CHÂN DUNG KHỔNG TỬ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
Chương 13
Đức Khổng, một
thi sĩ
Người ta thường hình dung đức Khổng như là
một vị thánh nhân đạo mạo, khắc khổ, nhưng khảo sát kỹ đời sống Ngài, ta
thấy Ngài thật là một con người có tâm hồn thi sĩ.
Ngài không để lại một bài thơ nào do Ngài
sáng tác, nhưng Ngài thật là một con người yêu thơ.
Ngài chẳng những san định lại Kinh Thi mà
còn phổ Kinh Thi vào nhạc.
Tư Mã Thiên viết: «Đức Khổng đem ba trăm
lẻ năm thiên Kinh Thi ra mà đàn ca cho hợp với âm thanh của Thiều, Vũ,
Nhã, Tụng.»
Khổng Tử Thế Gia còn chép: «Ngày xưa Thi
có hơn ba ngàn thiên, Khổng Tử san khứ phần trùng phức, chỉ lấy những
thiên hợp với lễ nghĩa, trước nhặt các bài từ đời Tiết, Hậu Tắc, đến các
bài thuật sự hưng thịnh đời Ân, Chu, sau là các bài nói về sự khuyết
điểm của U Vương và Lệ Vương, gồm có 305 thiên.»
Có điều này lạ lùng là đức Khổng yêu thơ
nhất là lúc Ngài trở về già. Tuy cuộc đời phiêu lưu tranh đấu cho đạo lý
của Ngài đã không mang lại thắng lợi nhãn tiền cho Ngài, nhưng Ngài
chẳng vì thế mà trở nên yếm thế. Càng già, Ngài càng trở nên hồn nhiên,
yêu đời, yêu vẻ đẹp thiên nhiên.
Ngài khen Tăng Tích, vì Tăng Tích đã sống
tiêu sái hồn nhiên, muốn cùng ít nhiều bạn trẻ, vào những ngày cuối xuân
ấm áp, tắm mát ở sông Nghi, hóng gió ở đàn Vũ Vu; rồi trên đường về,
cùng nhau ca vịnh cho vui. (LN, XI, 25)
Thế tức là đức Khổng cũng chủ trương:
«Đành vũ trụ ấy ngô nhân phận sự,
Cũng tiêu dao cho tuế nguyệt thêm
trường.
Vân thương thương hề thủy thương
thương,
Phong quang ấy người sao nỡ phụ!»
(Nguyễn Công Trứ, Kiếp Nhân Sinh)
Ngài bắt đầu san định Kinh Thi, khi Ngài
trở về Lỗ. Lúc ấy Ngài đã 68 tuổi. Ngài nói: «Sau khi ta từ Vệ trở về
Lỗ, ta chỉnh đốn Kinh Nhạc, và san định lại Nhã, Tụng (Kinh Thi)» (LN,
IX, 14).
Trong khi giảng dạy học trò, Ngài thường
nói đến kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ (LN, VII, 17). Ngài cũng đã nhiều
lần trích dẫn cổ thi (LN, IX, 29) hoặc kinh Thi để giảng dạy (ĐH III; TD
XIII, XV, XVI, v.v…)
Ngài đặc biệt khuyến khích con mình là Bá
Ngư nên học Kinh Thi (LN, XVI, 13), nhất là hai thiên Chu Nam và Thiệu
Nam (LN, XVII, 10).
Ngài cũng dạy đệ tử phải học Kinh Thi để:
- Gây niềm hứng khởi cho mình.
- Cảm thông hòa hợp với người.
- Biết oán ghét những gì dở dang chếch
mác.
- Biết hiếu.
- Biết trung.
- Trau giồi thêm kiến thức (biết thêm các
tên thảo, mộc, điểu, thú, ngư, cầm) (LN, XVII, 9).
Ngài chủ trương:
- Học Kinh Thi để lòng thêm hứng khởi vui
sống.
- Học Kinh Lễ để biết tuân theo định luật
tự nhiên mà ở ăn.
- Học Nhạc để cho con người trở nên vẹn
hảo, hòa hợp được với nhân quần, với vũ trụ (LN, XII, 9).
Ngài cho rằng học Kinh Thi cho phải, sẽ
làm cho lòng mình trở nên xởi lởi, hồn nhiên, cởi mở, không còn nghĩ
ngợi lăng nhăng tà vạy. (LN, II, 2).
Nhờ ảnh hưởng của Ngài mà thơ cũng như thi
nhân sau này có một địa vị quan trọng trong nền văn học Đông Á. Các Nho
gia cự phách sau này, như Chu Liêm Khê, Nhị Trình (Trình Di, Trình Hạo),
Chu Hi, Vương Dương Minh ở Trung Hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công
Trứ, Yên Đổ, Nguyễn Du, v.v… ở Việt Nam, sau một thời gian xuất chính,
tích cực xây dựng cho non sông đất nước, đều trở về với thú điền viên,
ngâm phong, lộng nguyệt, khiến cho lòng hồn nhiên, phơi phới như Tăng
Tích xưa cùng bè bạn trên bờ sông Nghi, hoặc trên đàn Vũ Vu (LN, XI, 25.
- Khổng Học Đăng II, trang 685: Ngâm phong lộng nguyệt dĩ qui hữu ngô dữ
Điểm dã chi ý.)
Đức Khổng với Kinh Thi
Đức Khổng khuyên ta nên đọc Kinh Thi. Vậy
trong chương này, ta sẽ nghiên cứu Kinh Thi một cách khái quát, với mục
đích tìm hiểu tâm hồn thi nhân muôn thuở, qua những hình thức thi ca, và
nhân đó hiểu thêm về tâm hồn đức Khổng. Kinh Thi lúc này đối với ta sẽ
là phương tiện gián tiếp để «phân tâm», để đi sâu vào tâm tư đức Khổng,
để tìm thêm những nét đặc thù, tô điểm cho bức chân dung Ngài càng ngày
càng trở nên linh động, chính xác.
Bộ Kinh Thi với 305 bài thơ mà đức Khổng
đã san định là cả một cuộc triển lãm sống động về nhân tình thế thái, về
lòng tin tưởng, về đạo đức của người xưa.
Kinh Thi chia làm ba phần:
1. Quốc Phong (160
thiên)
Gồm các bài ca dao của 15 nước: Chu Nam,
Thiệu Nam, Bội, Dung, Vệ, Vương, Trịnh, Tề, Ngụy, Đường, Trần, tần, Cối,
Tào, Bân. Các nước này đều ở về phía bắc nước Trung Hoa.
Ta có bản địa đồ sơ lược sau đây:
(Phỏng theo Cursus
litteraturæ sinicæ của Zottoli, volumen tertium.)
2. Nhã (105 thiên)
Gồm những bài hát ở nơi triều đình, miếu
mạo. Nhã chia làm:
a. Tiểu Nhã (74 thiên) gồm những bài thơ
dùng trong những trường hợp không quan trọng, như yến tiệc.
b. Đại Nhã (31 thiên) gồm những bài thơ
dùng trong những trường hợp quan trọng, như khi thiên tử họp vua chư
hầu, hoặc tế ở miếu đường.
3. Tụng (40 thiên)
Gồm những bài ca tụng các đời vua trước và
dùng để hát múa nơi miếu đường.
Tụng gồm có:
- Chu Tụng, 31 thiên
- Lỗ Tụng, 4 thiên
- Thương Tụng, 5 thiên.
Kinh Thi cũng như các sách Nho khác, đã
gặp nạn «phần thư» (đốt sách) đời Tần.
Đến đời Hán, có 4 bản Kinh Thi xuất hiện:
- Lỗ Thi của Thân Bồi.
- Tề Thi của Viên Cố Sinh.
- Hàn Thi của Hàn Anh.
- Mao Thi của Mao Hanh và Mao Trường.
Nay chỉ còn truyền tụng lại bản Mao Thi.
NỘI DUNG KINH THI
Đọc Kinh Thi ta thấy như cả một dân tộc xa
xưa đang sống dưới những vần thơ linh động.
Đọc Kinh Thi ta thấy hiện ra trước mắt:
- Niềm tín ngưỡng sâu xa của người xưa về
Thượng Đế.
- Nguyện ước sâu xa của thánh hiền thiên
cổ là sống phối kết với Thượng Đế (Ân chi vị táng sư khắc phối Thượng
Đế) (Đại Nhã, Văn Vương) (Xem thêm Đại Nhã, Bản, và Hoàng Hĩ).
Đọc Kinh Thi ta thấy phơi bày ra mọi hạng
người hay, dở trong xã hội, đại loại:
- Con thảo, dâu hiền (Chu Nam, Cát Đàm. -
Đường Phong, Bảo Vũ).
- Những anh em vẹn tình cốt nhục (Bội
Phong, Nhị tử thừa chu).
- Những cặp vợ chồng keo sơn gắn bó (Chu
Nam, Quan Quan. - Chu Nam, Quyền NHĩ. - Chu Nam, Nhữ Phần. - Thiệu Nam,
Thảo Trùng; Ẩn kỳ lôi; hà bỉ nùng hĩ, v.v…)
- Những bậc lãnh đạo anh minh một lòng vì
dân, vì nước (Đại Nhã, Văn Vương, Hạn Lộc; Tư Trai; Sinh Dân, v.v…)
Nhưng ngược lai ta cũng thấy:
- Những vị vua chua hoang dâm (Trần Phong,
Tru Lâm), bất tài, bất lực (Đại Nhã, Chiêm Ngưỡng; Thiệu Mân; Uất Liễu.)
- Những vị quan tham nhũng (Tào Phong, Hậu
Nhân. - Ngụy Phong, Thạc Thử. - Đường Phong, Cao Cầu.)
- Những đàn bà dâm loạn (Tề Phong, Tề Cẩu;
Tái Khu, v.v…)
- Những bà mẹ bỏ con để đi tái giá (Bội
Phong, Khải Phong.)
- Những cặp nhân tình hẹn hò (Trần Phong,
Đông môn chi dương); ngõ liễu hoa tường (Tề Phong, Đông phương chi nhật.
- Trịnh Phong, Thương Trọng Tử.)
Kinh Thi phơi bày ra mọi hoạt cảnh của xã
hội. Ta thấy:
- Những cảnh trai thanh, gái lịch, rộn rực
yêu đương, đem trăng, sao, hoa, lá, đem cảnh vật, điểm tô cho tình
thương, nỗi nhớ; mượn vật, mượn cảnh để nói lên nỗi niềm tha thiết yêu
đương, tương tư, sầu bi, khắc khoải, nhớ mong. (Xem Chu Nam, Thư Cưu. -
Bội Phong, Tình Nữ. - Dung Phong, Tang Trung. - Trịng Phong, Xuất kỳ
Đông môn; Tử Khâm; Phong Vũ; Đông Môn; Phong; Tuân đại lộ. - Vương
Phong, Thái Cát. - Dung Phong, Đế Đống, v.v…)
- Những cảnh vui xuân hồn nhiên giữa gái
trai trên những dòng sông xuân, lồng vẻ xuân tươi thắm. (Trịnh Phong,
Trăn dữ Vĩ)
- Những cảnh nợ nước tình nhà rối ren, khó
gỡ. Bận lo toan việc vua chúa, thời lại bỏ mất bổn phận săn sóc gia
đình; thương cha xót mẹ không người định tỉnh thần hôn. (Tiểu Nhã, Tứ
Mẫu. - Đường Phong, Bảo Vũ)
- Những cảnh trị dân bê tha, bạo tàn, tham
nhũng, làm cho dân sống lắt lay, cơ cực (Ngụy Phong, Thạc Thử. - Tần
Phong, Hoàng Điểu. - Tiểu Nhã, Vũ vô chính; Thập nguyệt chi giao; Tiểu
Mân; Bắc Sơn; Cổ Chung, v.v…)
- Những cảnh chinh chiến phân ly, những
cảnh chiến xa, chiến mã đưa người chinh phu ra nơi quan ải, làm cho lòng
người khuê phụ ở nhà sầu thương man mác (Tần Phong, Tiểu Nhung. - Đường
Phong, Cát Sinh, v.v…)
- Những cảnh quân sĩ, viễn chinh lâu ngày,
hồi hương; trên đường về mường tưởng như nhà cũ, vườn xưa đã trở nên xác
xơ, hoang vắng, mặc cho nhện giăng tơ, bầu thòng quả, hươu chạy, đóm bay
(Bân Phong, Ngã tồ Đông sơn….
Nghệ thuật diễn tả
trong Kinh Thi
Đối với một người có tâm hồn mộc mạc, hồn
nhiên, biết rung động trước cảnh sắc thiên nhiên, thì cái gì cũng trở
nên nguồn thơ sóng nhạc; cái gì cũng có thể mượn được để làm đề tài ngâm
vịnh.
Tiếng gà eo óc lúc bình minh (Trịnh Phong,
PhongVũ), tiếng chim gù ghì ngoài bãi vắng (Chu Nam, Quan Quan), tiếng
oanh lo líu trên cành (Bân Phong, Tất Nguyệt), đôi cánh phù du trước gió
(Tào Phong, Phù Du), con nhện giăng tơ, quả bầu lủng lẳng (Bân Phong,
Đông Sơn), thậm chí đến mưa sa tuyết rơi (Trịnh Phong, PhongVũ), gió gào
(Trịnh Phong, PhongVũ), sấm động (Thiệu Nam, Ẩn kỳ lôi), nhất nhất cái
gì cũng trở nên trào thơ, nguồn hứng; cái gì cũng có thể dùng để điểm
tô, để gửi gấm, để đưa đà cho một mối tâm tình, một bầu tâm sự, một ước
mơ hay một khát vọng.
Nghệ thuật của thi nhân là làm cho tất cả
tâm tình, tất cả cảnh vật trở nên rạo rực, trở nên sống động rạt rào
bằng những âm vận, bằng những cảnh sắc, bằng những nhịp điệu.
Lời thơ đọc lên có âm có vận, lúc chậm lúc
nhanh, lúc vắn lúc dài, biến ảo linh động, rộn rã âm thanh, chứa chan
tình tứ, rực rỡ sắc màu.
Thơ tuy có thiên có chương có cú, nhưng
không trang nào giống trang nào.
Các câu thơ dài vắn thường khi không đều;
vắn thời ba chữ, dài thời chín, mười chữ không chừng, theo nhau tùy
điệu, tùy hứng. Đọc lời thơ, ta thấy thần thơ, tứ thơ rạt rào, cuồn cuộn
bên trong, lôi cuốn âm thanh và từ ngữ theo hứng lòng, theo nhịp khoái
cảm, chứ không gò gập theo một khuôn khổ nhất định nào.
Vần thơ có yêu vận, cước vận; những chữ
«chi», chữ «hề» thường được dùng để cho bài thơ có một âm điệu, một
duyên dáng huyền kỳ. (Ngụy Phong, Phạt Đàn. - Chu Nam, Sâm si hạnh
thái).
Thơ làm theo nhiều lối:
- Nói ngay, nói thẳng (Phú)
- Nói quanh co, mượn cảnh vật làm nhịp cầu
để vào đề (Hứng).
- Nói bóng, nói gió, nói xa, nói gần (Tỉ)
Một nghệ thuật hành văn đặc biệt của Kinh
Thi là cách khai thác triệt để song ngữ, điệp ngữ để tả tình, tả cảnh.
Kinh Thi dùng điệp ngữ để bắt chước tiếng
chim véo von (anh anh), tiếng gà eo óc (giê giê, kiêu kiêu) (Trịnh
Phong, Phong Vũ), tiếng búa choang choang (khảm khảm) (Phạt Đàn); để
diễn tả sắc màu mơn mởn của đào tơ, liễu yếu (Đào chi yêu yêu, kỳ diệp
tần tần); mô tả những nỗi băn khoăn, khắc khoải của tâm tư (thảm thảm,
đát đát, chuyết chuyết; túc túc, đao đao, v.v…)
Kinh Thi còn áp dụng lối thơ điệp khúc,
lối diễn xuất tiệm tăng, tiệm tiến, thêu đi, dệt lại một hoạt cảnh. Mỗi
chương thơ mới lại y như một bộ mặt cũ hóa trang cho mới mẻ thêm ít
nhiều; lại y như một đợt sóng mới của ngọn nước triều dâng: đợt sóng này
tiếp đợt sóng kia, tràn vào bờ, tuy có giống nhau, nhưng mà vẫn có khác
nhau.
Kinh Thi dùng lời thơ mà mô tả vạn sự: Tả
cảnh, tả tình. Mọi khía cạnh của đời sống con người lần lượt hiện lên,
tân kỳ, biến ảo, như những ảnh tượng trong ống kính vạn hoa.
Trong Kinh Thi chữ hán cũng biến chuyển
khôn cùng: nhiều chữ không còn đọc theo nguyên âm nữa, mà phải đọc trại
đi cho hợp vần, hợp giọng. Nếu ta cứ đọc đúng theo mặt chữ thì không còn
ra âm điệu gì nữa…
Như vậy muốn thưởng thức Kinh Thi, ta phải
như người chơi hoa, chơi cảnh, phải có thời giờ mà thưởng thức mới thấy
được hết cái hay.
Một vài bài thơ trong
Kinh Thi
Muốn thưởng thức Kinh Thi dĩ nhiên là phải
đọc chính văn, chính bản. Nhưng nếu chúng ta đi ngay vào chính văn,
chính bản, thì e thế nào lúc mới, cũng chập chững, ngỡ ngàng. Chi bằng
chúng ta hãy cùng nhau thưởng thức Kinh Thi qua ít nhiều bản dịch.
Dưới đây là một vài vần thơ dịch:
1. Thạc nhân (Vệ Phong)
Tay ai như cái gianh non,
Da như mỡ đọng! cổ như con nhạy dài!
Hạt bầu như thể răng ai!
Đầu trăn! Mà lại mày ngài thêm xinh!
Hai con mắt tốt long lanh!
Miện cười tươi đẹp, khéo sinh tình,
càng ưa…
(Kinh Thi, Tản Đà, tr. 175)
2. Hữu nữ đồng xa
(Trịnh Phong)
Chung xe chàng có cô em gái,
Mặt như hoa, xinh hỡi là xinh.
Dáng nàng uyển chuyển hữu tình,
Hoa cài ngọc dắt, rung rinh bên người.
Nàng Khương xuân sắc xinh tươi,
Trên đời hồ dễ mấy ai như nàng.
*
Đi cùng chàng có cô em gái,
Mặt như hoa, phơi phới tươi xinh.
Dáng nàng uyển chuyển hữu tình,
Hoa kia ngọc nọ, rung rinh rộn ràng.
Đẹp thay cô gái Mạnh Khương,
Nết na đức hạnh chi nhường cho ai.
(Bản dịch Nguyễn Văn Thọ)
3. Xuất kỳ Đông môn
(Trịnh Phong)
Vui chân ra phía cửa đông,
Gái đâu óng ả mơ màng như mây.
Gái đâu uyển chuyển mây bay,
Dẫu như mây đẹp ta đây chẳng màng.
Vợ ta áo trắng khăn lam,
Khăn lam áo trắng vẫn làm ta vui.
*
Vui chân ra phía địch lâu,
Mặt hoa da phấn gái đâu thế này.
Mặt hoa ta cũng chẳng say,
Vợ ta mộc mạc, ta đây vừa lòng.
(Bản dịch của tác giả)
4. Khiên thường (Trịnh
Phong)
Anh nhớ em, vén xiêm em lội,
Qua sông Trăn em vội em sang.
Như anh chẳng khứng ngó ngàng,
Trên đời khối kẻ hoàn toàn hơn anh !
Sao anh vẫn thói trẻ ranh?
(Bản dịch của tác giả)
5. Trăn dữ Vĩ (Trịnh Phong)
Con sông Trăn với con sông Vĩ,
Nước trong veo, lồng vẻ xuân tươi.
Trai thanh gái lịch đua chơi,
Từng đoàn lũ lượt, tươi cười thênh
thang.
Nàng ướm hỏi: Anh sang xem thử,
Chàng vội thưa: Xem đủ lắm rồi.
Nàng rằng sang nữa mà coi,
Bên kia sông Vĩ có nơi rỡn đùa.
Gái sang, trai cũng đua sang với,
Gái cùng trai thỏa mãn vui đùa.
Đem hoa thược dược tặng cho,
Đem hoa thược dược hẹn hò cùng nhau.
*
Con sông Trăn với con sông Vĩ,
Nước mênh mông lồng vẻ xinh tươi.
Trai thanh gái lịch đua chơi,
Hoa lan mấy đóa kẻ cài người mang.
Nàng ướm hỏi: Anh sang xem thử,
Chàng vội thưa: Xem đủ lắm rồi.
Nàng rằng sang nữa mà coi,
Bên kia sông Vĩ có nơi rỡn đùa.
Đem hoa thược dược tặng cho,
Đem hoa thược dược hẹn hò cùng nhau.
(Bản dịch Nguyễn Văn Thọ)
6. Tiểu nhung (Tần
Phong)
Chiến xa chàng nhỏ lại xinh,
Đần xe sóng lượn năm vành da bao.
Đai trơn lồng xấp cương đào,
Vàng tô khoen trắng, lẫn vào hàm xe.
Trục dài, xe trải hổ bì,
Ngựa Kỳ, ngựa Chức, lông khoe sắc mầu.
Chinh phu nhớ tới thêm sầu,
Chinh phu mỹ mạo ta đâu bây giờ?
Chàng thời ván liếp thô sơ,
Em thời thương nhớ tơ vò niềm tây.
Xe chàng bốn ngựa phây phây,
Sáu dây cương ngựa một tay chàng dòng.
Kỳ, Lưu, hai ngựa bên trong,
Qua, Ly, hai ngựa song song bên ngoài.
Thuẫn rồng đã ghép thành đôi,
Vòng khoen dây thắng chưa phôi ánh
vàng.
Nhớ chàng dạ những bàng hoàng,
Nhớ ai mỹ mạo bạt ngàn thành xa.
Khi nào chàng trở lại nhà?
Nhớ chàng thắm thiết biết là mấy mươi!
*
Ngựa chàng giáp thắng hẳn hoi,
Cầu mâu ba chẽ sáng ngời vàng tô.
Khiên chàng lông vẽ nên hoa,
Bao cung da hổ bạc tra phía ngoài.
Trong bao cung chập một đôi,
Lồng trong kẹp trúc, cánh gài sẵn dây.
Nhớ chàng lòng dạ khôn khuây,
Nhớ đêm khi ngủ, nhớ ngày khi chong.
Nhớ ai đi mấy thong dong,
Nết na thuần cẩn, tiếng lừng gần xa.
(Bản dịch của tác giả)
7. Nguyệt xuất (Trần
Phong)
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Người đâu nhan sắc rạng ngời ánh hoa.
Sầu vương ai gỡ cho ra,
Nỗi lòng khắc khoải bao giờ mới khuây.
*
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Người đâu ngọc nói hoa cười trớ trêu.
Nỗi buồn càng dập càng khêu,
Tình thương nỗi nhớ trăm chiều vò tơ.
*
Vầng trăng sáng quắc đều trời,
Người đâu rực rỡ rạng ngời ánh hoa.
Sầu này ai gỡ cho ra,
Trăm thương nghìn nhớ, lòng ta tơ vò.
(Bản dịch của tác giả)
8. Đông sơn (Bân Phong)
Đông sơn từ buổi chinh yên,
Ngày qua tháng lại triền miên chẳng về.
Ngày ta nhẹ bước hồi quy,
Mưa bay lất phất lâm li mấy hồi.
Ngàn đông từ dáng quân lui,
Sầu dâng lòng thét, non đoài nhớ quê.
Y thường đã sẵn mọi bề,
Rồi đây hết chuyện đi về ngậm tăm.
Sâu dâu lổn nhổn nó nằm
Ngàn dâu bát ngát lăng xăng nó bò.
Canh khuya chiếc bóng co ro,
Canh khuya hồn mộng thẫn thờ bên xe.
*
Đông sơn từ buổi chinh yên,
Tháng ngày đằng đẵng, triền miên khó
về.
Ngày ta nhẹ bước hồi quy,
Mưa bay lất phất lâm li mấy hồi.
Bầu kia chắc đã sinh sôi,
Quả thòng, lủng lẳng lôi thôi đầu nhà.
Bọ mát chắc khắp buồng ta,
Nhện kia trước cửa chắc đà giăng tơ.
Vườn ta hươu chắc nhởn nhơ,
Lập lòe đom đóm nó đùa nó bay.
Nghĩ càng sợ hãi lắm thay,
Nỗi lòng canh cánh, niềm tây thẫn thờ.
*
Đông sơn từ buổi chinh yên,
Tháng ngày đằng đẵng, triền miên chẳng
về.
Những từ trở ngọn chinh kỳ
Mưa bay lất phất lâm li mấy hồi.
Cò trên tổ kiến kêu chơi,
Phòng khuê chinh phụ bồi hồi thở than.
Cửa nhà kìa đã sửa sang,
Ta nay phút đã lai hoàn nhà ta.
Khổ qua cành lật la đà,
Kể từ xa cách tính vừa ba năm.
*
Ta từ nhẹ bước chinh yên,
Tháng ngày đằng đẵng, triền miên chẳng
về.
Những từ trở bóng chinh kỳ,
Mưa bay lất phất lâm li mấy hồi.
Con oanh bay lượn rong chơi,
Lấp loa lấp loáng như phơi cánh vàng.
Vu quy óng ả mấy nàng,
Ngựa vàng ngựa đỏ đàng hoàng đón đưa.
Ân cần mẹ thắt khăn tua,
Chín mười thôi thế đã vừa tiện nghi.
Tình nay nếu đáng chuốc vì,
Duyên xưa thắm thiết nói chi cho cùng.
(Bản dịch của tác giả)
Ích lợi của Kinh Thi
Đọc Kinh Thi chúng ta thấy dân Trung Hoa
xưa đã biết sống một đời sống thuần phác, hòa mình với thiên nhiên và
cảnh sắc. Tuy họ cần cù lao tác suốt tháng suốt năm, nhưng vẫn biết sống
hồn nhiên rạt rào nhựa sống, vẫn biết thương yêu tha thiết, gửi gấm cho
người mình yêu những gì cao quí nhất của tâm hồn, đem cảnh sắc, trời
mây, hoa lá mà cài lên, tô điểm cho tình ái, tâm tư…
Cái lối sống thơ mộng hồn nhiên ấy đã biến
cái thế giới thô sơ, mộc mạc của thời xưa thành một khung cảnh đẹp đẽ,
làm cho cuộc đời vơi bớt đi vẻ trần ai tục lụy…
Đức Khổng khuyên ta đọc Kinh Thi, muốn cho
chúng ta yêu thơ, là muốn chúng ta đem thi hứng vào tâm hồn, làm cho
chúng ta nên hồn nhiên sống động, vui tươi, xởi lởi, chấp nhận những cái
éo le dang dở của cuộc đời, nhưng vẫn tích cực sửa sang cho hết những
chếch mác, dở dang ấy, hoặc bằng những hoạt động tích cực trực tiếp,
hoặc bằng những lời bao biếm, bóng gió, chỉ trích, phê bình…
Khi chúng ta đã biết yêu thơ, khi chúng ta
đã có hồn thơ, chúng ta sẽ nhìn thấy những vẻ đẹp lung linh của trời
đất, của trăng sao, của cành đào ngà nghiêng trước gió, của vì sao mai
lấp lánh lúc bình minh, chúng ta sẽ nghe thấy tiếng rạo rực của tâm tư,
tiếng xuyến xao của muôn vật, và nhờ đó chúng ta sẽ sống một đời sống
đẹp đẽ hơn, duyên dáng hơn.
Tóm lại,
đức Khổng đã sống một cuộc đời hào hứng, thơ mộng, và Ngài đã khuyên ta
học Kinh Thi, để cũng có được một đời sống đẹp đẽ thơ mộng như Ngài.
«Hưng ư thi» là như thế vậy…
CHÚ THÍCH
Mục
lục | Phi lộ | chương
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
Đính chính gia phả đức Khổng | Phụ
lục | Sách tham khảo
|