THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch

Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực Chỉ của Ngụy Bá Dương

» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6


Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực Chỉ

Trung thiên

Chương 1

Tương Dục

Tính Mệnh Song Tu

62. Tương dục dưỡng tính,

Diên mệnh khước kỳ. 

Thẩm tư hậu mạt,

Đương lự kỳ tiên, 

Nhân sở bỉnh khu, 

Thể bản Nhất Vô.  

Nguyên Tinh vân bố, 

Nhân khí thác sơ. 

63. Âm Dương vi độ, 

Hồn phách sở cư. 

Dương Thần, Nhật Hồn,

Âm Thần, Nguyệt Phách.

Hồn chi dữ phách,

Hỗ vi thất trạch, 

Tính chủ xứ nội, 

Lập trí Ngân Ngạc, 

Tình chủ doanh ngoại, 

Trúc viên thành quách. 

Thành quách hoàn toàn,

Nhân vật nãi an,  

Viên tư chi thời, 

Tình hợp Kiền Khôn, 

Kiền động nhi trực, 

Khí bố tinh lưu, 

Khôn tĩnh nhi hấp,

Vi Đạo xá lô,  

Cương thi nhi thoái, 

Nhu hoá nhi tư. 

Cửu hoàn thất phản, 

Bát qui lục cư, 

Nam bạch nữ xích, 

Kim Hoả tương câu, 

Tắc Thuỷ định Hoả, 

Ngũ Hành chi sơ, 

Thượng thiện nhược Thuỷ, 

Thanh nhi vô hà, 

Đạo chi hình tượng, 

Chân Ất nan đồ, 

Biến nhi phân bố, 

Các tự độc cư, 

 64. Loại như kê tử, 

Bạch hắc tương phù,

Tung hoành nhất thốn, 

Dĩ vi thủy sơ. 

Tứ chi ngũ tạng, 

Cân cốt nãi câu,

Di lịch thập nguyệt 

Thoát xuất kỳ bào. 

Cốt nhược khả quyển,  

Nhục hoạt nhược Diên.[1]  

將 欲 養 性

延 命 卻 期

審 思 後 末

當 慮 其 先

人 所 秉 軀

體 本 一 無

元 精 雲 布

因 氣 託 初

陰 陽 為 度

魂 魄 所 居

陽 神 日 魂

陰 神 月 魄

魂 之 與 魄

互 為 室 宅

性 主 處 內

立 置 鄞 鄂

情 主 營 外

築 垣 城 郭

城 郭 完 全

人 物 乃 安

爰 斯 之 時

情 合 乾 坤

 乾 動 而 直

氣 布 精 流

坤 靜 而 翕

為 道 舍 廬

剛 施 而 退

柔 化 而 滋

九 還 七 返

八 歸 六 居

男 白 女 赤

金 火 相 拘

則 水 定 火

五 行 之 初

上 善 若 水

清 而 無 瑕

道 之 形 象

真 乙 難 圖

變 而 分 布

各 自 獨 居

類 如 雞 子

白 黑 相 符

縱 橫 一 寸

以 為 始 初

四 肢 五 臟

筋 骨 乃 俱

彌 歷 十 月

脫 出 其 胞

骨 弱 可 卷

肉 滑 若 鉛

Tạm dịch:

Nếu muốn tu Tính,

Thì phải diên Mệnh

Muốn sống lâu thêm,

Phải xét gót đầu,

Cái người có trước,

Chính là thân mình.

Thân mình vốn vô,

Nguyên Tinh linh bố,

Do Khí có đầu,

Âm Dương làm chuẩn.

Hồn phách sở cư,

Dương Thần Nhật Hồn,

Âm Thần Nguyệt Phách,

Hồn cùng với phách,

Nương tựa lẫn nhau.

Tính chủ bên trong,

Gọi là Ngân Ngạc.

Tình chủ doanh ngoại,

Xây nên thành quách.

Thành quách vẹn toàn,

Nhân vật sẽ an.

Vào thời điểm đó,

Tình hợp Kiền Khôn,

Kiền động và trực,

Tinh khí sẽ sinh,

Khôn tĩnh và hấp,

Là cơ sở Đạo,

Cương thi rồi thoái,

Nhu Hoá tốt tươi,

Cữu hoàn thất phản,

Bát qui, lục cư.

Nam Bạch (Kim), Nữ Xích (Hoả),

Kim Hoả tương câu,

Thời Thuỷ định Hoả,

Ngũ hành bắt đầu,

Tốt nhất là Thuỷ,

Trong không tì vết,

Hình tượng của Đạo,

Chân Ất khó vẽ,

Biến rồi phân bố,

Đều đứng riêng biệt,

Y như trứng gà,

Bạch Hắc tương phù,

Tung hoành nhất thốn,

Đó là Thuỷ Sơ,

Tứ chi Ngũ tạng,

Gân cốt đầy đủ,

Sau hết 10 tháng,

Thoát khỏi bào thai,

Xương non dễ uốn,

Thịt mềm như Diên,

 

Tiên xưa nói: Muốn tu tính, trước phải tu mệnh, như vậy mới vào được đường tu hành.

Tu Mệnh không tu tính, là tu hành đệ nhất bệnh. Vì Tính là Âm, Mệnh là Dương. Dùng cả Âm Dương, là Tính Mệnh Song Tu, như vậy mới được Hình Thần Câu Diệu (Cả Hình lẫn Thần đều tốt đẹp), mới kết hợp được với Đạo (Dữ Đạo hợp chân).

Cho nên trước khi Tu Tính, phải mau Tu Mệnh. Khi Tu Mệnh xong rồi, phải lo Tu Tính. Chưa thấy ai không tu mệnh mà có thể siêu phàm, chưa thấy ai không Tu Tính mà có thể nhập Thánh.

Cho nên Tiên Ông dạy Dưỡng Tính thì đưa ra chủ đề là: Muốn tu Tính, trước hết phải tu Mệnh. Nghĩa là muốn Dưỡng Tính phải lo Tu Mệnh.

Như người Thượng Trí, Lợi Căn, không đợi Tu Mệnh đã tu Tính, một việc xong, muôn việc đều xong,  vào thẳng Thánh Vức. Nhưng kẻ Thượng Trí thì ít, mà kẻ hạng Trung, hạng Hạ thì nhiều. Nếu không Tu Mệnh trước mà Tu tính trước, thì mới chỉ luyện Âm nơi mình, nếu có gì Thẩm lậu, thì sẽ bị hoạ Mất Thân, Nhập Thân. Cho nên trước tiên phải tu Hữu Vi Phản Hoàn chi Đạo, để mà củng cố Mệnh Cơ. Sau đó mới Hành Bão Nhất Vô Vi chi đạo, để hoàn thành việc Tu Tính. Tính Mệnh tu xong, sẽ bất sinh, bất diệt, cùng đất trời đồng thọ.

Và Diên Mệnh chi Đạo chính là Khước kỳ chi Đạo. Khước kỳ là từ khước thời hạn chết. Có khước từ được thời hạn chết thì mới có thể Diên Mệnh. Muốn khước từ thời hạn chết, thì phải suy xét xem thế nào là chết. Đã thẩm xét xem thế nào là chết, thì lại càng phải hiểu thế nào là sinh. Sống trước chết sau.

Khổng tử nói: Không biết sống, làm sao biết chết, vì đã không biết tại sao sinh, thì cũng không biết tại sao chết. Đã biết tại sao sinh, thì cũng biết tại sao chết. Hiểu được guồng máy sinh tử, thì sẽû khước từ được thời hạn chết, kéo dài được thời hạn sống. Cái đó không khó vậy.

Con người nguyên vốn có khu thể bản nhất vô, nhân phàm phu, phàm mẫu giao hợp với nhau, nguyên tinh nguyên khí hợp nhau, từ Vô sinh ra Hữu; Nam khí thuộc Dương, nữ khí thuộc Âm, Âm Dương nhị khí giao nhau, thế là có hồn phách nam nữ ở trong. Hồn thuộc Dương Thần, như là Mặt Trời; phách là Âm Thần, như Mặt trăng. Hồn Phách là nhà cửa của nhau. Hồn thuộc Tính ở bên trong, xây nên Mật thất Ngân Ngạc. Phách thuộc Tình, chủ bên ngoài, xây nên thành quách, ngoại thất bên ngoài. Ngân Ngạc là Lục Phủ, Ngũ Tạng bên trong. Thành Quách là tứ chi bá hài bên ngoài. Thành Quách mà toàn vẹn, thì nhân vật mới có thể ở yên bên trong. Khi Âm Dương giao độ, tình Nam Nữ hợp nhau, Kiền trên, Khôn dưới, Kiền Khôn phối hợp. Kiền thì Động và Trực, rải khí, lưu tinh. Khôn tĩnh nhi hấp, là xá lô của Đạo. Ở nơi Con Trai thì là Cương Đạo, Thi xong rồi Thoái; ở nơi con Gái thì là Nhu Đạo, nó sẽ Hoá và sẽ Tư Sinh. Âm Dương nhị khí, ngưng lại sẽ thành Tượng, thế là kết Thai Nguyên vậy. 9 là số của Kim, 7 là số của Hoả, 8 là số của Mộc, 6 là số của Thuỷ. Cửu Hoàn Thất phản, Bát qui, Lục Cư. Khí của Kim Mộc Thuỷ Hoả đều nhập vào thai trung. Cửu Hoàn Thất Phản, Bát Qui Lục Cư, nó khác nghĩa với chữ Nghịch Dụng Phản Hoàn. Phản hoàn ở đây là cả Âm Dương Nam Nữ chi khí đều phản hoàn về Thai Trung. Từ Ngoài vào Trong. Vả Nam Tinh thời Trắng, thuộc Kim; Nữ Huyết thì đỏ, thuộc Hoả. Kim Hoả chi khí giao nhau, đoàn tụ một nhà. Trong Kim có Thuỷ Khí, trong Hoả có Mộc khí. Như vậy Thuỷ sẽ định Hoả, Hoả đi để luyện Kim. Thuỷ có thể Tế Hoả. Mộc đi sẽ sinh Hoả, Kim đi sinh Thuỷ. Kim Mộc Thuỷ Hoả, sẽ nung nấu lẫn nhau, sẽ biến hoá sinh ra Chân Thổ. Đó là bước đầu của Ngũ Hành sinh ra nhau. Trong bào thai, tuy Ngũ Hành biến hoá, nhưng khi Âm Dương giao độ với nhau, thì trong Hôn Ám sẽ có Một Điểm Tiên Thiên Tạo Hoá nhập vào. Và sinh Thuỷ trước hết. Cái nước đó sinh ra trước Thiên Địa. Trong không tì vết. Đó là hình tượng của Đạo, khó lòng mô tả. Chí Vô nhưng hàm chí hữu, chí hư nhưng hàm chí thực. Nam nữ tinh huyết, không có nước này sẽ không làm được gì. Cái nước này, Vô hình nhưng lại sinh hình, cho nên nó biến hoá bất trắc. Nhất biến thành Nước sinh ra Thận, Nhị biến thành Hoả sinh ra Tâm, Tam biến thành Mộc sinh ra Gan, Tứ biến thành Kim sinh ra Phế, Ngũ biến thành Thổ sinh ra Tì. Biến hoá, phân bố mà vẫn ở riêng biệt một phương. Nhưng tuy độc cư một phương, mà Khí Ngũ Hành vẫn qui tụ tại một nơi, ví như trứng gà, trắng đen tương phù. Đen là Âm, Trắng là Dương, Âm Dương phù hợp, nhất khí hỗn hàm. Cho nên nói Tung Hoành nhất thốn, dĩ vi thuỷ sơ. Thuỷ sơ là Căn bản, Nhất Khí là căn bản. Gốc rễ mà vững thì cành lá sẽ sinh. Cho nên nói: Tứ Chi, Ngũ Tạng, gân cốt sẽ đủ. Tất cả đều do nhất khí biến hoá mà thành toàn vậy. Trải qua 10 tháng, sẽ thấy Khí túc hình toàn, thoát khỏi bào thai. Xương mềm có thể gấp được, thịt mềm như phấn. Đó là cách sinh ra người vậy.

Nếu con ngưới hiểu được lẽ Sinh Thân, điều hoà được Chân Âm, Chân Dương. Biết ngược dòng mà tu lại, biết giữ được một hơi thở của bào thai, Kết thành thánh thai, ôn dưỡng nó trong vòng 10 tháng, thì ngoài thân lại có thân, quyền tạo hoá do ta nắm, có thể không chịu nhận cái chết, có thể kéo dài sự sống vậy.

Ôi Nghịch sẽ thành Tiên, nên khó biết, Thuận sẽ sinh nhân, cũng khó mà hiểu. Nếu biết đạo Sinh ra Người, mà biết lộn ngược lại thì sẽ biết đạo thành tiên. Tại sao người ta không tìm hiểu đạo sinh ra người mà cứ vọng tưởng học thành tiên, thật đáng thương thay.


[1] Nhược Diên có bản ghi: Nhược Gi.

» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6