THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch

Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú của Từ Cảnh Hưu

» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6  7


Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú

 

Trung thiên

中 篇

Chương 4

Dĩ Kim

Diệu dụng của Hạ Đức: Tinh Hoa Hữu Vi

37. Dĩ kim vi đề phòng, 

Thuỷ nhập nải ưu du. 

Kim kế hữu thập ngũ 

Thuỷ số diệc như chi, 

Lâm lô định thù lượng 

Ngũ phân thuỷ hữu dư 

Nhị giả dĩ vi chân, 

Kim trọng bản như sơ. 

Kỳ tam toại bất nhập 

Hoả nhị dữ chi câu.

Tam vật tương hàm thụ[1]  

Biến hoá trạng nhược thần. 

Hạ hữu Thái Dương khí, 

Phục chưng tu du gian

Tiên dịch nhi hậu ngưng. 

Hiệu viết Hoàng dư yên.  

Tuế nguyệt tương dục cật 

Huỷ tính thương thọ niên 

Hình thể như khôi thổ[2]  

Trạng nhược minh song trần. 

38. Đào trị tịnh hợp chi, 

Trì nhập xích sắc môn, 

Cố tắc kỳ tế hội 

Vụ lệnh trí hoàn kiên 

Viêm hoả trương ư hạ,  

Trú dạ thanh chính cần

Thuỷ Văn sử khả tu,  

Chung cánh Vũ nãi trần 

Hậu thị gia cẩn thận 

Thẩm sát điều hàn ôn.  

Chu tuyền thập nhị tiết

Tiết tận cánh tu thân  

Khí sách mệnh tương tuyệt  

Hưu tử vong hồn phách 

Sắc chuyển cánh vi tử 

Hách nhiên thành hoàn đan, 

Phấn đề dĩ nhất cửu, 

Đao khuê tối vi Thần. 

三 物 相 含 受

輿

形 體 如 灰 土

使

調

      Tạm dịch:

Kim đơn phải đề phòng

Khi cho Kim vào Nước.

Vàng nặng 15 lạng

Nước cũng nặng như in.

Cho vàng vào trong nước,

Phải theo phân lượng.

5 phân là nước dư

2 phần mới thật tốt.

Kim vẫn nặng như cũ.

3 phân không cho vào

Dùng Hoả cũng 2 phân

3 vật (Kim, Thuỷ, Hoả) mà gặp nhau,

Biến hoá sẽ như Thần.

Trong có Thái dương khí,

Nóng ngầm một thời gian,

Lỏng trước rồi đặc sau,

Tên gọi là Hoàng dư

Lại thu nhiếp thời gian,

Hình hài đều tan biến

 38. Đảo trị dễ hợp thành

Lại hư linh bất muội

Căn cơ cần giữ vững

Kim đơn phải toàn kiên.

Lửa cháy rực trong lò,

Ngày đêm phài cẩn thận

Văn Hoả hợp đơn trước,

Ôn dưỡng Võ hoả sau.

Mỗi ngày lo xem xét,

Phải lo điều Hàn Ôn,

Chu tuyền 12 tiết,

Tiết tận phải thân hơn,

Hồn phách chết dần đi

Kim đơn hoá màu tím

Hách nhiên thành Hoàn Đan,

Hoàn Đan là Đao Khuê,

Linh nghiệm tựa như thần.

 

Thượng tiết nói về Thượng Đức, Hạ Đức, và hai phép Hữu Vi, Vô Vi. Tiết này nó về Diệu Dụng của Hạ Đức. Hạ Đức là những người theo Hữu Vi chi đạo, từ Hậu Thiên muốn phản hồi về Tiên Thiên.

Muốn từ Hậu Thiên trung phản Tiên Thiên, trước hết phải biết một vị là Chân Kim Đại Dược. Đó không phải là thứ vàng thế gian, mà chính là Chân Kim của Chân Tri chúng ta vậy. Vàng này được lửa đoàn luyện, nó trường cửu cùng Trời Đất, nó sáng như hai vầng Nhật Nguyệt, cho nên sau khi Đơn Thành, gọi là Kim Đơn.

Ý muốn nói rằng Thuốc này do Vàng mà thành, cho nên khi vào lò phải đề phòng ngay Vàng này. Đề phòng là đề phòng không cho Kim sinh Thuỷ. Đề phòng không cho Kim sinh Thuỷ là cho Kim nhập Thuỷ. Không phải là thứ nước thường, nhưng mà chính là Tinh Nhất chi Thuỷ. Đơn Đạo coi việc dùng Vàng là Đại Sự, thì việc cho Vàng vào nước cũng không phải là chuyện nhỏ.

Phòng Kim là phòng chỗ bất tức bất ly, Nhập thuỷ là phải không được nhanh được chậm. Bất tức bất ly, là trong Sát có Sinh. Bất Cấp Bất Hoãn là trong Nhu có Cương. Ưu Du là Thung Dung tự nhiên, dĩ dật đãi lao, dĩ tĩnh hầu động. Phòng Kim nhập thuỷ chi diệu, phải biết Bản Số của Kim Thuỷ. Mà Chân Kim của Chân Tri là từ Nhất Dương mà lại, mà dần dần đi đến thuần toàn. Nó tròn vành vạnh và sáng rực rỡ. Thông u đạt minh, như Trăng hôm rằm, ráng tròn vành vạnh, không đâu không chiếu tới, lấy số là 15 lạng. Đó là bản số của Vàng. Có 1 phân Kim là sinh được 1 phân Thuỷ. Có 1 lạng vàng là sinh được 1 lạng nước.

Như trăng 16 là một Âm sinh, đến ngày 30 là quang huy tận tiêu, trở thàng đen ngòm. Lấy số cũng là 15 lạng. Cho nên nói Kim Số là 15, mà Thuỷ số cũng như vậy. Dùng nước cũng có diệu dụng. Không được dùng bản số (15). Ví dụ bản số của Thuỷ là 15 lạng, Nếu sinh tới 5 phân, thế là Thuỷ hữu dư, không được cho vàng vào. Chỉ khi nào sinh vừa tới 2 phân, thì mới là Tinh Nhất chi Chân Thuỷ, mới là lúc cho Vàng vào cái nước thật đó. Như vậy Thuỷ sẽ có thể sinh Kim. Đó là Mẹ ẩn trong tử thai, là tử báo mẫu ân vậy.

 Kim bất tiết khí, vô thương ư kim. Như vậy Kim vẫn nặng như cũ. Không mất đi cái bản số 15 lạng của mình. Nếu như Thuỷ sinh tới tam phân, thì cũng gọi là Có Thừa, không nên cho Vàng vào.

Học giả phải biết phân biệt nước có trong có đục, có Nhâm có Quí. Nhâm Thuỷ là nước trong, thuộc dương. Quý Thuỷ là nước đục thuộc Âm, Nhâm Thuỷ là nước có khí nhưng chưa có chất. Đó là Chân Thuỷ tinh nhất bất nhị. Quí Thuỷ là nước thuần Âm và có Chất. Đó là thứ nước dơ thông thường.

Nước có hai phân thuỷ là nước nguồn, chưa chảy đi, còn hết sức tinh khiết, là Nhâm Thuỷ vậy. 3 phân chi thuỷ là nước đã chảy và đã bẩn. 5 phân thuỷ là nước đã chảy đi khá xa, đã vẩn đục. Đó đều là Nhâm Thuỷ.

Đơn đạo cho vàng vào nước chỉ cần khí nước chứ không cần chất. Dụng chất sẽ làm thương tổn vàng. Dùng khí sẽ giúp cho vàng, Cho nên lấy nước 2 phân trợ giúp cho vàng 15 lạng. Thế là nhập thuỷ đắc chân, nhập hoả phải thời. Lửa là Hư Linh chi Thần, là Hoà Khí Âm Dương. Dùng Thuỷ 2 phân, thì dùng lửa cũng phải 2 phân. Lửa 2 phân là lửa vừa mới cháy. Âm mà không khô, sáng nhưng không quá. Lửa dùng 2 phân thì không làm mất trọng lượng của Vàng. Hoả dùng nhị phân thì không khắc với thể của Kim.

 Như vậy mà phối hợp nhau, thì nước sẽ tới giúp lửa mà lửa sẽ không khô. Hoả tới luyện Kim, thì Kim sẽ sáng ra. Kim tới sinh thuỷ thì nước vốn sẵn đã Thuỷ Hoả Tương tế. Kim hoả đồng cung, 3 vật sẽ cùng nhau hàm thụ, chúng sẽ biến hoá thần diệu bất trắc. Vả 3 vật hàm thụ là Tam nhi qui Nhất. Trong đỉnh lô thì Dược là Hoả, Hoả là Dược. Dược hoả tương sinh, hoà khí huân chưng. Trong có Thái Dương linh quang nhất điểm. Chân Hoả đoàn luyện, trong khoảnh khắc. Chân Kim dung hoá thành.

Từ non đến cứng dần. Biến trắng thành vàng. Gọi là Hoàng Dư. Hoàng là màu vàng, Dư là Đất. Kim có Táo Khí nhưng gặp lửa thì Táo khí tiêu. Cứng hoá mềm, Cương Nhu như nhất. Âm Dương hỗn hợp, qui về Trung Chính. Gọi là Hoàng Dư hay là Kim Đơn. Thánh Nhân tu luyện đại đan, rút năm thành tháng, rút tháng thành ngày, rút ngày thành giờ. Dùng phép thu nhiếp, còn lại 1 giờ, đoạt tận Thiên Địa tạo hoá, đoạt tận Âm Dương Ngũ Hành. Dễ lầm khó gặp. Nếu sai 1 ly, thì sẽ sai cả ngàn dặm, huỷ tính thương thọ, được rồi lại mất. Lúc ấy, phải biết dùng hiện tiền, xem hình tướng bên ngoài, hình không có hình, trong xem vào tâm, tâm không còn tâm, hình thể đều quên, không lửa không khói, như đất, như than. Như cửa sổ sáng không bụi bặm. Đảo trị mà hợp, cương nhu đều hoá, hình tích mất hết. Đưa về Xích Sắc Môn, hư linh bất muội, vô vi bất chiếu.

Cho nên tắc kỳ tế hội, vụ lệnh toàn kiên. Hoàn đơn trong một lúc, Ôn Dưỡng mất 10 tháng. Cố tế lao phong, không lúc nào được lìa. Khi nào thai chưa hoàn, Thần chưa toàn, thì công phu ôn dưỡng chưa được ngưng nghỉ. Lửa cháy phía dưới, ngày đêm phải cần cù, thì Thiên Niên Chân Hoả tự nhiên sẽ cháy trong lò. Mới đầu dùng Văn Hoả để hợp đơn. Sau dùng Vũ hoả để Ôn Dưỡng 10 tháng. Vũ hoả để luyện kỷ. Hầu thị gia cẩn thận giả.

Hậu thị là xem xét sự tồn vong của mỗi ngày. Phải cẩn thận hết sức, phải phòng nguy, lự hiểm là vậy. Thẩm sát điều hàn ôn là Thẩm sát độ số của hoả hầu. Làm sao cho nó không táo, không lạnh. Khi thì làm cho nó lạnh, khi thì làm cho nó ấm, điều hoà thu xếp làm sao cho tương đáng, sao cho chu tuyền cả 12 tiết. Tiết tận rồi lại phải thân mật hơn: Sáng tiến Dương Hoả, chiều vận Âm Phù. Âm Dương phù hoả, chung nhi phục thuỷ, tuần hoàn vô đoan, công phu bất tức. Khí sách mệnh tương tuyệt, hưu tử vong hồn phách. Tam hồn dĩ tử, tình tính tinh thần, ngưng kết bất tán. Như si như tuý, chỉ có một điểm Tiên Thiên nhất điểm thanh Dương chi khí, và Pháp Thân thành vậy. Cái thân này gọi là Kim Cương bất hoại chi thần, hay còn gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân. Còn gọi là Tử Kim Đan.

Kim Đan mà đã hoá Tím, thì là Hách hách chi Dương. Không còn chút chi là Âm Khí nữa. Ôi! đơn này to như bụi phấn hay như Đao Khuê,[3] thần thông diệu dụng, có thể xuất tử, nhập sinh, có thể làm cho xương khô sống lại, có thể làm cho người mù sáng mắt. Uống được nó rồi, thì lập tức thành thánh hiền. Đó là Hạ đức Hữu Vi chi pháp, là Diệu Quyết Vô trung thủ Hữu. Đoạn này chú câu: Tri bạch thủ hắc, chí thường dữ nhân câu nhất.[4] Lời chú thích trên, sánh với lời văn Tham Đồng Khế còn tinh tường hơn. Lại giải thích cái vi tế của Hoả Hậu, làm đại lộ Thiên Cơ. Nếu học giả thông triệt chương này, thì đã biết về Tu Đơn diệu dụng được quá nửa rồi.


[1] Tương hàm thụ: có bản viết là Tương hợp độ.

[2] Như khôi thổ: có bản viết là Vi khôi thổ.

[3] Đao Khuê là Kim Đơn.

[4] Đạo Đức Kinh, chương 23.

» Mục Lục | Thượng 1  2  3  4  5  6  7  8 | Trung 1  2  3  4  5 | Hạ 1  2  3  4  5  6  7