THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Trực Chỉ
Tiên Chú của
Từ Cảnh Hưu
»
Mục Lục
|
Thượng 1 2
3 4
5 6
7 8 |
Trung 1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3 4
5 6
7
Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú
參
同
契
直
指
箋
註
Hạ thiên
下 篇
Chương 1
Suy Diễn
Suy Diễn số Ngũ
Hành sinh khắc sẽ suy ra Đạo Kim Đơn
39. Suy diễn Ngũ hành
số,
Hiệu ước nhi bất phiền
Cử thuỷ dĩ kích Hoả
Yểm nhiên diệt quang
minh
Nhật nguyệt tương bạc
thực
Thường tại Sóc Vọng
gian
Thuỷ thịnh Khảm xâm
dương,
Hoả suy Ly trú hôn
Âm Dương tương ẩm thực
Giao cảm Đạo tự nhiên.
40. Danh giả dĩ định
tình,
Tự giả dĩ Tính ngôn
Kim lai qui Tính sơ,
Nãi đắc xưng hoàn đơn
Ngô bất cảm hư thuyết,
Phỏng hiệu Thánh Nhân
văn
Cổ ký đề Long Hổ
Hoàng đế mỹ Kim Hoa
Hoài Nam luyện thu
thạch,
Ngọc Dương gia Hoàng
Nha.
Hiền giả năng trì hành,
Bất tiếu mẫu dữ câu.
Cổ kim Đạo do nhất
Đối đàm thổ sở mưu,
Học giả gia miễn lực
Lưu niệm thâm tư duy,
Chí yếu ngôn thậm lộ
Chiêu chiêu bất Ngã khi.
|
推 演 五 行 數
較 約 而 不 繁
舉 水 以 激 火
奄 然 滅 光 明
日 月 相 薄 蝕
常 在 朔 望 間
水 盛 坎 侵 陽
火 衰 離 晝 昏
陰 陽 相 飲 食
交 感 道 自 然
名 者 以 定 情
字 者 以 性 言
金 來 歸 性 初
乃 得 稱 還 丹
吾 不 敢 虛 說
倣 傚 聖 人 文
古 記 題 龍 虎
黃 帝 美 金 華
淮 南 煉 秋 石
玉 陽 加 黃 芽
賢 者 能 持 行
不 肖 母 與 俱
古 今 道 由 一
對 談 吐 所 謀
學 者 加 勉 力
留 念 深 思 維
至 要 言 甚 露
昭 昭 不 我 欺 |
Tạm dịch:
39.
Suy diễn số Ngũ Hành,
Giản
dị không phiền toái.
Tạt
nước lửa sẽ tắt,
Hoả
yếu quang minh tận.
Nhật
Nguyệt thực thường có,
Ngày
Sóc và ngày Vọng.
Thuỷ
thịnh Khảm sâm Dương
Hoả
suy, Ly ám hôn.
Âm
Dương ăn lẫn nhau,
Giao
cảm Đạo tự nhiên.
40.
Tên cốt để định Tình,
Tự
cốt nói về Tính
Kim
lai qui Tính sơ,
Nên
tên là Hoàn Đơn
Ta
không nói Hư Thuyết,
Chỉ
phỏng thánh nhân văn.
Cổ thư
đề Long Hổ,
Hoàng
đế gọi Kim Hoa,
Hoài
Nam kêu Thu Thạch,
Ngọc
Dương gọi Hoàng Nha.
Kim
Đơn tên nhiều vậy,
Hiền
giả biết nghe theo.
Bất
tiếu nghe chẳng hiểu,
Cổ kim
Đạo chẳng hai,
Người
tu khi đàm luận,
Thổ lộ
ra chân tình
Học
giả phải tận sức.
Suy tư
cho thâm sâu,
Chí
yếu lời càng rõ.
Sáng
tỏ không lừa ta.
Đạo Kim Đơn là đạo điều hoà
Âm Dương. Âm Dương hoà thì sinh Đơn, Âm Dương chống nhau thì làm hư Đạo.
Suy diễn số Ngũ Hành sinh khắc, thì sẽ suy ra đạo Kim Đơn. Chí ước nhi
bất phiền, ví dụ tạt nước vào lửa, thì lửa sẽ tắt. Thế là Thuỷ khắc Hoả.
Mặt trời ở ngày Sóc thì có Nhật Thực vì Âm thịnh hơn Dương. Mặt trăng ở
ngày Vọng thì có Nguyệt thực vì Dương thịnh hơn Âm. Lại như Nguyệt Thể
Thuỷ thịnh thì Dương quang phải yếu. Mặt trời mà hoả sắc yếu thì ban
ngày sẽ tối. Chuyện ấy chính là vì Âm Dương mất quân bằng không tương tế
với nhau.
Nếu mà Âm Dương tương ứng
mà tuỳ thời giao cảm, thì Đạo sẽ tự nhiên, làm gì có chuyện xâm lấn,
thương hại nhau. Chân Tính con người thuộc Dương, Chân tình thì thuộc
Âm. Bản Lai vẫn là Âm Dương nhất khí. Tính Tình tương hợp thì sẽ hồn
nhiên Thiên Lý, bất thức bất tri, thuận theo luật trời. Bất thức bất tri
làThể của Tính, Thuận Đế chi tắc là Dụng của Tình. Tính Tình tự nhiên,
đều là do Vô Tâm. Hai chữ đó đều Đồng Xuất nhi Dị Danh. Cũng như Tên thì
có Tự, tên cốt để định tình, Tình ví như Danh. Tự là nói về Tính, Tính
ví như Tự. Danh Tự vốn là một vật. Tính Tình đâu có phải là hai vật. Chỉ
vì giao tiếp Hậu Thiên, nên trong Chân có Giả, Âm Dương phân ly, Tính
Tình đối lập nhau, bất hoà với nhau. Như Thuỷ thịnh thì Khảm sâm thương,
Hoả suy thì Ly trú hôn (mặt trời ban ngày bị tối), Chân Tình biến thành
Giả Tình, Chân Tính biến thành Giả Tính.
Đạo Kim Đơn là suy tình hợp
tính, là Tìm Chân trong Giả, tìm Sống trong chết, để cho Âm Dương tương
hợp, trở lại Thiên Lý, không hay không biết, theo đúng phép tắc của
Trời, tìm ra Bản Lai diện mục của mình, cho nên gọi là Hoàn Đơn. Hoàn
Đơn là trở về với cái Bản Lai, Nguyên Hữu của mình, không hề có tăng có
giảm, lại nói rằng: Hoàn Nguyên phản bản.
Ta không dám nói bậy. mà
phỏng theo lời văn của thánh hiền xưa. Đó chính là lời tựa của Chân
Nhân, cho nên đó là lời nói có gốc, lời nó có kê cứu.
Hoàn Đơn này, cổ lai thánh
hiền, tuỳ phương tiện mà đặt tên, nên không đồng nhất.
Cổ Ký thì gọi là Long Hổ
Đan, Hoàng Đế thì gọi là Mỹ Kim Hoa, Hoài Nam thì gọi là Thu Thạch, Ngọc
Dương thì gọi là Hoàng Nha, Tham Đồng Khế thì gọi là Kim Sa, là Đao
Khuê, tất cả đều cốt là hình dung ra Hoàn Đan là gì mà thôi.
Đạo này người Thượng Sĩ mà
nghe được, thì chuyên cần tu hành, cho nên nói người Hiền thì nghe theo,
còn kẻ Hạ Sĩ mà nghe thấy thì cưỡi toáng lên, Cho nên nói không hợp với
kẻ bất tiếu (người hư).
Cho nên đạo cổ kim xưa nay,
là nhân ngồi nói chuyên với nhau và thổ lộ tâm tình cho nhau nghe. Kim
Đơn đại đạo xưa nay vốn là chuyện khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương
thụ của Thánh Hiền. Hai bên đối đàm với nhau mà lộ ra những mưu toan của
mình. Đó mới chính là cái học vấn Chân tri, Chước Kiến. Chứ không phải
là đoán mò, nói bậy.
Tuy là thành đạo có trước có
sau, nhưng đường lối tu trì là một. Tức như lý của Tham Đồng Khế, thì
hai ông Nguỵ, Từ đều học với Âm Chân Nhân, đến lúc viết ra và chú giải
thì Nguỵ Ông chứng cho Từ Ông, Từ Ông chứng cho Nguỵ Ông. Đều là đối đàm
thổ mưu, không có gì sai trái.
Học giả nếu có thể cố gắng
suy tư, hốt nhiên tìm ra được yếu chỉ, thì có thể nhảy vọt được vào hang
Nghĩa lý, như các tiên Ông đối đàm sở mưu, và quyết tâm thi hành, và
quyết định thành Đạo, thì sẽ thấy Tiên Ông không hề lừa dối mình.
Thế gian ngu nhân cho rằng
Tham Đồng Khế luyện Phàm Sa, Phàm Cống, như thế chẳng những phụ lòng ưu
ái của Tiên Ông, lại còn huỷ báng thánh đạo, thật đáng sa địa ngục, nếu
không biết hối ngộ lại còn cho mình là Tu Chân chi sĩ, thật là sỉ nhục
và đáng chết. Tiết này chú thích đoạn Duy Tích thánh Hiền (Xem lại hạ
Thiên, của Nguỵ Bá Dương). Xem: Trung Quốc khí công tứ đại Kinh điển của
Phương Hú tr. 147- 152, đoạn 12 và 13.
»
Mục Lục
|
Thượng 1 2
3 4
5 6
7 8 |
Trung 1 2
3 4
5 |
Hạ
1 2
3 4
5 6
7
|