THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch

Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú của Từ Cảnh Hưu

» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6  7


Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú

 

Đông Hán Cảnh Hưu Từ Chân Nhân soạn

Thê Vân Sơn, Ngộ Nguyên Tử, Lưu Nhất Minh giải

Môn Nhân Xung Hoà Trương Dương Toàn hiệu duyệt

Hậu học Tiêu Nam Phổ trùng khan

Thượng thiên

上 篇

Chương 1

Kiền Khôn

Kiền Khôn là cửa Dịch, là Lô Đỉnh của đạo Kim Đan

1. Càn Khôn giả

Dịch chi môn hộ

Chúng quải chi phụ mẫu,

Khảm Ly khuông quách

Vận cốc chính trục

 2. Tẫn mẫu tứ quải

Dĩ vi thác thược

Phúc mạo Âm Dương chi đạo

Do công ngự giả

Chuẩn thằng mặc

Chấp hàm bí

Chính qui củ

Tuỳ quĩ triệt

Xử trung dĩ chế ngoại

Số tại luật lịch kỷ.

乾 坤 者

易 之 門 戶

眾 卦 之 父 母

坎 離 匡 郭

運 轂 正 軸

牝 牡 四 卦

以 為 橐 籥

覆 冒 陰 陽 之 道

猶 工 御 者

準 繩 墨

執 銜 轡

正 規 矩

隨 軌 轍

處中以制 外

數 在 律 歷 紀 

 Tạm dịch:

1. Kiền Khôn là cửa Dịch,

Là cha mẹ các quẻ,

Lại bao quát Khảm Ly,

Xoay vần như trục xe.

2. Bốn quẻ Âm và Dương,

Như túi thông Thác Thược,

Thống nhiếp đạo Âm Dương,

Y như người thợ khéo,

Có thằng, mặc, qui, củ,

Như người lái cầm cương,

Đưa xe vào quĩ triệt.

Ngồi trong điều khiển ngoài

Số tại luật lịch kỷ.

 

Đạo Kim Đơn, chính là Đạo Dịch. Dịch Đạo lấy Kiền Khôn làm phụ mẫu. Đan đạo lấy Kiền Khôn làm Lô Đỉnh. Có cha mẹ sau mới có Nam Nữ. Có Nam Nữ thì Âm Dương mới giao cảm, thì Tạo Hoá ở trong đó. Sinh Sinh không cùng. Có Lô Đỉnh sau mới hái dược vật. Có dược vật thì Thuỷ Hoả mới phanh tiễn (Đun nấu), thay cũ, đổi mới. Tham Đồng lấy Càn Khôn Khảm Ly bốn quẻ làm cương lĩnh. Cho nên nói Càn Khôn là cửa ngõ của Dịch, là cha mẹ các quẻ khác. Chu Dịch coi Càn Khôn là đầu 64 quẻ, cho nên là cửa ngõ của Dịch. 64 quẻ có 384 hào. Nếu là Dương hào thì thuộc Kiền, nếu là Âm Hào thì thuộc Khôn. Âm Dương giao thác nhau tuy phân 64 quẻ, 384 hào, chung qui vẫn là 2 quẻ Kiền và Khôn. Tham Đồng Khế chú giải như vậy.

Kiền Cương Khôn nhu, phối hợp tương bao, Dương bẩm (phú bẩm) Âm thụ, đực cái cần nhau, cần nhau để tinh khí đôi bên thư sướng. Nghĩa đoạn này là Tinh Khí có thư sướng thì tạo hoá mới hành. 64 quẻ ở ngay trong đó. Khảm Ky là Kế Thể của Kiền Khôn. Trong có tàng chứa khí Kiền Khôn Âm Dương trung chính. Thay mặt Kiền Khôn mà hành Tạo Hoá. Là Khuông khuếch của 64 quẻ. Khương là Chu Vi, khuếch là Không Đại Bao Khuếch.

Chu vi, không đại, vạn vật đều nằm trong phạm vi. Đó là lời chú của Tham Đồng Khế. Khảm Ly quán thủ (đứng đầu), chiếu diệu quang huy, huyền minh nan trắc, không thể vẽ thành hình. Nghĩa của đoạn Vận cốc chính trục là :

Trục là Xa trục, Cốc là luân cốc.(trục là Trục xe, Cốc là Bầu xe, Luân là Bánh Xe). Trục để tải xe chủ Tĩnh. Cốc làm cho xe chạy chủ Động. Dịch coi Kiền Khôn là Thể, như là Xa trục. Coi Khảm Ly là Dụng, như là Cốc Luân vậy (Bầu Xe, Bánh Xe). Vận Cốc, Chính Trục, Thể không lìa Dụng, Dụng không lìa thể vậy.

Tẫn (cái) Mẫu (đực) tứ quải, tức là 4 quẻ Kiền Khôn Khảm Ly. Kiền Mẫu, Khôn Tẫn, Khảm Mẫu, Ly Tẫn vậy.

Thác Thược: Thác thì không có đáy, hai đầu thì mở. Đó là Vật thuộc Âm là Tẫn, Thược thì có đáy, chỉ mở một đầu. Vật thuộc Dương là Mẫu. Thác để bao vật, Thược để thông khí. Kiền Khôn Khảm Ly 4 quẻ. Tẫn tượng Âm mà thành vật, Mẫu tượng Dương mà sinh vật. Phúc mạo Âm Dương, như Thược để bao vật, Thác để thông khí. Phúc Mạo là Thống Nhiếp.

Vì Dịch lấy Kiền Khôn làm thể, Khảm Ly làm Dụng, thế là có toàn công thống nhiếp Âm Dương Tạo Hóa. Khi đã có 4 quẻ Kiền Khôn, Khảm, Ly, thì y như là có công nhân lập ra chuẩn thằng, qui củ, và y như có người lái xe cầm cương cho xe đi đúng vào quĩ triệt, ở bên trong mà chế ngự bên ngoài. Thì 60 quẻ còn lại cũng ở trong phạm vi động tĩnh của 4 quẻ. Như luật lịch làm thứ tự cho cương kỷ. Tự nhiên nhi nhiên vậy. Tham đồng chú như vậy, 4 quẻ hỗn độn, kính nhập hư vô, 60 quẻ quay quanh, phân chia như bánh xe (tứ quái hỗn độn, kính nhập Hư Vô, lục thập quái chu, trương bố vi dư). Đó là nghĩa toàn đoạn này.

Người tu Đạo, nếu có thể lấy Cương Nhu làm thể, lấy Trung Chính làm Dụng. Ở trong mà chế ngự bên ngoài. Hóa tài suy hành, biến thông mặc sức.

Như vậy là trong ta đã có sẵn một bộ Kinh Dịch, mà 64 quẻ cũng ở ngay trong lòng ta. Và Thác Thược Âm Dương chi đạo, hợp đức cùng thiên địa, hợp sáng với Nhật Nguyệt, hợp thứ tự với 4 muà, theo đúng lẽ cát hung của quỉ thần, thì làm sao mà Đại Đan không kết, mà Đại Đạo không thành.


» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6  7