THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch

Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực Chỉ của Ngụy Bá Dương

» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6


Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực Chỉ

Thượng thiên

上 篇

Chương 5

Sóc Đán

12 quải khí: Làm gì cũng phải đúng tiết đúng thời

49. Sóc đán vi Phục,

Dương khí thủy thông,

Xuất nhập vô tật, 

Lập biểu vi cương.  

Hoàng Chung kiến Tí,

Triệu nãi tư chương.

Bá thi nhu noãn.

Lê chưng đắc thường.

 50. Lâm Lô thi điều,

Khai lộ chính quang.

Quang diệu tiệm tiến,

Nhật dĩ ích trường.

Sửu chi Đại Lữ.   

Kết chính Đê Ngang.  

 51. Ngưỡng dĩ thành Thái.

Cương nhu tịnh long. 

Âm Dương giao tiếp,

Tiểu vãng đại lai.         

Phúc Thấu ư Dần,

Vận nhi xu thời.

 52. Tiệm lịch Đại Tráng.  

Hiệp liệt Mão môn,

Du giáp đọa lạc. 

Hoàn qui bản căn.

Hình Đức tương phụ.  

Trú dạ thủy phân.

 53. Quải âm dĩ thoái.

Dương thăng nhi tiền.

Tẩy trạc vũ cách.

Chấn sách túc trần. 

 54. Càn kiện thạnh minh.

Quảng bị tứ lân.            

Dương chung ư kỷ.

Trung nhi tương can.  

 55. Cấu thủy kế tự,

Lý sương tối tiên.  

Tỉnh để hàn tuyền.    

Ngọ vi Nhuy Tân.

Tân phục ư Âm.  

Âm vi chủ nhân.     

 56. Độn thế khứ vị. 

Thu liễm kỳ tinh.

Hoài đức sĩ thì.

Thê trì muội minh.

 57. Bĩ tắc bất thông. 

Manh giả bất sinh.

Âm thân dương khuất.

Một Dương Tính Danh. 

 58. Quan kỳ quyền lượng.

Sát Trọng Thu tình.

Nhiệm súc vi trĩ.

Lão khô phục vinh.

Tề mạch nha nghiệt.

Nhân mạo dĩ sinh.

 59. Bác lạn chi thể.

Tiêu diệt kỳ hình.

Hóa khí ký kiệt.

Vong thất chí thần.

 60. Đạo cùng tắc phản,

Qui hồ Khôn nguyên. 

耀

榆 莢

退

 

宿

Tạm dịch:

 49. Sóc đán là Phục

Dương khí vừa thông.

Vào ra không vội,

Lập biểu vi cương.

Hoàng Chung kiến Tí,

Triệu Nhất Dương sinh

Trong đỉnh ấm áp

Cơ bản tạo đơn.

 50. Lâm lô thi điều,

Mở đường sáng láng,

Ánh sáng tăng dần,

Ngày một dài hơn,

Phù ứng Đại Lữ,

Kết chính Đê Ngang.

 51. Ức dĩ thành Thái,

Cương Nhu đều thịnh.

Âm Dương giao tiếp,

Tiểu vãng đại lai,

Phúc Thấu tại Dần,

Vận hành siêu thời.

 52. Dần sang Đại Tráng,

Ở nơi cung Mão,

Du Giáp rơi rụng,

Hình Đức phụ nhau,

Ngày đêm chia phôi.

 53. Quải Âm đã thoái,

Dương tiến lên trước,

Rửa sạch cánh lông,

Cho hết bụi bặm.

 54. Càn kiện thịnh thời.

Rộng toả bốn phương.

Dương cực ở Tị,

Trúng và tương can.

 55. Quẻ Cấu bắt đầu,

Như bước trên băng.

Nước lạnh, đáy giếng,

Ngọ ở Nhuy Tân,

Tân trĩ thành Âm,

Âm là chủ nhân.

 56. Bước sang quẻ Độn,

Thu liễm tinh hoa,

Hoài Đức chờ thời,

Thê trì muội minh.

 57. Bĩ tắc bất thông,

Mầm không sống nổi,

Âm thân, Dương khuất,

Gọi là Một Dương (Dương tiêu),

 58. Sang tới quẻ Quan,

Vào mùa Trọng Thu,

Dương đà yếu ớt,

Cành già tươi lại,

Tề mạch phục sinh,

Sinh ra đầy đất.

 59. Bác tiêu hình hài,

Hoá khí suy kiệt,

Làm tiêu cả thần.

 60. Đạo cùng sẽ phản,

Trở về Khôn Nguyên.

Theo đúng Địa Lý,

Thuận theo lẽ Trời.

 

Thượng tiết nói:  Suy Âm Dương tiêu tức, Khảm Ly một vong để lập ngôn.

Tiết này hợp với Tiết sau, cũng đều giảng về Âm Dương Tiêu tức, dẫn nghiệm kiến hiệu của nó. Sao biết được Âm Dương tiêu tức? 

# PHỤC

Như sáng ngày 15 ngày Đông Chí, mặt trời từ Nam trở về Bắc. Một Dương sinh từ lòng đất. Tại quẻ là Phục. Dương khí vừa sinh. Dương là Chủ mà Âm là Khách. Thoán từ quẻ Phục nói: Xuất nhập vô tật. Đặc biệt lấy chuyện Âm Dương xuất nhập. Xuất nhập không có vội vàng và bị thương tích. Xuất đây là Dương. Đáng Tiến lên vậy. Nhập chi giả Âm, đáng thoái Âm vậy. Dựng cây nêu để đo Dương vừa lớn mạnh. Cây nêu để nghiệm xem bóng mặt trời dài vắn. Vi Cương là Dương vừa sinh. Luật ứng Hoàng Chung. Nguyệt Kiến tại Tí, là tháng 11. Đó là điềm Dương tiến. Và cứ thế mà tăng trưởng. Dương Khí của Trời, bá thi và bắt đầu có vật. Âm Khí của đất thì Nhu Hoãn và sinh vật. Muôn vật đều được khí Thiên Địa Âm Dương tương giao.

Nhờ đó mà Tư Thủy, Tư sinh, mà được bình thường vậy.

Sánh với người tu đạo cũng vâỵ. Dương khí vừa thịnh, nhưng còn yếu, Phải nuôi dưỡng cái Nhất Điểm Sinh Cơ đó, Để lấy đó là Căn Bản cho sự Hoàn phục bản nguyên. Không bao giờ được xa lìa nó.

Mặt trời từ ngày Đông Chí cho tới Tiểu Hàn, thì Nhị Dương sinh, nơi quẻ là Lâm. 

# LÂM

Lúc ấy trong lò sẽ nóng, Dương khí sẽ thi điều, sẽ khai thông đạo lộ. Quang huy thủy tiến, bóng mặt trời cũng dài ra. Nguyệt Kiến ở Sửu. Luật ứng Đại Lữ. Đó là tháng 12.

Người tu đạo bắt chước vậy: Khi Dương khí lớn lên. Dưới lò quẻ Lâm, phải ra công điều lý thân tâm. Phải nén Âm để mở đường, phù Dương để Chính Quang. Tuần tự mà tiến. Công phu không thiếu, cũng như mặt trời ngày càng lớn vậy.

Mặt Trời từ Tiểu Hàn trở về Lập Xuân, thì Tam Dương sinh. Chính Khí kết mãn dưới đất. Từ Đê đến Ngang, Thiên khí do đó đi lên. Địa khí do đó đi xuống. Trong Dương ngoài Âm. Nơi quẻ là Thái: 

# THÁI

Thái là Cương Nhu bằng nhau, Âm Dương giao tiếp. Tiểu vãng nhi Đại lai. Âm thuận Dương Kiện. Khí hậu ôn hòa. Như tai hoa và bầu xe họp lại thành Bánh xe. Âm Dương cùng đường, hỗn nhiên nhất khí. Nguyệt kiến tại Dần. Đó là tháng Giêng.

Sánh với người tu đạo, thì Dương Khí tiến ư Trung Chính, còn Khách khí thì ẩn. Âm Dương điều đình. Tính tình hòa bình. Cương nhưng không táo, Mềm nhưng không nhu nhược.

Mặt trời từ Lập Xuân đến Xuân Phân, vận hành theo thời. Từ ấm dần tới nóng. 4 Dương sinh, tại quẻ là Đại Tráng. 

# ĐẠI TRÁNG

Nguyệt Kiến tại Mão. Là Tháng 2. Mão là chỗ Mộc Vượng, là cửa sinh ra Đức. Nhưng Đại Tráng trong lại không mạnh, cho nên Du giáp đọa lạc, hoàn qui bản căn. Trong Đức có Hình. Hình Đức chống nhau, Âm Dương phân ly. Ngày đêm từ đó phân ra. Ngày càng dài mà đêm càng ngắn .

Người tu đạo lấy đó mà xem. Khí Âm Dương tráng thịnh. Thì cần tắm rửa, ôn dưỡng. Trở về Bản Căn. Phải lo đề phòng. Đợi cho đến khi Âm Khí tự thoái, Dương khí tự lớn. Không được cưỡng chế, để mời khách khí. Thế là Vật Vong vật Trợ (không quên, cũng không can thiệp, cứ để tự nhiên) .

Mặt trời từ Xuân Phân tới dần Thanh Minh. Từ đó Dương khí tiệm trưởng, Âm Khí tiệm tận. Dương khí sắp thuần.

Ngũ Dương sinh. Nơi quẻ gọi là Quải. 

# QUẢI

Nguyệt kiến tại Thìn. Là tháng Ba. Quải là làm  cho Âm thoái và cho Dương thăng tiến về phía trước.

Sánh với người tu đạo cũng vậy. Dương khí nay đã vượng thịnh, Âm khí nay đã vi nhược. Như thế có thể tắm rửa toàn thân cho khỏi những tích tập xưa kia. Gột rửa cho nhân tâm được sạch hết bình sinh túc trần, cho lông cánh được tiến thẳng về trước. Gọi là Chấn, nghĩa là Chấn Phát Dương Khí của Đạo Tâm. Gọi là Sách là tìm cầu gạt bỏ mọi Ô Nhiễm của Nhân Tâm. Dùng Đạo Tâm chế phục Nhân Tâm. Nhỏ mấy cũng vào, không còn để cho có một chút khách tà khí nào được ở trong tâm ta vậy.

Mặt trời từ Thanh Minh đến Lập Hạ. Sáu Dương sinh. Ở nơi quẻ là Kiền. 

# KIỀN

Nguyệt Kiến ở Tị, là tháng tư. Kiền kiện thịnh minh, sáng soi 4 phía. Trên dưới thuần là Dương Khí. Vạn vật bấy giờ hoàn toàn vinh vượng. Người tu Đạo cũng vậy. Dương Cương đã tiến tới chỗ thuần túy chí tinh. Đã thấy lại được Kiền Nguyên diện mục. Lương tri, lương năng hồn nhiên Thiên Lý. Không còn chút chi là Nhân dục chi tư. Y như một vầng Hồng Nhật, chiếu soi khung Trời. Vạn ban âm tà hoàn toàn tiêu diệt. Đó là Tiến Dương Hỏa chi sự, đó là đạo Dụng Cửu vậy, Dương Khí tới Tị là cực điểm. Dương Cực sinh Âm. Thế là Âm Khí đã xen vào. Mặt trời từ Lập Hạ tới Hạ Chí. Tự Bắc lại hồi Nam. Một Âm sinh từ lòng Đất, ở nơi quẻ là Cấu: 

# CẤU

Từ đây, Âm Khí thay Dương Khí. Và nơi Hào Sơ Lục quẻ Khôn có nói tới điềm: Lý Sương. Một Âm sinh, lúc ấy không có Sương. Nhưng Sương đã bị che và đã bắt đầu. Cho nên lúc đó là khởi thuỷ của Âm Khí. Lúc đó thì nước nơi đáy giếng là nước lạnh, ứng với Địa Khí vậy. Nguyệt kiến tại Ngọ, là tháng 5. Luật ứng Nhuy Tân. Âm Khí như khách phục trong lòng đất. Khí Dương phải thoái, Âm khí sẽ phải tiến. Âm Khí là Chủ Nhân vậy.

Người tu đạo trông thấy vậy, biết rằng Dương Cương đã tới cực thịnh, thì phải lo bảo tồn cái Dương Cương đó. Đoàn luyện nó thành cái gì rắn chắc, vĩnh cửu. Như vậy mới tới được Cực Điểm Công Phu. Thế gọi là vận công Âm Phù. Âm Phù là khi Dương đã cực, thì phải dùng Âm mà dưỡng. Dương khí không kháng lại. Thế gọi là Âm Dương phù hợp vậy. Âm Phù chi Âm, không phải là cái Âm khách khí bên ngoài. Nó chính là Dương Khí thu liễm, thoái xuất, là Chân Âm. Bên này thì Chân Dương thoái, bên kia thì Chân Âm sinh. Còn giả Âm sẽ tự tiêu, tự hoá.

Nếu Dương Khí không thoái, Chân Âm không hiện ra. Thì Dương cực sẽ Âm. 1 Âm tiềm sinh, thì Khách Khí lại đến. Được rồi lại mất, thế là Đại Sự sẽ không thành. Cho nên Dương Cương đã tiến tới chỗ thuần. Thì Âm Phù ắt sẽ có chỗ dùng.

Cũng như quẻ Cấu ở tháng 5, Âm đã là chủ nhân rồi vậy. Tuy nhiên dụng Âm phải phân biệt Chân Giả. Chân Âm thì thuận theo Chân, giả Âm thì thuận theo giả, Thuận Chân năng dưỡng Dương, Giả Chân năng thương Dương, cho nên trong Thoán Truyện quẻ Cấu nói: Vật dụng thú nữ, bất khả dữ trưởng dã. Thiên địa tương ngộ, phẩm vật hàm chương.

Gái mà hung dữ, cơ cầu.

 Làm sao phối hợp bền lâu cho đành.

Đất trời giải cấu liên minh,

Làm cho vạn vật trở thành tốt tươi. 

Một Chân, một giả, thiên địa huyền cách, cho nên nơi Sơ Hào quẻ Khôn đã khuyên phải đề phòng Lý Sương, Kiên băng chí:

Dưới chân sương giá chớm dày,

Rồi ra băng cứng có ngày tới theo. 

Nghĩa là khi dùng Âm, thì phải hết sức cẩn thận vậy.

Mặt trời từ Hạ Chí tới Tiểu Thử, nhị Dương thoái, và nhị Âm sinh. Ở Quẻ là Độn. 

# ĐỘN

Nguyệt Kiến ở Mùi. Là tháng sáu. Dương Khí từ đó thu súc lại.

Người tu Đạo thấy vậy phải Độn Thế, khứ vị (từ bỏ địa vị trần gian). Thu liễm tinh thần, hoài Đức sĩ thời, thê trì muội minh, thao quang dưỡng hối. Người đại trí mà xử như Ngu si, người khéo tay nhất lại làm ra kiểu vụng về. Không để cho khách khí thừa cơ làm thương tổn.

Mặt trời từ Tiểu Thử đến Lập Thu. Tam Dương thoái nhi Tam Âm sinh. Nơi quẻ là Bĩ. 

# BĨ

Nguyệt Kiến ở Thân, là tháng Bảy.

Khi ấy Thiên Khí hạ giáng, địa khí thương thăng. Vạn vật tắc bế và không thông. Tuy cũng có nảy mầm nhưng không sinh.

Người Tu Đạo thấy vậy, thì biết rằng Cương Đạo đã không còn ở địa vị Trung Chính mà Âm Đạo đã chiếm địa vị Trung Chính. Cương nhu bằng nhau. Lấy Nhu dưỡng cương. Đó là lúc Chân Âm dụng sự. Như Dương đã chết không còn tính danh.

Mặt trời từ Lập thu dần tới Thu Phân, Tứ Dương thoái. Tứ Âm sinh. Nơi quẻ là Quan. 

# QUAN

Nguyệt Kiến tại Dậu. Là tháng tám. Lúc ấy là Trung Thu. Trong Hình có Đức. Nhiệm súc vi trĩ. Lão Khô phục vinh (cành khô sống lại), vạn vật đều thu liễm như tề mạch phục phát, nha trường nghiệt (lúa mạch lại nảy mầm sinh mộng), nhân mạo dĩ sinh.

Người tu đạo thấy vậy, lấy nhu dưỡng cương. Sinh cơ nay đã đi vào bên trong. Bên ngoài thì u ám nhưng bên trong thật là sáng láng. Cũng như tiết Trung Thu, trong Hình có đức. Mặt trời từ Thu Phân đến Hàn Lộ. Năm Dương thoái và 5 Âm sinh. Nơi quẻ là Bác. 

# BÁC

Nguyệt kiến ở Tuất, là tháng 9. Dương Khí bị mất bóng hình. Vạn vật như chết.

Người tu đạo lúc ấy, phải vứt bỏ cái thân ảo hóa, phải tiêu diệt cái Tính khí chất cương táo hữu hình. Hóa khí đã kiệt, sẽ vô thức, vô tri, sẽ bất thần nhi thần vậy.

Mặt trời từ Bạch Lộ, đến Lập Đông. Lục Dương lui, lục Âm thuần. Đạo cùng sẽ phản, nơi quẻ là Khôn. 

# KHÔN

Nguyệt kiến ở Tuất, là tháng 10, thuần Âm vô Dương.

Người Tu Đạo phải để cho Cương Khí thoái tàng. Dưỡng cho cái không không còn gì nữa. Trở về Vô Thanh, Vô Xú chí tịnh chi Địa. Quá điểm đó, sẽ thấy Tĩnh Cực phục động, không có diệu dụng chi khác.

Sau đây là bản đồ Lục Âm Lục Dương để tiện tham khảo.

Đồ Bản vẽ lại 6 Âm, 6 Dương của 12 tháng trong một năm.


» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6