THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Trực Chỉ
Tiên Chú của
Từ Cảnh Hưu
»
Mục Lục
|
Thượng 1 2
3 4
5
6 7
8 |
Trung 1 2
3 4
5 |
Hạ 1 2
3 4
5 6
7
Tham Đồng Khế Trực Chỉ Tiên Chú
參
同
契
直
指
箋
註
Thượng thiên
上 篇
Chương 6
Cố Dịch
Dịch thống Thiên
Tâm
Cố Dịch thống
Thiên Tâm
13. Phục quái
kiến thuỷ manh,
Trưởng tử kế
phụ thể,
Nhân mẫu lập
triệu cơ,
Tiêu tức ứng
Chung Luật
Thăng giáng
cứ đẩu khu
Tam nhật xuất
vi sảng
Chấn Canh thụ
Tây Phương
Bát nhật Đoài
thụ Đinh
Thượng huyền
bình như thằng
Thập Ngũ Kiền
thể tựu
Thịnh mãn
Giáp Đông Phương
Thiềm thừ dữ
Thố phách
Nhật nguyệt
khí song minh
Thiềm thừ thị
quái tiết
Thố giả thổ
sinh quang,
Thất bát đạo
dĩ cật
Khuất chiết
đê hạ giáng
14. Thập lục
chuyển thụ thống
Tốn Tân kiến
bình minh
Cấn trị ư
Bính Nam
Hạ huyền nhị
thập tam
Khôn Ất tam
thập nhật
Đông Bắc táng
kỳ bằng
Tiết tận
tương thiền dữ
Kế thể phục
sinh long
15. Nhâm Quí
phối Giáp Ất
Kiền Khôn
quát thuỷ chung
Thất bát số
thập ngũ,
Cửu lục diệc
tương ứng
Tứ giả hợp
Tam Thập
Dương khí
sách diệt tàng
Tượng bỉ
trọng đông tiết
Thảo mộc giai
tồi thương
Tá Dương cật
cổ lữ
Nhân quân
thâm tự tàng
Tượng thời
thuận tiết lệnh
Bế khẩu bất
dụng đàm
Thiên đạo
thậm hạo quảng
Thái huyền vô
hình dung
Hư tịch bất
khả đổ,
Khuông khuếch
dĩ tiêu vong,
Mậu ngộ thất
sự tự
Ngôn hoàn tự
bại thương
Biệt tự tư tứ
tượng
Dĩ
hiểu hậu sinh manh. |
故 易 統 天 心
復 卦 建 始 萌
長 子 繼 父 體
因 母 立 兆 基
消 息 應 鍾 律
升 降 據 斗 樞
三 日 出 為 爽
震 庚 受 西 方
八 日 兌 受 丁
上 弦 平 如 繩
十 五 乾 體 就
盛 滿 甲 東 方
蟾 蜍 與 兔 魄
日 月 氣 雙 明
蟾 蜍 視 卦 節
兔 者 吐 生 光
七 八 道 已 訖
屈 折 低 下 降
十 六 轉 受 統
巽 辛 見 平 明
艮 直 於 丙 南
下 弦 二 十 三
坤 乙 三 十 日
東 北 喪 其 朋
節 盡 相 禪 與
繼 體 復 生 龍
壬 癸 配 甲 乙
乾 坤 括 始 終
七 八 數 十 五
九 六 亦 相 應
四 者 合 三 十
陽 氣 索 滅 藏
象 彼 仲 冬 節
草 木 皆 摧 傷
佐 陽 詰 賈 旅
人 君 深 自 藏
象 時 順 節 令
閉 口 不 用 談
天 道 甚 浩 廣
太 玄 無 形 容
虛 寂 不 可 睹
匡 廓 以 消 亡
謬 誤 失 事 緒
言 還 自 敗 傷
別 敘 斯 四 象
以 曉 後
生 盲 |
Tạm
dịch:
Nên
Dịch thống Thiên Tâm
13.
Phục manh nha muôn vật.
Chấn tiếp theo Kiền Thể
Nhờ mẹ
(Khôn) lập căn cơ.
Tiêu
tức theo Luật Lã
Thăng
giáng cứ Đẩu Khu (Chuôi sao Bắc Đẩu)
Chấn xuất sáng mồng Ba, (mồng 3)
Chấn nạp Canh tây phương. (mồng 3)
Mồng
Tám Đoài thụ Đinh. (mồng 8)
Thượng
huyền như giây chăng.
15
trăng tròn hẳn,
Kiền nạp Giáp, Đông Phương, (15)
Thiềm
Thừ và Thố Phách,
Nhật
Nguyệt chiếu song minh
7, 8
Đạo đã xong,
Bắt
đầu sẽ hạ giáng.
14. 16
thoái Âm Phù,
Tốn,
Tân kiến bình minh. (ngày16)
Cấn
trị ư Bính Nam (ngày 23)
Hạ
Huyền ngày 23,
Khôn
Ất ngày 30,
Đông
Bắc táng kỳ bằng,
Tiết
tận vào ngày ấy
15.
Kiền quái phối Giáp Nhâm,
Khôn
quái phối Ất Quí
Kìền
Khôn quát thuỷ chung
Thất
Bát số 15
Tương
ứng với Cửu Lục
4 số
cộng 30
Dương
khí khi diệt tàng
Y như
tiết trọng đông
Thảo
mộc đều bị thương
Thời
ấy các vua xưa,
Bế
quan, cấm thương lữ,
Hư cực
tự thâm tàng.
Thiên
thời thuận tiết lệnh,
Bế
khẩu không nói năng,
Thiên
đạo thậm hạo quảng,
Thái
huyền khó hình dung,
Thái
hư không thấy được (Thiên Đạo, Thái Hư Thái huyền, đều là tên Thiên Tâm)
Bờ cõi
chẳng đón rào,
Càng
nói càng sai lạc,
Lấy
Kiền Khôn Khảm ly,
Để dạy
kẻ hậu sinh.
Trên đây, nói về Đạo Thiên Phù tuỳ thời thăng giáng, khuất thân. Ứng
thời thăng giáng, khuất thân, là do Thiên Tâm vận dụng. Vì Dịch lý biến
hoá, do Thiên Tâm điều khiển. Mà Thiên Tâm thời Vô Hình, Vô Tượng, không
thể nhìn thấy được. Nhân Âm Dương giao cảm, mà nhất điểm sinh cơ, từ Hư
Vô lộ xuất ra, bấy giờ mới bắt đầu thấy vậy. Trong Kinh Dịch, nơi Thoán
truyện quẻ Phục viết: Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ? Phục là: Âm Cực
Dương sinh, quẻ Khôn thai nghén thành quẻ Chấn. Dương khí bắt đầu manh
nha, lúc ấy là Tiết tháng 11, là Kiến Tí. Một Dương của Chấn từ cung
Kiền tới, đó chính là kế thể của Kiền, là con trai trưởng của Kiền.
Kiền là Cha, cho nên nói Trưởng tử kế phụ thể. Một Dương của quẻ Chấn
sinh ra dưới quẻ Khôn. Khôn là Mẹ, cho nên nói: Nhờ mẹ mà có lúc bắt
đầu. Triệu là Bắt đầu. Cơ là Gốc gác. Âm cực Dương sinh, Kiền Khôn tương
giao, trong hoảng hốt có Vật, trong yếu minh có Tinh, sinh cơ từ đó bắt
đầu trở về nguồn. Sinh cơ đó chính là Thiên Tâm, là một Dương nơi quẻ
Chấn. Chính vì muôn vật đều nhờ vào đó mà sinh, nên gọi là Sinh Cơ.
Chính vì nó hiện ra vì Âm Dương giao cảm nên gọi là Thiên Tâm, nhân vì
Tĩnh Cực rồi mới Động nên gọi là Chấn. Kỳ thật nó chính là Sinh Cơ vậy.
Chấn là Dương nên là Thiên Tâm vậy. Cái Thiên Tâm ấy ở đâu cũng có, lúc
nào cũng hiện diện. Con người không đoán biết được nên không nhìn thấy.
Lúc ấy là tháng 11, Kiến Tí. Vạn vật manh nha từ lòng đất, mọi người đều
biết thế là Sinh Cơ vừa máy động, cho nên có thể thấy được. Gọi là Thiên
Tâm, vì quẻ Dương sinh ra từ Âm vậy. Gọi là Thiên Địa chi Tâm, vì thấy
được nó nơi Âm Dương giao cảm nhau. Kỳ thực Thiên Địa Chi Tâm hay Thiên
Tâm cũng vẫn là một Tâm. Chẳng qua là thấy lúc nó vừa hiện sinh ra mà
luận. Cái Thiên Tâm sinh cơ ấy, nó sinh sinh vô cùng, mà sự đày vơi
thăng giáng đều theo lẽ Dịch. Tiêu tức (đầy vơi) là theo Chung Luật,
Thăng giáng là do chuôi sao Bắc Đẩu. Ví dụ, như khi thấy Tháng là Kiến
Tí (tháng 11), nhất Dương sinh, tại quẻ là Phục, Luật ứng với Hoàng
Chung, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ Tý. Kiến Sửu thì Nhị Dương sinh, nơi quẻ là
quẻ Lâm, ứng dấu Đại Lữ, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ Sửu vậy. Sáu Âm sáu Dương
12 quẻ thống thập nhị Nguyệt, và ứng 12 Luật. Và chuôi sao Bắc Đẩu chỉ
12 vị. 12 tháng Âm Dương tiêu tức thăng giáng, chuôi sao Bắc Đẩu xoay
chuyển, đều do Thiên Tâm biến hoá. và sáu quẻ Lục Âm, Lục Dương 12 quẻ
Dịch điều động. Thế chẳng phải là Dịch thống Thiên Tâm hay sao.
Trên đây là lấy lời chú của Tham Đồng. Sáng sớm ngày Sóc (Mồng 1) là
Phục đến chỗ trở về Khôn Nguyên. Hay như mỗi tháng, giữa 2 ngày Hối Sóc
(30, và mồng 1), nhật nguyệt giao hội, mặt trăng nhận ánh sáng mặt trời,
mồng 1, mồng hai, mồng ba, bên cạnh
1 thể toàn đen, có một điểm vi dương sinh ra, tại quẻ là Chấn, hiện ra
vầng sáng như mày ngài (Nga Mi), tại Tây Bắc Canh Phương. Vì thế nói
Chấn nạp Canh. Dần dần đến mồng tám, thì 2 Dương sinh, tại quẻ là Đoài,
tượng cho ánh sáng sinh ra, một nửa gọi là Thượng huyền, hiện ra ở Nam
Phương Đinh địa, nên gọi là
Đoài nạp Đinh vậy. Đến ngày 15, thì đủ 3 Dương. Tại quẻ là Kiền. Ánh
sáng toàn vẹn, hiện ra ở Đông phương Giáp địa.
Vì thế nói Càn nạp Giáp. Dương cực sinh Âm, Chịu nép mình đi xuống. Đến
ngày 18, một Âm sinh ra dưới vầng sáng, tại quẻ là Tốn. Quang huy vừa bị
khuy khuyết, bình minh hiện ra phía Tây Phương Tân Địa. Cho nên nói Tốn
nạp Tân. Đến ngày 23, 2 Âm sinh, tại quẻ là Cấn, thế là ánh sáng khuyết
đi một nửa. Là Hạ Huyền của bình minh. Hiện ra nơi Nam Phương Bính Địa,
nên nói Cấn nạp Bính. Ngày 28, Dương còn một chút (Vi Dương) tiêu ở Đông
Bắc Ất Địa. Thế là quang huy hoàn toàn tiêu hết.
Đến ngày 30, Âm Khí thuần toàn. Tại quẻ là Khôn, vì thế nói Khôn nạp Ất.
Mặt trăng đến Tây Nam Canh phương, bắt đầu lại sinh quang. Dịch gọi thế
là Tây Nam đắc bằng. Đến Đông Bắc thì ánh sáng tiêu hết, nên Dịch nói
Đông Bắc táng bằng. Hối rồi lại Sóc. Âm cực sinh Dương. Chấn kế thể nên
lại sinh quang. Chung nhi phục thuỷ, Nhâm Quí phối Giáp Ất.
Kiền Khôn quát chung thuỷ là: Nhâm Dương, Quí Âm, Giáp Dương, Ất Âm.
Nhâm Thuỷ thanh, nên Khí Kiền Dương mới sinh. Quí thuỷ trọc, nên Kiền
Khôn chi khí biến hoá. Nhâm phối Giáp, thế nên Kiền nạp Giáp Nhâm vậy.
Quí phối Ất, nên Khôn nạp Ất Quí là vì vậy.
Mỗi tháng, 15 ngày đầu thưộc Dương, thuộc quẻ Kiền, 15 ngày sau thuộc
Âm, thuộc Khôn. Từ Chấn đến Kiền, từ Tốn đến Khôn, đều là quẻ Kiền Khôn
tam Âm. tam Dương, thống quát gót đầu 1 tháng. Kiền bao quát các hào
Dương từ Âm sinh ra, 7, 8, là 15. Khôn bao quát các hào Âm từ Dương sinh
ra, 9, 6 cũng là 15. 7, 8, 6, 9 cộng lại là 30. Đó là 1 vòng Dương Quang
diệt tàng. Đó là tượng hình cho mặt trăng doanh hư, tiêu tức, tiến thoái
khuất thân. Mà các quẻ Dịch 3 Âm, 3 Dương thống suất chúng vậy.
Tuy nói là Tam Âm, Tam Dương các quẻ thống suất chúng, nhưng kỳ thật là
2 quẻ Kiền Khôn thống suất chúng. Tuy nói là hai quẻ Kiền Khôn, nhưng kỳ
thực là Thiên Tâm nhất điểm sinh cơ thống suất chúng. Thế thì không phải
là Dịch Thống Thiên Tâm hay sao?
Đoạn này chú Tham Đồng Khế đoạn văn Hối Sóc chi gian, cho đến vi Dịch
nhi tông tổ hồ. Trên đậy là nói: Trong một năm, 1 tháng Âm Dương biến
hoá khuất thân, đều là tự nhiên, nhi nhiên, tất cả đều do Thiên Tâm vận
dụng. Vả Dương tiến và Duỗi là Thiên Tâm thư sướng, Âm thoái và Co là
Thiên Tâm quyển tàng. Dương chắc cho nên gọi là Thiên Tâm, Âm cũng không
thể không gọi là Thiên Tâm.
Dương theo đúng Thiên Tâm nên mới là Dương, Âm cũng theo Thiên Tâm mới
là Âm. Âm Dương đều xuất xứ từ Thiên Tâm. Thiên Tâm hợp nhất trong Âm
Dương, Âm Dương không có ở ngoài Thiên Tâm. Mà Thiên Tâm hiện ra đầu mối
chính là khi Tĩnh cực rồi bắt đầu Động, cho nên tượng trưng là tháng
giữa mùa Đông, lúc ấy thảo mộc đều như chết. Đó là Âm Cực vậy. Âm Cực
thì Dương phải sinh, cho nên Tiên Vương đến ngày Đông Chí thì đóng cửa
quan, các người buôn bán không được lại qua, nhà vua không đi tuần thú,
thâm tàng bất động, thế là giúp vi Dương, và dưỡng Sinh Cơ của Thiên Tâm
vậy.
Người tu đạo, nếu biết tuỳ thời, thuận tiết, như các vua xưa đóng cửa
quan ải, hư cực tĩnh đốc, thì khí Tiên Thiên sẽ tòng vô ra hữu, trong
đen sinh trắng, thì Thiên Tâm sẽ hiện ra như một hạt Thử Mễ Chi Châu,
hãy ôn dưỡng nó, nhờ nó mà thoát thai hoán cốt, mà trường sinh bất tử,
chắc có thể được.
Ôi! Chỉ có một câu Tuỳ thời, thuận tiết, mà hoàn thành được Kim Đơn
Diệu Chỉ, còn nói được gì hơn?. Cho nên có thể ngậm miệng, không cần bàn
luận chi cả. Kim đơn chi đạo, thuỷ chung chỉ là tu trì Thiên Tâm mà
thôi. Thiên Tâm chính là Đại Dược. Nếu biết Tuỳ Thời, Thuận Tiết, thì
Thiên Tâm sẽ Thường Tồn, từ mềm non, đến cứng cát, từ nhỏ cho tới lớn.
Càng lâu thì công trình càng thâm hậu, vĩnh viễn bất hoại. Thế cho nên
nói, Biết Một là xong tất cả. Cần gì nói nhiều?
Vả Thiên Đạo chi lý, thời hạo quảng vô biên, một khí Thái Huyền thì vô
hình vô dung, chí hư chí tịch, nhìn chẳng ra, lấy gì mà lập Phạm Vi,
Khuông Khuếch? Thiên Đạo, hay Thái Huyền đều là tên gọi khác của Thiên
Tâm. Thiên Tâm thì hư tịch không thể thấy được, nên không thể lập ra
khuông khuếch mà rào đón nó được.
Nếu mà cố gắng lạm bàn, thì sẽ có sai lầm, đánh mất sự vận hành tự nhiên
của Thiên Tâm hạo quảng hư tịch, cho nên nói nhiều chỉ làm bại hoại đức
độ. Cho nên không nói là tuyệt diệu nhất. Vả Đạo vốn vô ngôn, ngôn từ
cốt để hiển đạo. Nhưng nếu không nói thì làm sao tiếp dẫn cho bọn hậu
học. Cho nên mượn Kinh Dịch đặc biệt nói về Bốn Quẻ Kiền Khôn, Khảm Ly.
Coi một năm là Kiền Khôn vãng lai, một tháng là Khảm Ly Nhật Nguyệt hợp
ly, hiển lộ ra dược đầu mối của Thiên Tâm, để hướng dẫn cho bọn hậu thế
mù mờ.
Từ câu: Tượng bỉ Trọng Đông tiết đến câu Dĩ hiểu hậu sinh manh là để
giải ý Tham Đồng Khế luôn muốn tuân theo Địa Lý, đến đại ý câu Thiên Tải
thường tồn nhất đoạn đó là cốt lấy Thiên Tâm làm văn mạch, mượn một năm
Âm Dương, một tháng Doanh Khuy (Đầy Vơi), đề Diễn xuất Thiên cơ Nhất
Thần, Lưỡng Hóa. Đoạn cuối là đến chỗ Vô Hình, Vô Tượng, vô ngôn ngữ.
Thế là Thiên Tâm toàn Thần câu lộ. Cho nên nói rất Hạo Quảng, Vô hình
Dung, không thể thấy được, Chân Không hàm Diệu Hữu, Diệu Hữu nhưng lại
tàng ẩn Chân Không. Bản tượng của Thiên Tâm là như vậy. Thế là không nói
mà nói, thế là cách nói cao siêu nhất. Thế là tuy dựa vào lời của Tham
Đồng nhưng tiên Ông còn: phanh phui bí ẩn huyền vi mọi đời (Thám Trách
sách Ẩn), phát huy những gì Tham Đồng Khế chưa tỏ rõ, thế chính là Bạt
Thiên Căn nhi tạc Lý quật. Nhưng vẫn sợ người chưa hiểu, nên kết bằng
câu: Biệt tự tư Tứ Tượng dĩ hiểu hậu sinh manh, để học giả đi từ Hữu
Tượng cho tới Vô Tượng, từ Hữu hình tới Vô hình. Thật là Từ bi vậy.
»
Mục Lục
|
Thượng 1 2
3 4
5
6 7
8 |
Trung 1 2
3 4
5 |
Hạ 1 2
3 4
5 6
7
|