DỊCH KINH YẾU CHỈ
Hướng đi của Thánh
nhân
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến
Lê
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3
4 5
6 7
8 9
| chương 1
2 3
4 5
6 7
8 | phụ lục 1
2 | STK
Phần 4
THÁI CỰC LUẬN
Chương 2. Tính danh
Thái Cực
Trong tiết này ta
sẽ cố tìm cho ra những từ ngữ có thể dùng để chỉ danh Thái Cực.
Chúng ta sẽ áp
dụng mấy phương pháp sau đây:
1.Nghiên cứu các
đồ bản Dịch Kinh
2. Nghiên cứu thư
tịch Nho, Thích, Lão.
3. Áp dụng định
luật toán học, nếu A = B
B = C
thì A = C
Ví dụ: Thái Cực
= Thiên Địa chi tâm
Thiên
Địa chi tâm = Đạo tâm
Thái
Cực = Đạo tâm
4. Suy ra những
danh hiệu chính yếu của Thái Cực, khi đã hiểu rõ quan niệm của người xưa
về Thái Cực. Họa bản Huỳnh Đình trong Huỳnh Đình Kinh giải của
Lưu nhất Minh đã cho ta biết những danh hiệu sau đây tương đương với
Thái Cực:
Huỳnh Đình, Trung
Thần, Hư Vô, Chân Không Bất Nhị Pháp Môn, Chúng Diệu Chi Môn, Huyền Tẫn
Môn, Đạo Nghĩa Chi Môn
Tượng Ngôn Phá
Nghi cho rằng Huyền Tẫn Môn tức là Huyền Quan Khiếu
Theo Huỳnh
Đình Kinh giải ta thấy Thái Cực là Huyền Tẫn Môn. Như vậy:
Thái Cực = Huyền
Tẫn Môn = Huyền Quan Khiếu (Nguyên Quan Khiếu)
Và cứ theo định
luật toán học, nếu
A = B
B = C
thì A = C
Ta sẽ biết thêm
rằng Thái Cực cũng là:
Sinh Tử Hộ, Sinh
Sát Thất, Thiên Nhân Giới, Hình Đức Môn, Hữu Vô Khiếu, Thần Khí Huyệt,
Hư Thực Địa, Thập Tự Lộ...vì những danh hiệu trên đều là biệt danh của
Huyền Quan Khiếu
Dựa vào tài liệu
trong quyển Thông thiên bí thư ta biết Thái Cực hay Huyền Tẫn còn
có những tên sau đây:
·Thái
Cực Chi Đế
-
Tiên Thiên Chi Bính
-
Hư Vô Chi Hệ
-
Tạo Hóa Chi Nguyên
-
Hỗn Độn Chi Căn
-
Thái Hư Chi Cốc
-
Qui Căn Khiếu
-
Phục Mệnh Quan
-
Mậu Kỷ môn
-
Canh Tân Thất
-
Giáp Ất Hộ
-
Tây Nam Hương
-
Chân Nhất Xứ |
-
Trung Hoàng Cung
-
Đan Nguyên Phủ
-
Chu Sa Đỉnh
-
Long Hổ Huyệt
-
Huỳnh Bà Xá
-
Dung Lô
-
Thổ Phủ
·Thần
Thủy
-
Hoa Trì
-
Đế Ất
-
Thần Thất
-
Linh Đài
- Giáng Cung
v.v... |
Thái Cực
thường được tượng trưng bằng vòng tròn.
Ngoài ra, cổ nhân
còn dùng vòng tròn để tượng trưng: Vô Cực,
Kim Đơn,
Thần,
Chu Sa Đỉnh, Pháp Thân,
Thử Mễ Châu,
Hồng Mông,
Thánh Thai
Ta kết luận: Thái
Cực cũng là:Vô Cực, Kim Đơn Thần, Pháp Thân, v.v.. Thái Cực chính là nơi
Âm Dương tương hợp, Hắc Bạch tương phù, nên cũng chính là: Thiên Địa Chi
Tâm,
Thiên Địa Chi Tâm là Đạo Tâm, vậy:
Thái Cực = Đạo Tâm
Khảo sát các
hình: Huyền Tẫn Chi Môn, Nguyên Quan Nhất Khiếu trong Tượng Ngôn Phá
Nghi
ta thấy rằng Thái Cực còn có thể gọi là:
Âm Dương Chi
Môn, Tứ Đại Bất Trước Chi Xứ, Động Tĩnh Chi Quan, Thần Khí Chi Huyệt,
Khảm Ly Chi Tinh, Hữu Vô Tương Nhập Xứ.
Thái Cực chính là: Đạo,
Trung,
Nhất,Lý,
Tâm,
Tính,
Thiên Đạo,
Thiên Lý,
Thái Nhất,
Thái Hòa theo từ ngữ Trương hoành Cừ,
Tổ Khiếu theo từ ngữ của các Đạo gia.
Sau khi đã tìm ra
được các tính danh Thái Cực, ta có thể tìm hiểu duyên do của ít nhiều
danh hiệu của Thái Cực.
I. Thái Cực sở dĩ
gọi là Thái Cực vì Thái Cực là Tuyệt Đỉnh.
II. Thái Cực ở
tâm điểm các vòng Dịch nên cũng được gọi là: Trung, Hoàng Trung, Ngũ,
Ngũ Thập, Mậu Kỷ Môn.
III. Thái Cực là
Nhất, vì Nhất có thể sinh Vạn. Thái Cực đứng giữa trục Âm Dương, nên
cũng được gọi là Thập Tự Nhai: +
IV. Thái Cực được
gọi là Huyền Quan Nhất Khiếu vì người xưa cho rằng Vạn Hữu xuất
phát từ Nhất điểm linh quang ở giữa lòng Vô Cực
V. Thái Cực được
gọi là Huyền Tẫn Chi Môn vì là ở giữa hai cửa Âm Dương
VI. Thái Cực là
tâm điểm sinh trời đất, nhân vật nên cũng gọi là Thiên Địa Chi Tâm:
VII. Thái Cực là
Bản Thể của vũ trụ, là căn nguyên vũ trụ nên cũng được gọi là Tính, là
Lý, là Căn Nguyên.
VIII. Thái Cực vì
phối hợp được Âm Dương, nên được gọi là: Huỳnh Bà Xá
IX. Thái Cực tạo
dựng quần sinh, và là cùng đích Vạn Hữu nên là: Thủy, Chung.
X. Thái Cực là
môi giới giữa Vô Cực và Vạn Hữu.
Ta tạm hình dung
bằng hình vẽ sau:
Ta thấy rằng Thái
Cực đồng thời:
Vừa là Vô Cực,
vừa là Vạn Hữu
Không phải Vô
Cực, cũng không phải Vạn Hữu.
Bao hàm cả Vô
Cực, lẫn Vạn Hữu
Nếu ta gọi Vô Cực
là Vô, Vạn Hữu là Hữu, ta có thể nói Thái Cực:
Vừa là Vô, vừa là
Hữu
Chẳng phải Hữu
chẳng phải Vô
Bao hàm cả Vô lẫn
Hữu
Vừa biến thiên,
vừa bất biến
XI. Từ Thái Cực,
có 2 nẻo đưòng:
Một đường đi ra
Vạn Hữu tức là đi ra hữu hình, hữu tướng, đi ra chết chóc, mòn mỏi, biến
thiên;
Một đưòng đi vào
vô hình, vô tướng, Vô Cực, trường sinh, vì vậy Thái Cực còn đưọc gọi là
Sinh Môn, Tử Hộ, Sinh Sát Xá.
XII. Đi ra thời
gian truân, đi vào thời sảng khoái vì thế cũng gọi là Hình Thức Môn
XIII. Thái Cực
khi chưa có trời đất, thì là Hồng Mông vị phán, Âm Dương tương
hợp, Hắc Bạch tương phù, lúc chung cuộc vũ trụ thì lại là nơi Tam Hoa
qui đỉnh, Ngũ Khí triều nguyên, Âm Dương hợp hòa đoàn tụ.
XIV. Thái Cực vì
trường cửu bất hoại nên được gọi là Kim Đơn, Kim Cương Thân v.v...
XV. Thái Cực sinh
xuất muôn Thần, vạn Thánh nên chính là lò cừ Tạo hóa, Chu Sa Đỉnh, Dung
Lô v.v...
XVI. Thái Cực ở
trung tâm điểm vòng Dịch, vũ trụ và con người nên được gọi là Chân Tâm.
XVII. Thái Cực là
biên giới giữa trời người, vào được lòng Thái Cực tức là vào được lòng
Trời, ở bên ngoài tâm điểm, ở bên ngoài Thái Cực tức là phàm tục, vì thế
Thái Cực được gọi là Thiên Nhân Giới
XVIII. Ở giữa Vạn
Hữu và Vô Cực, nên cũng được gọi là: Hư Thực Địa, Hữu Vô Xứ v.v..
Tóm lại ta có thể
tìm ra được nguyên do, được ý vị của mỗi danh hiệu Thái Cực.
Thái Cực đã được
các vị chân tu đạo Phật sánh với Chánh Pháp Nhãn Tàng, Bản Lai Diện Mục,
Chân Như Bản Thể, Pháp Thân vân vân. Từ đó, chúng ta bắt sang đạo Phật,
chúng ta thấy Thái Cực còn có rất nhiều danh hiệu tương ứng.
Suy ra, thì Thái
Cực có muôn vàn danh hiệu
nhưng chung qui vẫn chỉ là Bản Thể của
vũ trụ, là Duy nhất, là Tuyệt đối.
CHÚ
THÍCH
Mục lục | Lời nói
đầu | Phần 1 2
3
4 5
6 7
8 9
| chương 1
2 3
4 5
6 7
8 | phụ lục 1
2 | STK
|