THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Kinh Văn
Trực Chỉ của Ngụy
Bá Dương
»
Mục Lục |
Thượng
1 2
3 4
5
6 7
8 |
Trung
1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3
4
5
6
Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực
Chỉ
參
同
契
經
文
直
指
Hạ thiên
下
篇
Chương 4
Đơn Sa
Hòa Hợp Ngũ Hành
76. Đơn sa mộc tinh,
Đắc Kim nãi tính,
Kim thuỷ hợp xứ,
Mộc Hoả vi lữ,
Tứ giả hỗn độn,
Liệt vi Long Hổ,
Long Dương số cơ,
Hổ Âm số ngẫu,
Can thanh vi phụ,
Phế bạch vi mẫu,
Thận hắc vi tử,
Tâm Xích vi Nữ,
Tì hoàng vi tổ,
Tí Ngọ hành thuỷ,
Tam vật nhất gia
Đô qui Mậu Kỷ.
|
丹 砂 木 精
得 金 乃 併
金 水 合 處
木 火 為 侶
四 者 混 沌
列 為 龍 虎
龍 陽 數 奇
虎 陰 數 偶
肝 青 為 父
肺 白 為 母
腎 黑 為 子
心 赤 為 女
脾 黃 為 祖
子 午 行 始
三 物 一 家
都 歸 戊 己 |
Tạm
dịch:
Đơn Sa
Mộc Tinh,[1]
Hợp
với Kim Thuỷ.[2]
Kim
Thuỷ hợp xứ,
Bốn
bên hoà hợp (Kim Thuỷ, Mộc, hoả),
Chia
thành Long Hổ,
Long
Dương số lẻ,
Hổ Âm
số chẵn,
Gan
xanh là Cha,
Phổi
trắng là Mẹ,
Thận
đen là Trai,
Tâm đỏ
là Gái,
Tì
vàng là Tổ,
Tí Ngọ
bắt đầu,
Ba vật
một nhà (Kim, Mộc, Thổ),
Đều
qui Mậu Kỷ.
Hai tiết trên nói Xá Nữ
Hoàng Nha, Lưu Châu, Kim Hoa, cốt là làm sáng tỏ thế nào là Công Phu
điều hoà Âm Dương. Công Phu điều hoà Âm Dương chính là Toản Thốc Ngũ
hành. Cho nên tiết này dạy thế nào là Toản Thốc Ngũ Hành, đó chẳng qua
là biết điều hoà Âm Dương vậy. Chu Sa tượng Hoả. Ở nơi con người là Linh
Thần, hay Xá nữ, Lưu Châu. Mộc tính nhu. Ở nơi con người là Linh tri có
Nhu Tính. Còn Kim Tình thì cương, trong con người thì là Cương Tình. Đó
chính là Hoàng Nha, Kim Hoa vậy.
Linh Tri chi Thần tính Nhu,
thiếu quả quyết. Nên Nhân Thân Thức Thần nhờ cái Linh của nó mà sinh
vọng, khiến trong Chân có giả. Nhưng nếu được Chân Tri Kim Cương (Nguyên
Thần, tính Trời) chế nó, thì Thức Thần (Tính Người) sẽ không còn hoạt
động, và Nhân Tâm sẽ an tĩnh. Linh phản bản Tính (Phục hồi tính trời là
phục hồi bản tính mình). Hoả trung lại sinh Mộc. Mộc tính ái kim thuận
nghĩa, Kim tình luyến Mộc từ Nhân. Kim Mộc kết hợp.
Linh Tri là Tiên Thiên Linh
Khí (Tính Trời). Chân Tri là Tiên Thiên Chính Khí. Cái Linh ấy, cái Chân
ấy xưa nay vốn hợp nhất. Trong Linh có Chân, Chân mà chí Linh, thế là
Chân Không diệu dụng, vì thế gọi là Nhất Điểm chân linh vậy. Vì tiếp xúc
Hậu Thiên, Thức thần làm việc nên Linh kia bị mờ đi, thế là Chân đi vào
giả. Hai đằng tương cách. Thế là Khí Tính sinh và Vọng Tình khởi. Cả
người thành thuần Âm. Thức Thần là chủng tử sinh Luân Hồi, là nguồn gốc
làm ta bị Tử Sinh. Nếu không trừ nó đi, thì không bao giờ ta nắm được
Tính Mệnh chúng ta. Phương pháp trừ diệt, nếu không dùng Chân Tri Chân
Tình thời không xong. Chân Tri Chân Tình có đủ Tiên Thiên Chân Nhất chi
khí. Khí này chí đại, chí cương, có sức thoái trừ quần ma, giết được tam
thi.[3]
Chân Tình khi đã hiện, thì
Thức Thần ngày một tiêu. Thức Thần tiêu thì Nhân Tâm hết khởi, Linh Tri
không bay mất, và Chân tính sẽ tự hiện. Chân Tính hiện sẽ hợp với Chân
Tình. Thế là kim mộc giao tính. Kim Mộc đã giao nhau, thì trong Kim có
Chân Thuỷ, Ở nơi con người thì là Chân Tinh. Chân Tình, Chân Tinh hợp
thành một nhà, thế là Kim Thuỷ hợp xứ.
Trong mộc có hoả, nơi người
là Nguyên Thần. Nguyên Thần Chân Tính hợp thành một nhà. Thế là Mộc Hoả
kết bạn với nhau. Ngoài thì Kim Mộc tương tính, trong thì Thuỷ Hoả tương
tế. Bốn nhà hợp thành nhất Khí. Cũng vẫn là lẽ Nhất Âm, Nhất Dương tương
hợp.
Cho nên nói bày ra thành
Long Hổ. Long là Mộc, Thuộc Dương, sinh số là 3, là số lẻ. Hổ là Kim,
Thuộc Âm, sinh số là 4, là số chẵn. Long Hổ chính là Tính Tình, noiù
theo Tượng. Tính Tình Tinh Thần tuy phân thành Tứ Tượng, nhưng vẫn gồm
Tính Tình, lại bao quát chúng trong 2 chữ Tính Tình. Kỳ thật khi Tính
Tình đã tương hợp, thì chỉ có một Tiên Thiên Nhất Khí bao quát hết. Một
khí hỗn hợp, trong gồm Tứ Tượng. Tứ Tượng hỗn hợp thành một Khí, đó là
Kim Đơn chi đạo, đó là Hậu Thiên Trung phản Tiên Thiên, đó là Toản Thốc
Ngũ hành, hoà hợp tứ tượng, đó là Điều Hoà Âm Dương vậy.
Âm Dương điều hoà là Long Hổ
tương hội, thế là Đan Thành. Vì thế gọi là Long Hổ Đại Đơn. Ví dụ ảo
thân ta, cũng nhờ Âm Dương Ngũ Hành mà thành.
Gan xanh là Mộc, là Cha, Phế
trắng là Kim, là Mẹ, Thận Đen là Thuỷ, là Con, Tâm đỏ là Hoả là Con Gái,
Tỳ vàng là Thổ là Tổ phụ. Bởi vì Hậu Thiên Ảo Thân không có Ngũ Hành
không thể thành hình. Tiên Thiên Chân Thân không có Ngũ Hành không thể
ngưng kết. Cái điều khác là: Trong vòng Điên Đảo, Thuận, Nghịch. Thuận
thời sinh Nhân sinh vật, Nghịch thời thành Thánh Thành Tiên. Sao gọi là
Thuận? Can Mộc tàng Hồn, tính phù nhi sinh Hỉ, Tâm Hoả tàng Thần Tính
bốc lên (Viêm) mà chủ Lạc, Thận Thuỷ tàng Tinh, tính Lưu mà sinh Ai, phế
Kim tàng Phách tính trầm mà sinh Nộ. Tỳ Thổ tàng Ý, tính Trệ mà sinh
Dục, thuộc Hậu Thiên.
Thế nào là Nghịch?
Mộc tính Phù nên làm cho
Trầm xuống, Mộc qui ư căn. Hỉ hoá thành Nhân.
Kim tính Trầm nên làm cho
nổi lên. Kim trở về Bản Nguyên. Nộ hoá thành Nghĩa.
Thuỷ tính Hạ nay làm cho lên
trên. Thế là Thuỷ qui Nguyên, Ai hoá thành Trí.
Hoả tính ở trên, nay đem
xuống dưới. Hơả phản kỳ Chân, Lạc hoá thành Lễ
Thổ tính trệ nên xử Hoà. Thổ
phản thành Dương. Dục hoá vi tín. Thuộc về Tiên Thiên. Đó là Chí Nhân.
Tu cái Tiên Thiên của chúng
ta. Hoá cái Hậu Thiên của chúng ta. Nghịch vận kỳ cơ, để đoạt quyền Tạo
Hoá.
Chuyển vận chuôi Sinh Sát,
chính là Ức Âm Phù Dương. Dùng Lục, nhưng không bị Lục chi phối, Dùng
Cửu mà không bị Cửu chi phối.
Cửu là Dương số, Lục là Âm
số. Nhất Dương sinh vu Tí. Nhất Âm sinh vu Ngọ, Tí Ngọ là Đầu Âm Dương.
Một Dương sinh, thì là Tiến Dương Hoả, Đó là phạm vi của Thuỷ, Mộc. Nhất
Âm sinh thời vận Âm Phù. Đó là phạm vi của Hoả Kim. Tiến Dương Vận Phù,
đều tuỳ kỳ thời. Trong Trung có Tín. Thổ ở chính giữa. Hỗn hợp Bách
Thần. Đưa về Mậu Kỷ. Mậu để Hoà Dương cốt vận ngoại. Kỷ để Hoà Âm cốt
dưỡng nội. Mậu Kỷ tương hợp, nội ngoại nhất như. 2 thổ kết thành Đao
Khuê.
Thế gọi là Tam Vật Nhất Gia.
Kim Đơn Tứ Bách Tự gọi thế là Diên Hống qui Chân Thổ. Thân Tâm yên không
Động là gốc ở đấy. Vả Kim Thuỷ là Thân, Mộc Hoả là Tâm, Mậu Kỷ là Ý,
thống Tinh Khí Thần tam vật. Luyện Tinh hoá khí, Luyện Khí Hoá Thần,
luyện Thần hoàn hư. Đến địa vị này, thân tâm sẽ là một, không lo bị thẩm
lậu. Nhưng gọi là Thân Tâm ở đây không phải là Ảo Thân, Nhục Tâm, mà
chính là Cái Thân Tâm không nhìn thấy được. Cái Thân không thể nhìn
thấy, tức chính là Bản Lai nhất điểm Hạo Nhiên Cương chính chi Khí. Cái
Tâm không thể nhìn thấy tức là Bản Lai Nhất điểm Hư Linh Bất Muội chi
Tính. Cái gọi là Ý, Tức là Bất Động bất giao chi Thiên. Đó là Chân Ý,
hay Chân Tín.
Người sau không biết người
xưa hay dùng chữ bí hiểm, nên coi Thân là cái Thân ảo hoá. Coi Tâm là
cái Tâm Thịt. Coi Ý là Ý Niệm. Hiểu Tâm Ý như vậy mà vào Tịch Diệt chi
học. Nhận ảo thân là cái thân vận chuyển. Ôi coi đó là Đạo thì đó là Tà
Đạo, chứ không phải là Chính Đạo. Họ có biết đâu rằng cái học Tiên
Thiên, không rơi vào vòng Hình Tượng hữu vô, mà có Tâm Truyền, Khẩu
Quyết hẳn hoi, giúp ta trực siêu Bỉ Ngạn, lập tễ Thánh Vị vậy.
[1]
Mộc là số 3, là Đơn sa, là Ly, là Hống, là Dương.
[2]
Kim, trong có Chân Thuỷ, Kim là số 4, là Hổ, là số Chẵn, là Âm. Âm Dương
tương phối thành Đại Đơn.
[3]
Còn kêu là Tam Bành, Tam Trùng. Tam Bành là Bành Cư, khiến con người trở
nên Tham lam, Bành Chất khiến con người tham tài, hỉ nộ, Bành Kiều khiến
con người thích chưng diện, rượu chè v,v... Xem Trung Hoa đạo giáo đại
từ điển, tr. 965.
»
Mục Lục |
Thượng
1 2
3 4
5
6 7
8 |
Trung
1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3
4
5
6
|