THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Kinh Văn
Trực Chỉ của Ngụy
Bá Dương
»
Mục Lục |
Thượng
1 2
3 4
5 6
7 8 |
Trung
1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3 4
5
6
Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực
Chỉ
參
同
契
經
文
直
指
Đông Hán Ngụy Bá Dương Chân nhân trứ dĩ
Ngự Chính.
東
漢
魏
伯
陽
真
人
著
以
御
政
Thê Vân Sơn, Ngộ Nguyên Tử, Lưu Nhất Minh
giải.
棲
雲
山
悟
元
子
劉
一
明
解
Hậu Học Tiêu Nam Phổ trùng khan.
後
學
蕭
南
浦
重
刊
Thượng thiên
上 篇
Chương 1
Kiền Cương
Thiên Địa Âm
Dương
41. Càn cương, khôn nhu,
Phối hợp tương bao.
Dương bẩm Âm thụ,
Hùng thư tương tu,
Tu dĩ tạo hóa,
Tinh khí nãi thư,
Khảm Ly quán thủ,
Quang ánh thùy phu,
Huyền minh nan trắc,
Bất khả họa đồ.
Thánh Nhân quĩ độ,
Tham tự Nguyên Cơ,
Tứ giả hỗn độn.
Kính nhập hư vô.
Lục thập quái chu,
Trương bố vi dư.
Long Mã tựu giá,
Minh quân ngự thì,
Hòa tắc tuỳ tòng,
Lộ bình bất tà,
Tà đạo hiểm trở,
Khuynh nguy quốc gia. |
乾
剛
坤
柔
配
合
相
包
陽
稟
陰
受
雄
雌
相
須
須
以
造
化
精
氣
乃
舒
坎
離
冠
首
光
映
垂
敷
伭 冥
難
測
不
可
畫
圖
聖
人
揆
度
參
序
元
基
四
者
混
沌
徑
入
虛
無
六
十
卦
周
張
布
為
輿
龍
馬
就
駕
明
君
御
時
和
則
隨
從
路
平
不
邪
邪
道
險
阻
傾
危
國
家
|
Tạm dịch:
Kiền Cương, Khôn Nhu,
Phối hợp lẫn nhau.
Dương bẩm, Âm thụ
Thư Hùng cân nhau,
Hợp thành Tạo Hoá.
Tinh khí thư sướng,
Khảm Ly dẫn đầu,
Quang minh rực rỡ
Huyền
minh khôn lường
Không thể viết, vẽ.
Thánh nhân quĩ độ,
Đi tới gót đầu,
4 quẻ hỗn độn, (Kiền,
Khôn, Khảm, Ly),
Vào thẳng Hư Vô.
Sáu mươi quẻ dư, (60 quẻ
còn dư lại)
Kết tựa bánh xe.
Như cưỡi Long Mã,
Minh quân ngự thời (thuận
thời),
Hoà hợp theo Trời,
Đường đi ngay thẳng.
Tà đạo hiểm hóc,
Khuynh đảo quốc gia.
Đại Đạo thời vô
thanh, vô xú, không phải sắc, không phải không, có gì để mà nói?
Nhưng trong cái Vô Thanh, Vô Xú đó lại tàng ẩn Âm Dương. Trong cái Phi
Sắc, Phi Không lại hàm Tạo Hóa. Nếu thật không có lời nói, thì làm sao
biết được cái tiêu tức của Âm Dương, làm sao hiểu được cái cơ mật của
Tạo Hoá. Cho nên người xưa nói: Đạo vốn vô ngôn, ngôn cốt là để hiển
đạo. Trời không có đạo riêng: Long Mã phụ Đồ, xuất Hà, cốt là tiết lộ
thiên cơ. Phục Hi bắt chước theo đó mà vẽ Tiên Thiên Bát Quái. Lại nhân
lên thành 64 quẻ. Đến Văn Vương lại biến xuất thành Hậu Thiên Bát Quái,
rồi diễn ra thành hậu thiên 64 quẻ, phân ra thành 384 hào. Rồi lại buộc
bằng từ (Hệ từ), để làm sáng tỏ lẽ cát hung. Khổng tử làm Thập Dực, làm
rõ nghĩa lý của Hi Văn (Phục Hi, Văn Vương). Nhờ thế mà lẽ Tiên Thiên,
Hậu Thiên, được rõ ràng, đầy đủ.
Thiên địa, Tạo hóa
chi đạo thật là sáng láng vậy. Cho nên một quyển Kinh Dịch, là sách đạo
lý của hiền thánh Trung Quốc, là sách căn bản để Tu Đạo Lập Đức vậy. Nho
gia tôn trọng sách này, Đạo gia học theo sách này. Âm Phù Kinh của Hoàng
Đế, Đạo Đức Kinh của Lão Tử, kỳ lý, kỳ nghĩa, đều ám hợp với sách này.
Nhưng chư thánh áo ngữ, diệu nghĩa, hậu thế ít người tìm ra được đầu
đuôi, không biết đâu là bến bờ. Nghĩa là thỉnh thoảng có một vài
lương tài ẩn sĩ, chỉ hiểu được một câu hay nửa lời, nên không tìm ra
được chỗ ra tay.
Ngụy Bá Dương chân nhân có lòng thương
người, suy ra được tấm lòng độ thế của các Ngài, lấy kinh Dịch làm
chuẩn, và phát huy cái áo bí của Âm Phù Kinh và Đạo Đức Kinh, lại dùng
trăm ngàn tỉ dụ, cắt nghĩa thật rõ ràng. Muốn cho ai nấy đều thành Đạo,
Muốn cho ai nấy đều biết
chân lý. Các sách đơn kinh, tử thư sau này, đều dựa vào Tham Đồng Khế mà
viết ra. Cho nên Tham Đồng là vạn cổ Đan Kinh Vương. Và chữ Kim Đan cũng
bắt đầu từ đó.
Con người nắm được Khí Thiên Địa Âm Dương
để sinh thân. Trong Thân con người có Khí của Âm Dương, Ngũ Hành, có Đức
của Âm Dương Ngũ hành. Khí thuộc Mệnh, Đức thuộc Tính. Thế là Tính Mệnh
là do Thiên Địa, Âm Dương, Ngũ hành chi khí mà thành.
Người học cách Tu Tính Mệnh, mà lìa cái đạo Thiên
Địa Âm Dương, Ngũ hành, thì không còn cái thuật nào khác. Đaọ
Dịch là Đạo Thiên Địa, Âm Dương, Ngũ hành. Hiểu được Đạo Dịch là biết
được đạo Thánh. Cho nên Dịch Đạo lấy Càn Khôn làm đầu rồi xếp các quẻ.
Tham Đồng Khế cũng lấy Càn Khôn làm đầu rồi bàn về Đạo.
Thế là Lý của Tham Đồng Khế là lý của Kinh Dịch.
Dịch lấy Càn Khôn làm đầu mà Càn là Kiện. Thủ tượng nơi chữ Thiên. Mà
Trời là Dương, là Chí Cương. Cương chủ Kiện. Cho nên nói:
Càn cương. Khôn là Thuận, Thủ tượng nơi chữ
Địa. Địa là Âm là Chí Nhu. Nhu chủ Thuận. Cho nên nói:
Khôn nhu.
Càn Khôn định vị, cương nhu tương bao. Khí
của Càn Dương là Khí Bẩm, còn Khôn Âm chi khí thời thừa thụ. Một hùng,
một thư, giúp nhau làm công việc Tạo Hóa, mà Dương Tinh Âm Khí thì thư
sướng mà sinh vạn vật. Dịch lấy Khảm Ly làm Trung. Khảm thì Ngoại Âm nhi
Nội Dương, tượng Nguyệt. Ly thời Ngoại Dương nhi nội Âm, tượng Nhật.
Nhật Nguyệt là Tinh Hồn của Trời Đất, thay Trời Đất mà hành Tạo Hóa. Nó
đứng đầu Khí Vận. Nhật chiếu, Nguyệt lâm. Quang
ánh thừa phu, Tứ thời hành nhi vạn vật sinh trưởng thu tàng, mọi sự đều
hết sức tự nhiên. Thiên Địa cương nhu, nên mới có thể
thư Tinh Khí. Nhật Nguyệt vãng lai nên mới
có thể thừa Quang Huy. Trong lại có cái Vô Hình,
Vô Tượng, vận động bên trong.
Cái lý đó chí Thần, chí Diệu, khó mà hay biết, khó mà vẽ thành hình. Cho
nên thánh nhân quĩ độ Âm Dương tiêu tức, Tham Đồng tự kỳ Nguyên Bản Căn
Cơ. Để chỉ cho ta chỗ thâm áo.
Tứ giả hỗn độn, Kính
nhập hư vô (Bốn quẻ hợp hòa, đi thẳng vào Hư Vô). Dịch lấy
Càn Khôn làm Thể, Khảm Ly làm Dụng. Bốn quẻ đó hòa
hợp, mà qui về Hư Vô Nhất Khí. Nhất Khí lưu hành, Âm rồi Dương,
Dương rồi Âm. Âm Dương trao đổi, mới đầu là Truân Mông, cuối cùng là Ký
Tế, Vị Tế. Sáu mươi quẻ còn lại đó, Âm Dương thay đổi,
trương bố vi dư (thành cái xe).
Long Mã tựu giá, vận cốc chính trục, dĩ hành Tạo
Hóa. Đó là Đại Lược của Kinh Dịch.
Thánh Nhân đứng đầu muôn loài, thừa lục
long dĩ ngự thiên, nên động tĩnh tùy thời. Nhất nhất đều in như Kinh
Dịch, không có chút chi dám sai ngoa. Vì Dịch lấy Âm Dương hòa bình
làm căn bản. Ngự Chính là Quan Thiên Đạo, Chấp
Thiên hành. Thế nên nói là Năng Hòa. Hoà thời vạn dân sẽ nghe
theo. Vương
đạo thản
thản, là Lộ Bình Bất Tà vậy.
Còn sai Thiên Đạo, thất Thiên Hành thì là Bất
hòa. Đã bất hòa thì trên dưới không ứng hợp nhau. Đó là Tà Đạo hiểm trở,
nó làm khuynh nguy quốc gia vậy. Người tu đạo bắt chước đó nên
lấy Cương Kiện Nhu Thuận làm Thể, lấy Cương Nhu Trung Chính làm dụng.
Cương nhu hợp nhất, như Càn Khôn thất ngẫu (sánh
đôi). Cương Nhu trung chính, như Khảm Ly chi quang thùy.
Cương Nhu tương đương, Kiện Thuận hỗn thành, Tinh Khí sung túc, tâm quân
hư linh, hồn nhiên Thiên Lý. Cứ Chính Tâm là Thân
có thể tu được vậy. Vả trị thân trị quốc cũng chỉ có Một Lý. Tâm chính
và Quân chính là Một Đạo vậy. Không thấy vị vua nào bất chính mà lại
theo được đúng thời Trời. Chưa thấy ai có Tâm bất chính mà có thể giữ
toàn được Đạo vậy. Tiên Ông mới đầu dùng Dịch Lý để Ngự Chính
(theo đúng thời Trời). Đề xuất ra lấy đó làm Cương lĩnh.
Đặc biệt coi Tính Mệnh chi Đạo với Dịch là một
đạo. Coi tu thân là Ngự Chính. Không hiểu Dịch Đạo không thể Tu
Tính Mệnh. Không biết Ngự Chính, thì không biết cách tu Thân Tâm.
Dịch Đạo và Ngự Chính, đều lấy Âm Dương tương hoà
làm căn bản. Tu trì Tính Mệnh, mà bỏ lẽ Âm Dương tương hoà, thì không
còn phép thứ hai nào khác. Tiết này trọng tại nơi một chữ Hoà.
Hòa thì đường đi sẽ bằng phẳng, sẽ không tà khuất. Học giả trước là phải
biết chữ Hoà vậy. Sau đây có một đồ bản để tiện việc tham khảo.
»
Mục Lục |
Thượng
1 2
3 4
5 6
7 8 |
Trung
1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3 4
5
6
|