phạm, trang 6).
Bậc thánh
vương không bỏ sót tầng lớp giá trị nào mà không khai thác; từ vật chất
đến tinh thần, từ miếng cơm manh áo đến đạo đức, tế tự, nhất nhất đều
được đề cập tới.
Bậc thánh
vương hiểu được gốc ngọn, đầu đuôi, nên bao giờ cũng lấy Trời làm gốc,
lấy tâm hồn con người làm trọng, của cải vật chất bên ngoài làm tùy.
(Đại Học, X).
Ý niệm
Thiên Tử trong Hồng Phạm Cửu Trù bắt nguồn từ Trời, có một ý nghĩa thần
thánh, và phổ quát, một giá trị vũ trụ.
Các học
giả Âu Châu sau này như Wieger, Marcel Granet, đã nhìn thấy giá trị cũng
như ý nghĩ sâu xa của chức vị thiên tử trong nền chính trị Trung Hoa
thời cổ.
C. KINH XUÂNTHU
Kinh Xuân
Thu là một bộ sử có niên hiệu mạch lạc ghi chú các công chuyện từ đời Lỗ
Ẩn Công nguyên niên, tức 721, đến hết năm 14 đời vua Lỗ Ai Công, tức
481.
Viết Xuân
Thu, đức Khổng muốn áp dụng thuyết chính danh vào công chuyện viết sử,
và cũng muốn phục hồi lại nền Thiên Trị, phục hồi lại vương đạo trong
công cuộc trị dân.
Theo Đổng
Trọng Thư, thì sách Xuân Thu cũng cốt là để xiển minh cái quan niệm
«Thiên nhân tương dữ», nghĩa là Trời và người có quan hệ mật thiết với
nhau. (TTK, Nho Giáo, II, tr. 35). Trời là tổ của vạn vật, là tổ của con
người. Cho nên khi ta mới sinh, chưa phải là người, vì con người xứng
đáng với danh hiệu nó, phải hoàn toàn như Trời. (Nho Giáo, II, tr. 35).
Người có
địa vị tôn quý hơn cả là bậc vương giả. Vương giả là người đứng giữa,
tham tán, quán thông cả Trời, đất, và người, cho nên nói rằng: «Đời xưa
đặt chữ, vẽ 3 vạch và sổ một cái ở giữa, là chữ Vương. ba cái vạch ngang
là biểu thị Trời, đất, và người, cái sổ ở giữa là biểu thị cái ý tham
thông ba bậc ấy.» (Vương Đạo thông tam, XLIV). Bậc vương giả có cái địa
vị quan trọng như thế và lại có cái trách nhiệm rất lớn, không những là
đối với người mà thôi, nhưng đối với cả trời đất nữa, cho nên người làm
vua phải thận trọng mà giữ ngôi mình cho xứng đáng. Bậc nhân quân một
đằng là tham dữ với trời đất, một đằng làm cái khu cơ, nghĩa là cái then
máy để phát động sự hành vi trong nước. Cái khu cơ mà sai một hào ly,
thì mọi việc hư hỏng cả. Vậy nên kẻ nhân quân cần phải «cẩn bản, tường
thủy, kính tiểu, thận vi»: cẩn cái gốc, rõ cái mối đầu, kính cái nhỏ,
thận cái không rõ. (Lập Nguyên Thần XIX) (TTK, Nho Giáo, II, tr. 36).
Như vậy
vi ý Xuân Thu ngoài phương pháp dùng từ ngữ, danh xưng để bao biếm ra,
thì cũng tương tự vi ý Kinh Thư.
D. KINH DỊCH
Theo Luận
Ngữ thì về già đức Khổng mới chuyên tâm nghiên cứu và xiển minh Dịch lý
(LN, VII, 16).
Theo
truyền thuyết thì:
- Phục Hi
vẽ Bát Quái.
- Văn
Vương lập 64 quẻ, viết Thoán Từ, giải đại cương về mỗi quẻ.
- Chu
Công viết 384 Hào Từ, giải đại cương về mỗi hào.
- Khổng
Tử viết Thập Dực để bổ sung cho Kinh Dịch.
Thập Dực
là:
1- Thoán
Thượng Truyện: để cắt nghĩa Thoán Từ của Thượng Kinh.
2- Thoán
Hạ Truyện: để cắt nghĩa Thoán Từ của Hạ Kinh. Thoán Truyện khác Thoán Từ
của Văn Vương. Thoán Từ bao giờ cũng xếp ngay ở đầu quẻ. Thoán Truyện
xếp tiếp theo, và bao giờ cũng bắt đầu bằng hai chữ «Thoán viết».
3- Tượng
Thượng Truyện: để giải thích các Tượng nơi Thượng Kinh.
4- Tượng
Hạ Truyện: để giải thích các Tượng trong Hạ Kinh. Tượng Truyện chia
thành Đại Tượng (cắt nghĩa hình ảnh của toàn quẻ với bài học luân lý kèm
theo) và Tiểu Tượng để cắt nghĩa hình ảnh đề cập trong Hào Từ; như vậy
Tiểu Tượng cốt cắt nghĩa Hào Từ cho thêm rõ nghĩa. Như vậy quẻ nào cũng
có một Đại Tượng và sáu Tiểu Tượng, và đều bắt đầu bằng hai chữ «Tượng
viết».
5- Hệ Từ
Thượng Truyện.
6- Hệ Từ
Hạ Truyện. Hệ Từ Thượng và Hạ bàn về đạo lý, triết lý đại cương trong
Kinh Dịch, lại đôi khi cũng bình thêm một ít hào cho rõ nghĩa hơn.
7- Văn
Ngôn. Văn Ngôn chỉ có ở trong hai quẻ Kiền và Khôn. Văn Ngôn bình giải
Thoán và sáu Hào của hai quẻ Kiền và Khôn cho thêm rõ ràng, lý sự hơn.
8- Thuyết
Quái Truyện: Thuyết Quái cho biết mục đích của thánh nhân khi viết ra bộ
Kinh Dịch, đồng thời bàn về những ảnh hưởng mà 8 quẻ chính trong Kinh
Dịch có thể tượng trưng được.
9- Tự
Quái: Tự Quái bàn về thứ tự của 64 quẻ trong Kinh Dịch, như ta thường
thấy theo, trong mọi bộ Kinh Dịch.
Thượng
Kinh 30 quẻ, bắt đầu là Kiền, Khôn; kết cục là Khảm, Ly.
Hạ Kinh
bắt đầu bằng Hàm, Hằng; kết thúc bằng Ký Tế, Vị Tế; gồm 34 quẻ.
10- Tạp
Quái Truyện: bàn sơ về ý nghĩa của 64 quẻ, xếp thành 32 đôi, có ý nghĩa
thường là nghịch nhau.
Nếu khảo
cứu Kinh Dịch cho đúng đắn, ta sẽ thấy đó là một bộ sách triết học rất
cao siêu. Các đồ bản Dịch chính là những họa đồ phô bày ra cơ cấu của vũ
trụ, con người và vạn vật; cũng như các định luật tuần hoàn, thăng
giáng, vãng lai, tiến thoái, tiêu tức của nhị khí Âm Dương, của tinh
thần và vật chất.
Vi ý cổ
nhân khi viết Kinh Dịch, chính là muốn cho ta tìm cho ra căn để của con
người và vạn vật; gốc gác của vũ trụ; những định luật chi phối mọi sự
biến thiên của trời đất; cũng như viễn đích, cùng lý của quần sinh và
nhân loại.
Nhìn vào
các họa bản Dịch ta sẽ lĩnh hội được sự kiện vô cùng quan trọng này là:
Tạo hóa hay Thái Cực ẩn áo ngay trong lòng vạn hữu. Tạo Hóa và vạn hữu
không thể nào tách rời nhau ra được. Tạo Hóa và vạn hữu hợp lại thành
một đại thể, y như một cây vĩ đại có muôn cành lá, hoa quả, xum xuê.
Thái Cực hay Tạo Hóa là căn cốt. Vạn tượng, vạn hữu là những hiện tượng
biến thiên, chuyển dịch bên ngoài.
Suy ra,
nếu ta vượt qua những lớp lang biến ảo của hoàn cảnh, xác thân và tâm
hồn, ta sẽ tìm về được với Tạo Hóa, với Thái Cực ẩn áo nơi đáy lòng ta.
Thế là từ
ngọn suy ra gốc, từ biến thiên suy ra hằng cửu, từ các tầng lớp biến
thiên bên ngoài suy ra tâm điểm bất biến bên trong. Như vậy học Dịch là
để biết các lớp lang biến hóa chuyển dịch của vũ trụ và của lòng mình;
nhân đó sẽ suy ra được chiều hướng tiến thoái và trở về được với bản thể
duy nhất, tiềm ẩn nơi đáy lòng mình.
Khi tâm
thần, nhờ Dịch học, đã băng qua được các lớp lang biến ảo bên ngoài, trở
về được với căn nguyên bất biến, trở về được với khu nữu của trần hoàn
rồi, ta sẽ từ đó đi ngược lại, để tìm cho ra căn cơ, then chốt, cũng như
nhịp điệu, tiết tấu của mọi biến thiên, cốt là góp phần vào công cuộc
đại tạo của trời đất, tức là vào công cuộc tinh luyện vĩ đại, để đi đến
tinh hoa, toàn mỹ.
Nhờ bộ
Kinh Dịch mà xưa nay biết bao người đã trở về được với căn nguyên của
mình, với Trời với Thái Cực.
Ngụy Bá
Dương chân nhân đời nhà Hán, tác giả bộ Chu Dịch Tham Đồng Khế, một bộ
sách căn bản của đạo Thần tiên, đã đề tựa sách như sau:
Đạo thần
tiên, luyện đơn tu Đạo thực hết sức giản dị, chẳng qua là phối hợp với
Thái Cực (với Tạo Hóa mà thôi). Ông giải thích:
Tham là
tham dự cùng Thái Cực
Đồng là
hòa đồng cùng Thái Cực
Khế là
khế hợp với Thái Cực.
Thái
Uyên, một nho gia đời Tống, cho rằng: «Người quân tử học Dịch để tiến
tới thần minh.» (Quân tử học Dịch nhi chí ư thần dã. - Trùng biên Tống
Nguyên học án, quyển III, trang 678).
Tác giả
quyển Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết cho rằng: «Dịch là một phương pháp,
một con đường lớn lao giúp ta trở về với Trời, với Thượng Đế.» (Dịch chi
vi thư giáo nhân hồi thiên chi đại kinh, đại pháp dã. Sách trích dẫn,
trang 52).
Gần đây,
Văn Đạo Tử cũng chủ trương rằng học Dịch cốt là để tìm cho ra căn cốt,
tinh hoa của mình, tìm cho ra định mệnh sang cả của mình, tìm cho ra lẽ
phản bản quy nguyên, chứ không phải vụ chuyện bói toán, sấm vĩ. (Cf. Văn
Đạo Tử giảng Đạo tinh hoa lục, quyển 1, trang 9).
Nói như
vậy cốt là để ta biết tại sao đức Khổng ưa khảo Dịch, mê nghiên cứu Kinh
Dịch …
Căn cứ
Trung Dung, ta thấy đức Khổng sau khi đã khảo cứu sử sách, các thi văn
cổ thời, sau khi đã khảo sát niềm tín ngưỡng và đạo giáo thời xưa, liền
minh định được rằng: Trời chẳng có ở đâu xa, mà Trời đã ở ngay trong
lòng con người. Cho nên chân đạo, chân lý, cũng phải phát xuất từ đáy
lòng con người. Chân đạo, chân lý ấy, nếu đem so với đường lối của tiên
vương, sẽ không có chi là khác; nếu đem so với định luật của trời đất
cũng sẽ đúng như in, và nếu đem so với đạo của các hiền thánh ngàn đời
về sau, cũng vẫn y thức như vậy. Thế mới là chân đạo, chân lý.
Trung
Dung viết:
«Nên
đạo quân tử phát xuất tự thâm tâm.
Đem
trưng bày phổ cập tới thứ dân,
Khảo
chứng tiên vương, không có chi lầm lỗi.
Sánh
với luật đất trời không phản bội,
So quỉ
thần, thấy đường lối đúng không sai.
Thế là
đã biết lòng Trời đó,
Thánh
nhân ngàn đời sau chẳng có chê bai
Thế là
đã biết lòng người tỏ rõ.»
(Trung
Dung, XXIX)
Tóm lại
đức Khổng đã khảo sát thư tịch cổ nhân, triết lý cổ nhân, cốt là để tìm
ra:
1- Chân
đạo của các vị thánh vương, thánh triết xưa, mà ta thường thấy Kinh Thi,
Kinh Thư đề cập tới.
2- Nền
Thiên trị (Théocratie) Trung Hoa thời cổ, với hiến chương căn bản là
Hồng Phạm Cửu Trù.
3- Tinh
hoa triết học và siêu hình học cổ thời mà Kinh Dịch đã hàm tàng, dung
trữ.
4- Những
định luật tự nhiên, những nguyên tắc căn bản,những khuôn phép, những
đường lối lý tưởng, chi phối mọi sự biến dịch và mọi hoạt động cá nhân
và xã hội.
Cũng vì
Ngài chỉ lấy thực tại làm đối tượng; chân, thiện, mỹ làm mục phiêu, cho
nên đạo của Ngài, học thuật của Ngài sẽ trường tồn với thời gian …
Vả lại
Trung Dung cho rằng phàm những bậc thánh nhân đã đạt được tới mức độ
Phối Thiên, sẽ sống mãi cùng trời đất. Trung Dung viết:
«Nên
thanh danh ngài vang lừng Trung Quốc,
Vượt
biên cương lan tới các nước ngoài.
Đâu xe
có thể đi, người có thể tới lui,
Đâu có
được trời che và đất chở.
Đâu
còn nhật nguyệt hai vầng tở mở,
Đâu có
móc đọng đâu có sương rơi.
Đâu
còn có dòng máu nóng con người,
Ở nơi
đó ngài vẫn được tôn sùng quí báu.»
(Trung
Dung, 31)
Điều đó
không sai, vì Thánh Vịnh David cũng viết:
«Danh
người sẽ muôn đời sáng tỏ,
Cùng
vầng dương muôn thuở lâu lai.
Muôn
dân diễm phúc nhờ người,
Phúc
người truyền tụng muôn đời dài lâu.»
(Thánh
Vịnh David, 72, 17)
Sách Minh
Triết viết:
«Nhờ
minh triết tiếng ta vang dậy,
Trẻ
như ta, già thảy kính tôn,
Ngồi
tòa, thiên hạ khen khôn,
Gặp
ta, vương tướng cũng còn ngạc nhiên.
Ta nín
lặng, người thêm mong đợi,
Ta nói
năng, người vội lắng nghe.
Lời ta
nhả ngọc phun huê,
Làm
cho thiên hạ say mê nghe hoài.
Nhờ
minh triết muôn đời trường thọ,
Ta lưu
danh vạn cổ hậu lai,
Muôn
dân ta quản, ta coi,
Muôn
dân, muôn nước, trong ngoài phục ta.»
(Minh
Triết, 8, 10, 14)
Vả lại,
đức Khổng vừa rất cổ vừa rất kim, là vì Ngài đã đi vào được tới lương
tâm con người, mà lương tâm thời không có cổ kim, không có mầu da, sắc
áo, không có biên cương, bờ cõi.
Ngày nay
chúng ta sở dĩ không hiểu nổi cổ, không theo kịp kim, là vì con đường
nội tâm chúng ta đã bị lau lách dục vọng làm cho bế tắc.
Mạnh Tử
nói với Cáo Tử: «Trong núi, nếu người ta vạch một lối mà đi, lại thường
thường, thì lối ấy thành ra một cái lộ. Rồi nếu trong một thời gian
người ta chẳng dùng cái lộ ấy, thì cỏ lau sẽ làm cho nó bế tắc. Hiện nay
lòng dạ ngươi đã bị cỏ lau bế tắc mất rồi.» (MT, Tận Tâm, hạ, 21).
Chính vì
đã đi được vào lương tâm, vào tâm linh con người, chính vì chuyên khảo
về những định luật, những nguyên lý tự nhiên, những nguyên tắc lý tưởng,
chi phôi đời sống con người, cũng như sự biến dịch của hoàn vũ, nên đức
Khổng chẳng hề có lỗi thời. Ngày nay, học về đạo Khổng ta thấy nó luôn
luôn gần gũi với ta, vì nó không phải là một thứ kiến trúc tinh thần,
văn học xa xưa, mà nó chỉ là phản ảnh của chân đạo, chân lý của tâm thần
ta, phản ảnh cuộc biến dịch tuần hoàn trong vũ trụ.
Trong bức
thư đề ngày 6- 9- 69, đăng tải trong báo Minh Tân nguyệt san, số 1, bộ
mới, cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền có những nhận xét hết sức tinh tế về
Khổng giáo như sau:
«Đành
rằng trong hiện tại Khổng giáo không còn mấy người theo học. Nhưng đó là
Khổng giáo hình thức. Cái khẩn thiết cho tất cả người Việt chúng ta là
phần tinh thần của Khổng giáo, thứ Khổng giáo đại đồng bàng bạc khắp
không gian, thời gian, từ những trang sử xưa, dòng sách cổ, đến những
đền đài, miếu mạo, đến tập tục, ngôn ngữ, tín ngưỡng, nếp sống hằng ngày
của dân tộc ta.
«Ẩn tàng
trong mọi người, tinh thần ấy là một trong những yếu tố của cái nay ta
gọi là dân tộc tính, là hồn nước. Làm sống dậy tinh thần ấy, là làm sống
lại hồn nước, đồng thời làm thức tỉnh thiên lương.
«Đạo
Khổng lấy”cách vật trí tri, thành ý, chính tâm” làm phương tiện,
lấy”minh minh đức” tức hoàn thiện nhân cách, làm cứu cánh. Thế là Khổng
học đã đặt cá nhân làm đơn vị cho xã hội. Muốn xã hội tốt, cá nhân cần
phải được tinh luyện đến chí thanh chí chánh, bởi lẽ ý thành, tâm chánh
thì đạo chứng đến chỗ chí Thiện, chí Chân - tôi muốn nói chung đến chân
lý tối hậu của vũ trụ và nhân sinh, đến uyên nguyên của cuộc sống…»
Ngày nay,
ta thấy ở ít nhiều nước Á Châu, ví dụ như ở Trung Hoa lục địa, người ta
đã cố vùi lấp cái dĩ vãng đầy tràn ảnh hưởng Khổng giáo để theo chủ
nghĩa Các Mác. Nhưng lạ lùng thay, gần đây ông tổ cách mạng Trung Hoa là
mao Trạch Đông, đã có lần trích dẫn Luận Ngữ để tự hỏi rằng có phải vì
ông đã phạm lỗi lầm, mà Trời đã bắt ông phải tuyệt tự, đã để cho một con
ông bị chết, một con ông bị điên không?
Vả, nếu
có những nước Á Châu muốn giã biệt Khổng Tử, thì Khổng Tử đã và đang
được tiếp đón bên Tây phương.
Năm 1593,
linh mục Matteo Ricci đã dịch Tứ Thư ra La ngữ.
Năm 1626,
N. Trigault đã dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh sang La ngữ.
Gần đây
ta có những bản dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh rất có giá trị như:
- Bản
dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh của James Legge bằng Anh văn.
- Bản
dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh của Linh mục Seraphin Couvreur bằng hai thứ tiếng
Pháp và la.
- Bản
dịch Kinh Dịch ra tiếng Pháp của Philastre.
- Bản
dịch Kinh Dịch ra tiếng Đức của Richard Wilhelm. Sau này bản dịch ấy lại
được dịch ra Anh văn, v.v…
Và kỳ lạ
thay, chính nhờ những bản dịch công phu ấy của Âu Châu mà ta đã hiểu
Khổng giáo một cách dễ dàng hơn trước nhiều.
Nhà triết
học Carl Jung đã viết lời dí dỏm như sau: «Chúng ta đã chinh phục được Á
Đông, nhưng tinh thần Á Đông đã thâm nhập vào mọi khí khổng và đã đạt
tới những nhược địa của Âu Châu. Có thể gọi đó là một bệnh truyền nhiễm
mà cũng có thể coi đó là một phương dược.»
Để chứng
minh đức Khổng vẫn còn rất là tân tiến, rất là hợp thời, dưới đây chỉ
xin trưng ra ít nhiều bằng chứng:
1- Như
trên đã nói, đức Khổng chủ trương chân đạo phát xuất tự chân tâm, và
Trời chẳng có ở đâu xa, Trời đã ở ngay trong đáy lòng con người.
Thì mới
đây trong số báo Time ra ngày 26- 12- 1969 với chủ đề là «Thượng Đế có
đang sống lại không?» (Thượng Đế có đang trở lại cuộc đời ta không?) và
với phụ đề «Những khoa thần học biến thể cho một thế giới biến thể», ta
thấy có đoạn rất là kỳ thú sau đây với tiểu đề là «Sự du hành nội tâm».
Trong đề
mục này, bà Jean Houston, một triết gia kiêm tâm lý học gia, giám đốc
viện khảo cứu về tâm linh ở Mỹ, tin rằng những cuộc thí nghiệm gần đây
về nội giác bằng những phương pháp tâm lý học, hay bằng những dược liệu,
đã đưa đến sự phát sinh ra một nền thần học chứng nghiệm. Theo bà
Houston, thì tâm hồn con người có một điểm tiếp xúc được với đại thể,
một đại thể đã được chứng nghiệm là thần linh.
Trong các
phòng thí nghiệm, ngày nay người ta đã cải thiện được các phương pháp
các dòng tu xưa đã dùng, nên con người ngày nay, càng ngày càng tiếp xúc
được với sự linh thiêng nội tại ấy. Bà Houston cho rằng khoa thần học
rồi đâysẽ bị chi phối, hướng dẫn bởi những cuộc du hành nội tâm, bằng
phương cách này hay bằng phương cách khác.
Như vậy
tức là con người đời nay đang chập chững đi vào nội tâm để tìm Trời, tìm
thần linh, một công chuyện mà đức Khổng cũng như các hiền thánh xa xưa
đã làm từ mấy nghìn năm nay. Hệ Từ Thượng, nơi chương XI, có nói: «Thánh
nhân dĩ thử tâm thoái tàng ư mật» chính là muốn dạy con người đi vào
trong tâm, thanh lọc tâm thần để tìm cho ra Trời tiềm ẩn trong lòng mình
vậy.
2- Từ
ngàn xưa đức Khổng đã nói: «Thiên hạ lo gì, nghĩ gì? Đường đi khác nhau,
nhưng mục đích là một, tư lự trăm chiều mà chân lý không hai» (Thiên hạ
hà tư hà lự? thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất tri nhi bách lự. Thiên
hạ hà tư hà lự?) (Dịch, Hệ Từ Hạ); thì ngày nay sau mấy nghìn năm thù
ghét nhau, hãm hại nhau, giết lát, chém giết nhau vì bất đồng tín
ngưỡng, con người gần đây đã tỏ ra thông cảm, hiểu biết nhau hơn, và ta
đã thấy những phong trào hòa đồng tôn giáo, với mục đích là tìm hiểu lẫn
nhau, kính trọng lẫn nhau, đối thoại với nhau, hay ít ra là thân thiện
với nhau hơn.
3- Ấy là
chưa kể đến «Đại đồng thuyết» của Khổng Tử: «Thiên hạ là một nhà, bốn
biển đều là anh em», mà còn lâu lắm con người mới có thể thực hiện được.
Như vậy,
chẳng phải đức Khổng là con người vừa rất cũ vừa rất mới là gì?
CHÚ THÍCH
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
|