THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Kinh Văn
Trực Chỉ của Ngụy
Bá Dương
»
Mục Lục |
Thượng
1 2
3 4
5
6 7
8 |
Trung
1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3 4
5
6
Tham Đồng Khế Kinh Văn Trực
Chỉ
參
同
契
經
文
直
指
Hạ thiên
下
篇
Chương 3
Thái Dương
Chế Phục Hỏa Hầu
68. Thái Dương lưu
châu,
Thường dục khứ nhân,
Tốt đắc Kim Hoa,
Chuyển nhi tương nhân,
Hoá vi Bạch Dịch,
Ngưng nhi chí kiên,
Kim Hoa tiên xướng,
Hữu khoảnh chi gian,
Giải hoá vi Thuỷ,
Mã xỉ lan can,
Dương nãi vãng hoà,
Tính tình tự nhiên,
Bách xúc thời Âm,
Câu súc Cấm Môn,
Từ mẫu dưỡng dục,
Hiếu tử báo ân,
Nghiêm phụ thi lệnh,
Giáo sắc tử tôn,
Ngũ hành thác vương,
Tương cứ dĩ sinh,
Hoả tính tiêu Kim,
Kim phạt Mộc vinh,
Tam Ngũ dữ Nhất,
Thiên Địa chí tinh,
Khả dĩ khẩu quyết,
Nan dĩ thư truyền,
69. Tí đương hữu
chuyển,
Ngọ đương Đông tuyền,
Mão Dậu giới cách,
Chủ Khách nhị danh,
Long hô ư Hổ,
Hổ hấp Long tinh,
Lưỡng tương ẩm thực,
Câu tương tham tiện,
Toại tương hàm yết,
Chớ tước tương thôn,
Huỳnh Hoặc thủ Tây,
Thái Bạch kinh thiên,
Sát khí sở lâm,
Hà hữu bất khuynh,
Ly khuyển thủ thử,
Điểu tước uý chiên,
Các đắc kỳ công,
Hà cảm hữu thanh,
70. Bất đắc kỳ lý,
Nan dĩ vọng ngôn,
Kiệt đàn gia sản,
Thê tử cơ bần,
Tự cổ cập kim,
Hảo giả ức nhân,
Cật bất hài ngộ,
Hi hữu năng thành,
Quảng cầu danh dược,
Dữ Đạo quai thù.
|
太 陽 流 珠
常 欲 去 人
卒 得 金 華
轉 而 相 因
化 為 白 液
凝 而 至 堅
金 華 先 唱
有 頃 之 間
解 化 為 水
馬 齒 蘭 玕
陽 乃 往 和
性 情 自 然
逼 促 時 陰
拘 蓄 禁 門
慈 母 養 育
孝 子 報 恩
嚴 父 施 令
教 敕 子 孫
五 行 錯 王
相 據 以 生
火 性 銷 金
金 伐 木 榮
三 五 與 一
天 地 至 精
可 以 口 訣
難 以 書 傳
子 當 右 轉
午 當 東 旋
卯 酉 界 隔
主 客 二 名
龍 呼 於 虎
虎 吸 龍 精
兩 相 飲 食
俱 相 貪 便
遂 相 啣 嚥
咀 嚼 相 吞
熒 惑 守 西
太 白 經 天
殺 氣 所 臨
何 有 不 傾
狸 犬 守 鼠
鳥 雀 畏 鸇
各 得 其 功
何 敢 有 聲
不 得 其 理
難 以 妄 言
竭 殫 家 產
妻 子 飢 貧
自 古 及 今
好 者 億 人
訖 不 諧 遇
希 有 能 成
廣 求 名 藥
與 道 乖 殊 |
Tạm dịch:
Thái
dương Lưu Châu,
Là
chính Chân Hống.
(Chân
Hống chi tính
Phi
tẩu bất định,)
Thường
muốn xa người
(Thoạt
là Ảo chất
Không
được kiên cố)
Sau
gặp Kim Hoa,
Chuyển
hoá tương sinh,
Hoá
thành Bạch Dịch,
Ngưng
kết chí kiên,
Kim
Hoa xướng trước,
Khoảnh
khắc sau đó,
Dương
sẽ hoạ theo,
Tình
tính tự nhiên,
Tan ra
thành nước,
Mã xỉ
lan can,
Dương
sẽ đến hoà,
Tính
tình tự nhiên,
Khước
trừ tà khí,
Hộ trì
chính khí,
Huyền
tẫn chi môn,
Cần
phải giữ gìn.
Tử hộ
sinh môn ,
Chính
tại nơi đó.
Từ mẫu
dưỡng dục,
Hiếu
tử báo ân,
Nghiêm
phụ thi lệnh,
Truyền
dạy tử tôn.
Ngũ
hành điên đảo,
Hoả
tính tiêu kim,
Kim
chặt mộc vượng,
Tam
ngũ hợp nhất,
Thiên
địa chí tinh,
Chỉ
trao khẩu quyết,
Không
thể tương truyền.
Tí
thời hữu chuyền,
Ngọ
đương Đông tuyền,
Mão
Dậu cách nhau,
Phân
ngôi chủ khách.
Long
kêu gọi Hổ,
Hổ hấp
Long Tinh,
Hai
bên ẩm thực,
Tham
luyến lẫn nhau,
Tự
nuốt lẫn nhau,
Huỳnh
Hoặc thủ tây,
Thái
Bạch kinh thiên,
Sát
khí đến đâu,
Cái gì
không nghiêng
Ly,
cẩu bắt chưột,
Điểu
tước sợ cắt,
Đều
hợp thường tình,
Làm
sao nói được.
Không
hay lý lẽ,
Khỏi
nói tứ tung.
Khuynh
gia bại sản,
Thê tử
cơ bần.
Từ xưa
tới nay,
Có đến
vạn người,
Không
gặp duyên may,
Ít kẻ
nên công.
Đi
tìm danh dược,
Đi sai
đường Đạo.
Tiết trên nói Xá Nữ đắc
Hoàng Nha, mới có thể chế phục, tiết này nói rõ cách chế phục hoả hầu ra
sao. Ai cũng có đủ Lưu tính (tính biến thiên) của Linh Tri. Ra vào không
kỳ hạn, không biết quê quán nó ở đâu. Nó làm loạn tâm tư của con người,
làm hao tổn tinh thần con người, làm thương tổn Tính Mệnh con người.
Như Thái Dương lưu châu, không lúc nào ngừng nghỉ. Nhưng tuy không hề
ngừng nghỉ, nếu được Kim Hoa của Đạo Tâm để phối hợp thì Linh Tri sẽ bị
Chân Tri chế phục, nó sẽ chuyển hoá. Linh tri sẽ trở về Chân Tri, Tính
sẽ cầu Tình. Làm cho Tình qui về Tính, sẽ hoá thành Bạch Dịch, hỗn hợp
thành Nhất Khí, sẽ ngưng kết lại và trở thành kiên cố vậy. Chân Tri,
Linh Tri ngưng kết, Âm Dương sẽ tương hợp, hoà Khí sẽ huân chưng. Kim
Hoa của Linh Tri, trong khoảnh khắc, sẽ biến thành nhu, sẽ biến thành
Nước của Chân Tri. Thế là hoảng hốt hữu vật, yểu minh hữu tinh, như Mã
Xỉ Lan Can vậy. Mã Xỉ là nói nó Kiên Bạch, Lan Can là nói nó ôn nhu. Kim
Hoa hoá Thuỷ là như trên nói: Hoá vi Bạch Dịch vậy. Mã xỉ Lan Can là
như trên nói: Ngưng nhi Chí Kiên vậy. Chân Tri, Kim Hoa, khi đã biến
thành Chân Nhất chi Thuỷ, trắng trẻo, kiên cố. Linh Tri là Thái Dương
Lưu Châu sẽ biến thành Hư Linh chi hoả, đến hoà hợp với Chân Tri. Kim
Hoa sẽ xướng trước là Chân Tình sẽ không tối vậy, Dương sẽ hoà sau là
Chân Tính không mê vậy. Tình không tối, Tính không mê. Lửa không bốc
lên, Nước không chảy xuống, Thuỷ Hoả tương tế, Tính Tình bình hoà, trở
về Bất Thức, Bất Tri, thuận Đế chi tắc, Tự Nhiên chi Vực vậy. Tính Tình
tự nhiên, mới ngưng kết thành Chí Kiên. Cũng như nếu trong người mà Âm
Khí chưa hoá xong, thì sẽ làm trở ngại cho Đạo, cho nên phải khiến cho
Âm Khí tronh người tiêu sạch, thì Đại Đạo mới vẹn toàn.
Bách xúc thời Âm là Khước
trừ tà khí, thời khắc cẩn thận vậy. Câu súc Cấm Môn là: Hộ trì chính
Khí, không bao giờ ngơi. Cấm Môn là Huyền Tẫn chi Môn, là Sinh Môn Tử
hộ. Đó là lò Sinh Sát, là khiếu Âm Dương. Sinh ra ta từ đó, làm ta chết
cũng từ đó. Kết thai, Thoát Thai cũng từ đó. Giữ được nó thì sống, làm
mất nó sẽ chết. Đó là cái cửa khẩu tối ư quan hệ, cho nên gọi là Cấm
Môn. Cái cửa đó, mọi người ra vào,mọi người qua lại, nhưng cái mà Bách
Tính thường dùng lại không hay biết. Nếu có ai hỏi Cửa ấy hình dáng ra
sao, thì ta sẽ nói: Dưới Trời, Trên đất, phía Tây mặt Trời, phía Đông là
mặt trăng, ở giửa hình chữ Thập, nơi 4 phương gặp gỡ. Nó rất sáng. Nó là
một Khổng Khiếu, trông xa thì nhỏ như lông, trông gần thì to bằng Thế
Giới, vạn tượng sâm la, bách bảo đều đủ, có đủ Đất Trời.[1]
Không hiểu có ai biết nó không, nếu có ai biết nó, nó sẽ xua đuổi tà
khí. Từ chỗ chết trở về Bản nguyên, nó sẽ giữ được Chính Dương, từ chỗ
sinh ra ta trở về Bảùn Nguyên. Có thể tuỳ tâm vận dụng, quay tả quay
hữu, y như ý muốn. Vả Đạo Hoàn Nguyên, Phản bản, chỉ là điều hoà tính
tình, hỗn hợp Âm Dương mà thôi.
Muốn điều hoà Tính Tình,
phải biết lẽ Âm Dương sinh khắc. Kim sinh Thuỷ. Kim là mẹ Thuỷ, Thuỷ là
con Kim. Mộc sinh Hoả, Mộc là Cha của Hoả, Hoả là con của Mộc. Kim vốn
sinh Thuỷ, mà Thủy trung cũng sinh được Kim. Thế là Từ Mẫu dưỡng dục,
Hiếu Tử báo ân vậy.
Mộc vốn sinh Hoả, Hoả sinh
cũng có thể thành Mộc. Thế là Nghiêm Phụ thi lệnh, Giáo sắc tử tôn vậy.
Kim sinh Thuỷ, Mộc sinh Hoả đó là Thuận Sinh. Thuỷ sinh Kim, Hoả sinh
mộc, đó là Nghịch Sinh. Lại còn Ngũ Hành Thác Vương (điên đảo chủ
khách). Đều cứ vào Sinh Đạo, như Hoả có thể làm chảy Kim, Kim bị Hoả
Khắc, thì sắc có thể sáng láng ra. Kim có thể Phạt Mộc, Mộc bị Kim Khắc,
sẽ thành Khí dụng. Đựơc Sinh mà Vinh, có Tam Ngũ. Kim sinh Thuỷ là Nhất
Ngũ, Mộc sinh Hoả là Nhất Ngũ, Thổ cư trung ương là Nhất ngũ. Nhất là
Nhất Khí, Ngũ hành tương sinh tương khắc. Khắc để thành Sinh, Sinh để
toàn Khắc. Sinh khắc tuỳ thời, một khí lưu hành, thuỷ nhi chung, chung
nhi phục thuỷ, thần hoá bất trắc, ởø trong Trời Đất thì là Chí Tinh,
Trong Đan Đạo thì là Chí Bảo.
Cái Thiên Cơ thuận nghịch
sinh khắc chỉ có thể Khẩu quyết, không thể thư truyền. Không thể thư
truyền, vì lẽ thuận nghịch sinh khắc của Trời, còn có Hoả Hầu, còn có
công trình, có trước sau, có nhanh chậm, sai một li là đi một dặm, sách
tại sao không truyền hoả hầu, sao không truyền công phu, vì muốn nói
cũng không sao nói hết, muốn luận cũng luận không bao giờ cùng.
Tiên Ông có lòng thương xót
mọi người, nên tuy nó là không truyền được bằng sách, cũng vẫn viết sách
để truyền lại. Để người đời sau, thấy lời hiểu ý, cầu sư ấn chứng cho.
Sách truyền cái gì. Đó là truyền Hoả Hầu Công Trình vậy.
Tí đứng đầu lục Dương, nên
khi Nhất Dương lai Phục, thì gặp Tí và xoay từ Trái sang Phải, cho đến
Tị, là hết lục Dương, đó là Tiến Dương Hoả, là Hành Cương Đạo.
Ngọ đứng đầu lục Âm, đó là
nhất Âm lai Cấu chi thời, gặp Ngọ từ Tây chuyền sang Đông, cho đến Hợi.
Thế là Lục Âm thuần, thế là vận Âm Phù, là dùng Nhu Đạo.
Mão Dậu là cửa ra vào của Âm
Dương. Mão là Mộc tại Đông làm Chủ, chủ sinh khí. Dậu là Kim ở phía Tây,
là Khách, chủ Sát Khí. Mộc tính Nhu tượng Long, Kim tình Cương tượng Hổ.
Có Sinh có Sát, có Chủ có Khách. Chủ Khách tương đương, Tính Tình nhất
khí. Như Long hô ư Hổ, Hổ hấp long tinh. Lưỡng tương ẩm thực, tham luyến
lẫn nhau, hàm yến chớ tước, đan kết tự nhiên. Thí như sao Huỳnh Hoả là
Hoả Tinh, phải ở phía Nam, nếu ở phía Tây, thì Hoả sẽ khắc Kim. Thái
Bạch là Kim Tinh, phải mọc ban đêm, nếu nhìn thấy ban ngày, thì là Âm
sâm kỳ Dương, Như vậy cả hai sao đều bất thường. Nếu mà còn có sát khí,
thì sẽ có nhiều khuynh bại. Nếu thêm còn có Ly, Khuyển bắt chuột, thì
sẽ bắt đươc chuột. Chim cắt bắt chim di, chim tước, thì ắt được. Cứ xem
mấy chuyện đó thì thấy rằng Âm Dương mà thất thời thì sẽ khuynh bại, Âm
Dương mà đúng tiêu chuẩn thì sẽ thành công. Những điều trên là do sách
truyền lại. Người tu đạo phải lưu ý đến những Tượng sách dùng, nếu không
hiểu vi ý của sách.
Đoán nhầm nghĩa lý. Ngộ nhận
đó là Ngũ Kim, Bát thạch,[2]
cho chúng vào Lò, luyện Diên luyện Hống, khuynh gia bại sản, vợ con cơ
hàn. Xưa nay vô số học nhân ỷ mình thông minh, không cầu chân sư khẩu
quyết, cứ đi tìm danh dược, lấy giả làm chân, càng kiếm càng xa, đi sai
đường Đạo, cuối cùng không nên công. Thật đáng thương.
[1]
Đó chính là Trung Tâm Vũ Trụ.
[2]
Ngũ Kim là Kim, Ngân, Đồng, Thiết, Duyên; Bát thạch là Tằng thanh, Không
thanh, Thạch Đởm, Tì Sương, Não Sa, bạch diêm, Bạch phàn, nha tiêu. Sách
Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, trang 1407 giải Bát thạch bằng tám cách
khác nhau.
»
Mục Lục |
Thượng
1 2
3 4
5
6 7
8 |
Trung
1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3 4
5
6
|