THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Trực Chỉ
Tiên Chú của
Từ Cảnh Hưu
»
Mục Lục
|
Thượng 1 2
3 4
5 6
7 8 |
Trung 1 2
3 4
5 |
Hạ 1 2
3
4 5
6 7
Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú
參
同
契
直
指
箋
註
Hạ thiên
下 篇
Chương 4
Hỏa Ký
Hoả là cái Khí
làm cho Âm Dương hòa hợp
29. Hoả ký bất hư tác
Diễn Dịch dĩ minh chi,
Yển nguyệt pháp Lô Đỉnh,
Bạch hổ vi ngao khu,
Cống Nhật vi lưu châu,
Thanh long dữ chi câu,
Cử Đông dĩ hợp Tây,
Hồn phách tự tương câu
Thượng Huyền Đoài số bát,
Hạ Huyền Cấn diệc bát,
Lưỡng Huyền hợp kỳ tinh
Kiền Khôn thể nãi thành
Nhị bát ứng nhất cân,
Dịch đạo chính bất khuynh. |
火
記
不
虛
作
演
易
以
明
之
偃
月
法
爐
鼎
白
虎
為
熬
樞
汞
日
為
流
珠
青
龍
與
之
俱
舉
東
以
合
西
魂
魄
自
相
拘
上
弦
兌
數
八
下
弦
艮
亦
八
兩
弦
合
其
精
乾
坤
體
乃
成
二
八
應
一
斤
易
道
正
不
傾 |
Tạm
dịch:
Hoả Ký không viết bậy,
Lấy Dịch để thuyết minh.
Yểm Nguyệt tượng Lô Đĩnh
(Dương vừa sinh)
Chân tình là Bạch Hổ,
Hống Nhật là Lưu Châu
Cũng gọi là Thanh Long
Nói Đông mà hợp Tây,
Hồn Phách tự tương hợp.
Thượng huyền Đoài số Tám,
Hạ Huyền Cấn cũng Tám
Lưỡng Huyền hợp kỳ tinh.
Kiền Khôn thành nhất thể
2, 8 vừa một cân,
Dịch Đạo chính không
khuynh.
Tiết trên nói: Kim Hoả đồng cư, là Kim
phục hồi Bản Tính vậy. Âm phù chi vận dụng, nếu công phu chưa tới nơi,
thì không thể tròn trĩnh toàn vẹn được. Dịch kinh đã nói rõ, Hoả đây
chính là cái Khí làm cho Âm Dương hoà hợp. Nhưng Âm Dương thì có lúc
đầy, lúc vơi, lúc tiêu lúc trưởng. Cho nên thánh nhân viết Hoả Ký để mà
bàn; Đây không phải nói chuyện trời ơi, đất hỡi, mà mà lấy Kinh Dịch,
lấy hào, tượng, cát hung, hối lận để lập ngôn.
Dịch lấy Khảm tượng Nguyệt, mà Nguyệt
thuôïc Thuỷ, Nguyệt ở phía Tây Nam thuần Âm. Khi Dương vừa thoạt sinh,
thì gọi là Thuỷ trung Kim, ánh sáng nó dọi lên (yển ngưỡng), nên gọi là
Yển Nguyệt. Đó là khi Dương tiến Âm tiêu. Cho nên thủ tượng gọi Yển
Nguyệt là Lô Đỉnh. Không phải gọi Khảm là Lô Đỉnh chi quang, tòng Tây
nhi sinh, Cho nên thủ tượng là Kim, là Bạch Hổ, nơi con người thì là
Tình. Kim sinh thuỷ, Hổ có thể cắn người, đó là Vọng Tình. Nhưng Thuỷ
cũng sinh Kim, Hổ cũng giúp người. Đó là Chân Tình.
Chân Tình phát hiện thì nước không chảy
bừa bãi mà sẽ Qui Nguyên, và Chân Tinh sẽ sinh. Cho nên nói Bạch Hổ chân
tình, ngao luyện Chân Thuỷ chi khu nữu, cho nên nói Ngũ hành điên đảo
dụng, Hổ hướng Thuỷ trung sinh là vì vậy.
Quẻ Ly trong kinh Dịch tượng Nhật, Nhật
thuộc Hoả, tượng Lưu Châu. Hoả sinh ư Mộc, trong Hoả có đủ Mộc Khí. Thủ
tượng là Thanh Long, ở nơi con người là Tính. Mộc sinh Hoả. Rồng có thể
gây thương tích cho người đó là Khí Tính. Hoả sinh Mộc, Rồng có thể sinh
ra người là Chân Tính. Chân tính phát hiện, lửa không bốc to, và sẽ phản
bản. Cho nên nói Thanh Long dữ chi câu thế là nói: Ngũ hành bất thuận
hành, Long tòng Hoả lý xuất.
Long,Tính thuộc Dương, là Hồn, Hổ Tình
thuộc Âm là Phách. Thuỷ Trung sinh Kim, Hoả trung sinh Mộc. Thế là Chân
Tình, Chân Tính tương hội, Hồn phách tự tương câu thúc, đôi bên không
lìa nhau vậy. Hồn phách tương câu là trong Âm có Dương, như Khảm, như
Kim ở Nguyệt thượng Huyền có 8 lạng, Dương trung hữu Âm, như Ly Như Thuỷ
ở Nguyệt Hạ Huyền có ½ cân. Cương Nhu đều qui về Trung Chính. Kim Thuỷ
tương đình, Thuỷ hoả tương tế. Chân Tính, Chân Tình, đều là Khí của
Huyền, hợp lại thành một, trở về Càn cương, Khôn nhu, trỏ về Bản Thể của
Lương Tri, Lương Năng, thế là thành môn sinh của Trời, và phối hợp với
Đất, và Kim Đơn sẽ ngưng kết, mệnh cơ sẽ vĩnh cửu. Thế là lẽ biến hoá
của Kinh Dịch, vì nó không bị khuynh bại nên mới quí. Tiết này chú giải
đoạn văn Kim Hoa tiên xướng, cho đến Hà cảm hữu thanh.[1]
[1]
Xem chính bản T Đ Trực Chỉ HạThiên, Kinh Văn trang 2a, và bản Dịch tr.
152.
»
Mục Lục
|
Thượng 1 2
3 4
5 6
7 8 |
Trung 1 2
3 4
5 |
Hạ 1 2
3
4 5
6 7
|