THƯỢNG KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30


 

VÀI LỜI NÓI VỀ HAI QUẺ KIỀN KHÔN

 

Dịch kinh gồm 64 quẻ, được chia ra làm hai phần:   Thượng kinh có 30 quẻ, và Hạ kinh có 34 quẻ.

Trong Thượng Kinh, có 2 quẻ đầu là Bát Thuần Kiền và Bát thuần Khôn, thì đặc biệt khác các quẻ sau.

Từ xưa tới nay, Kiền, Khôn được xếp rất lộn xộn như sau:

A. Thoán Từ

B. Hào Từ của 7 Hào (7 Hào thay vì 6 Hào ) Hào 7 gọi là Dụng Cửu.

C. Thoán Truyện.

D. Đại Tượng Truyện

E. Tiểu Tượng Truyện của 7 Hào .

F. Ngoài ra lại thêm phần Văn Ngôn, Bình giải lại Thoán Từ, Thoán Truyện và các Hào .

Phần Văn Ngôn nơi quẻ Kiền xếp lộn sộn hơn nữa. -Thoán a. - 6 Hào  a  -7 Hào  b. -7 Hào  c. -Thoán b. -6 Hào  d. Do đó, người đọc hết sức là nản, và nhiều khi không hiểu quẻ định  nói gì?   

Tôi (Tác giả) phải sắp xếp lại, cho có thứ tự, mạch lạc, theo đúng thứ tự từ Truân về sau.

I. Thoán

A. Thoán Từ. (Chính kinh của Văn vương)

B. Thoán Truyện (Lời giải thích của Khổng tử)

II. Đại Tượng Truyện (của Khổng tử)

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện (Các quẻ đều có 6 Hào, riêng quẻ Kiền Khôn có 7 Hào, (Hào 7 gọi là Hào Dụng Cửu)

IV. Văn Ngôn (Văn Ngôn chỉ riêng quẻ Kiền, Khôn có mà thôi) 

Văn Ngôn tôi xếp lại như sau:

-Thoán cả 2 đoạn a & b.

-Hào  1a, 1b, 1c, 1d, -Hào  2a, 2b, 2c, 2d,

-Hào  3a, 3b, 3c, 3d, -Hào  4a, 4b, 4c, 4d,

-Hào  5a, 5b, 5c, 5d, -Hào  6a, 6b, 6c, 6d,

-Hào  Dụng Cửu 7a, 7b.

 

Nơi Thượng kinh, sau phần Hán văn, tôi sẽ dịch quẻ Kiền, Khôn theo tuần tự Thoán, Đại Tượng v. v. . . bằng thơ toàn quẻ trước,(vì 2 quẻ Kiền Khôn quá dài), tiếp là phần Bình Giảng toàn quẻ. (Từ xưa tới nay, chưa có 1 Dịch giả nào dịch phần Hán văn ra Việt văn cả, mà chỉ Bình giảng không mà thôi)  Cuối quẻ, là phần Áp dụng theo Thời đại.

Tôi để phần dịch sau phần Hán Văn, tiếp theo là phần Bình Giảng, đoạn nào xếp theo đoạn đó. Tôi nghĩ như vậy sẽ dễ hiểu, dễ nhớ hơn.  Mỗi đoạn trong quẻ như: Thoán, Tượng, Hào đều xếp đặt theo thứ tự sau:

1/ Hán Văn.

2/ Phiên âm Hán văn.

3/ Dịch phiên âm đó bằng thơ.

4/ Bình giảng đoạn đó. 

Cuối quẻ là phần Áp dụng quẻ vào Thời đại. Mong sự xắp xếp trên sẽ làm vừa lòng quí vị độc giả. 

Nhân tử Nguyễn văn Thọ & phu nhân Huyền Linh Yến Lê cẩn chí.


 

 1. 乾 為 天  KIỀN VI THIÊN 

Bát ThuẦn KiỀn 

I. Thoán

Thoán Từ.

.   亨 利  .

Kiền. Nguyên hanh lợi trinh.

Dịch:

Kiền là cội gốc muôn loài.

Làm cho vạn vật tốt tươi mọi đường.

Làm cho lợi ích hanh xương.

Lại cho thành tựu vô cương mới là.

Thoán Truyện.

彖 曰 . 大 哉 乾 元 . 萬 物 資 始 . 乃 統 天 . 云 行 雨 施 . 品 物 流 形 . 大 明 始 終 .六 位 時 成 . 時 乘 六 龍 以 御 天 . 乾 道 變化 . 各 正 性 命 . 保 合 大 和 . 乃 利 貞 . 首 出 庶物 . 萬 國 咸 寧 .

Thoán viết. Đại tai Kiền nguyên. Vạn vật tư thủy. Nãi thống Thiên. Vân hành vũ thí. Phẩm vật lưu hình. Đại minh chung thủy. Lục vị thời thành. Thời thừa Lục long dĩ ngự thiên. Kiền Đạo biến hóa. Các chính tính mệnh. Bảo hợp Thái hoà. Nãi lợi trinh. Thủ xuất thứ vật. Vạn quốc hàm ninh.

Thoán viết: 

Lớn thay là cái gốc trời!

Làm cho vạn vật, vạn loài sinh sôi

Kiền nguyên tóm hết Đạo Trời.

Tóm thâu Thiên Đạo, khúc nhôi sinh thành.

Rồi ra vũ thí, vân hành,

Làm cho vạn vật  hình thành đòi nơi.

Thánh Nhân thấu suốt đầu đuôi.

Biết sáu giai đoạn cơ trời biến thiên.

Thế là cưỡi sáu rồng thiêng,

Vượt muôn biến hóa, băng miền trời mây.

Cơ Trời biến hóa vần xoay, 

Làm cho vạn vật thêm hay, thêm tình.

Kiện toàn tính mệnh của mình,

Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho.

Thế là lợi ích không bờ.

Thế là vĩnh cửu, thế là lợi trinh.

Thánh nhân vượt trổi chúng sinh.

Làm cho muôn nước an bình khắp nơi.

II.  Đại Tượng Truyện

象 曰 . 天 行 健 . 君 子 以 自 疆 不 息 .

Tượng viết: Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức.

Tượng rằng:

Trời cao mạnh mẽ xoay vần.

Nên người quân tử quyết tâm tự cường.

Không hề ngưng nghỉ triển dương . . .

III. Hào  Từ & Tiểu Tượng Truyện

1. Hào  Sơ Cửu.

初 九 .     潛 龍 . 勿 用 .

象 曰 .     潛 龍 勿 用 . 陽 在 下 也

Sơ Cửu. Tiềm long vật dụng.

Tượng viết.

Tiềm long vật dụng. Dương tại hạ dã.

Dịch:

Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng.

Tượng rằng: Rồng ẩn chớ dùng.

Là vì Dương hãy còn nằm dưới Sơ.

2. Hào  Cửu nhị.     

九 二 .     見 龍   在田 . 利 見 大 人 .

象 曰.      見 龍 在  . 德 施 普 也

 

Cửu nhị. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân.

Tượng viết.

Hiện long tại điền. Đức thi phổ dã.

Dịch:

Rồng hiện trong đồng.

Nếu mà gặp đấng Cửu trùng thời hay

Tượng rằng: Rồng hiện trong đồng

Thi ân, bá đức, xa gần đã hay.

3. Hào  Cửu tam.

九 三 .      君 子 終 日 乾 乾 . 夕 惕 若 . 厲 無 咎 .

象 曰 .      終 日 乾 乾 . 反 復 道 .

Cửu tam. Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ. Vô cữu.

Tượng viết.

Chung nhật kiền kiền. Phản phục Đạo dã.

Dịch:

Suốt ngày quân tử lo toan,

Chiều buông, dạ vẫn bàng hoàng chửa yên.

Sự đời nguy hiểm tần phiền.

Nhưng ta trọn Đạo một niềm lỗi chi?

Tượng rằng:  Suốt buổi lo toan,

Ấy là đắp đổi sớm hôm Đạo trời.

4. Hào  Cửu tứ.

九 四 .      或 躍 在 淵 . .

象 曰 .      或 躍 在 淵 . 進 無 咎 也 .

Cửu tứ. Hoặc dược tại uyên. Vô cữu.

Tượng viết.

Hoặc dược tại uyên. Tiến vô cữu dã.

Dịch: 

Vẫy vùng trong chốn vực sâu.

Vực sâu vùng vẫy, có đâu lỗi lầm.

Tượng rằng:  Vùng vẫy vực sâu.

Tiến lên nào có lỗi đâu cho mình.

5.  Hào  Cửu ngũ.

九 五 .      飛 龍 在 天 . 利 見 大 人 .

象 曰 .      飛 龍 在 天 . 大 人 造 也 .

Cửu ngũ. Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân.

Tượng viết.

Phi long tại thiên. Đại nhân tạo dã.

Dịch:

Rồng bay, bay bổng trên trời,

Đại nhân gặp được nữa thời càng hay.

Tượng rằng:

Rồng bay, bay bổng khung trời,

Đại nhân đang độ trổ tài kinh luân.

6. Hào  Thượng Cửu.

上 九 .       亢 龍 有 悔 .

象 曰 .       亢 龍 有 悔 . 盈 不 可 久 也 .

Thượng Cửu. Kháng long hữu hối.

Tượng viết.

Kháng long hữu hối. Doanh bất khả cửu dã.

Dịch:

Rồng bay quá trớn chẳng hay.

Rồng bay quá trớn, có ngày ăn năn.

Tượng rằng:  Rồng bay quá trớn ăn năn,

Đầy rồi, sao có khả năng cửu trường?

7. Hào  Dụng Cửu.

用 九 .       見 群 龍 無 首 . .

象 曰 .       用 九 . 天 德 不 可 為 首 也 .

Dụng Cửu. Kiến quần long vô thủ. Cát.

Tượng viết.

Dụng Cửu. Thiên đức bất khả vi thủ dã.

Dịch:

Đàn rồng chẳng có con đầu,

Sự tình đến thế, thời âu tốt lành.

Tượng rằng: 

Rồng bay chẳng có con đầu,

Thế là thiên đức bằng nhau còn gì!

IV. VĂN  NGÔN

I. VĂN NGÔN bình giải Thoán Từ, Thoán Truyện

A. Thoán Từ

文 言 曰 . 元 者 . 善 之 長 也 . 亨 者 . 嘉 之 會 也 . 利 者 .   之 和 也 . 貞 者 . 事 之     . 子 體 仁 . 足 以 長 人 . 嘉 會 足 以 合 禮 . 利 物 足 以 和 義 . 貞 固 . 足 以榦  . 君 子 行 此     .   乾 元 亨 利 貞 .

 Văn Ngôn viết. Nguyên giả. Thiện chi trưởng dã. Hanh giả. Gia chi mỹ dã. Lợi giả. Nghĩa chi hòa dã. Trinh giả. Sự chi cán dã.  Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân. Gia hội túc dĩ hợp lễ. Lợi vật túc dĩ hòa nghĩa. Trinh cố túc dĩ cán sự.  Quân tử hành thử tứ đức giả. Cố viết. Kiền. Nguyên. Hanh. Lợi. Trinh.

Dịch: 

1. Nguyên là tốt nhất trần ai.

Hanh là muôn vẻ đẹp tươi hội về

Lợi là nghĩa lý đề huề

Trinh là gốc gác mọi bề ở ăn. 

2. Mới hay quân tử thể nhân,

Tinh tuyền đức hạnh, xa gần phục theo.

Hành vi đẹp đẽ mọi chiều,

Hợp theo nghi lễ, chẳng điều sai ngoa,

Làm cho lợi ích gần xa,

Theo đường nghĩa lý, hợp hòa dưới trên.

Một lòng cương quyết vững bền.

Việc gì cũng sẽ chu tuyền công lao.

3. Giữ tròn tứ đức trước sau,

Đã là quân tử gót đầu chẳng quên.

Thế là đức hạnh tinh tuyền.

Càn, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh đem thực hành.

B. Thoán Truyện

乾 始 能 以 美 利 利 天 下,不 言 所 利。大 矣 哉!大 哉 乾 乎?剛 健 中 正,純 粹 精 也。六 爻 發 揮,旁 通 情 也。時 乘 六 龍 以 御 天 也。雲 行 雨 施,天 下 平 也。

Kiền nguyên giả. Thủy nhi hanh giả dã. Lợi trinh giả. Tính tình dã. Kiền thủy năng dĩ mỹ lợi thiên hạ. Bất ngôn sở lợi. Đại hỹ tai. Đại tai kiền hồ. Cương kiện trung chính. Thuần túy tinh dã. Lục Hào  phát huy. Bàng thông tình dã. Thời thừa Lục long dĩ ngự thiên dã. Vân hành vũ thí. Thiên hạ bình dã.

Dịch:

1. Càn là cội rễ mối manh,

Đã sinh rồi lại tác thành quần sinh.

Làm cho vạn vật xương vinh,

Làm cho vạn vật tính tình thoả thuê.

Được hay, được lợi mọi bề,

Lại cho Trường Cửu, chẳng hề đơn sai.

Sinh rồi cho đẹp, cho lời.

Làm lời thiên hạ, không nhời khoe khoang.

Thật là cao đại muôn vàn.

2. Đạo trời trọng đại xiết bao!

Cương cường, trung chính, bề nào cũng hay

Tinh toàn, hoàn thiện xưa nay,

Tinh hoa thuần túy, ai tầy ai đương.

3. Sáu Hào  lần lượt hiển dương.

Nào tình, nào ý, tận tường vân vi.

4. Tùy thời biến ảo, suy di.

Sáu rồng lần cưỡi đi về trời mây.

Mưa rơi, thôi lại mây bay,

Làm cho vạn vật, đó đây thái bình.

 

II. Văn Ngôn bình giải các Hào

1. Hào  Sơ Cửu.  

 a)  初 九 曰: 「潛龍 勿 用。」何 謂 也?

          子 曰: 「龍 德 而 隱 者 也。不 易 乎 世,不 成 乎 名

                        遯  世 無 悶, 不 見 是 而 無 悶。 樂 則 行 之,

                        憂 則 違 之。確 乎 其 不 可 拔,乾 龍 也。」

Sơ Cửu viết. Tiềm long vật dụng hà vị dã?

Tử viết. Long đức nhi ẩn giả dã. Bất dịch hồ thế. Bất thành hồ danh. Độn thế vô muộn. Bất kiến thị nhi vô muộn. Lạc tắc hành chi. Ưu tắc vi chi. Xác hồ kỳ bất khả bạt. Tiềm long dã.

Dịch:

a)-  Sơ rằng: Rồng ẩn chớ dùng,

Tại sao rồng ẩn, chẳng ưng thi tài?

Đức Khổng đáp:

Đức cao mà lại ẩn mình,

Đời thay, mình vẫn là mình chẳng thay.

Tiếng tăm chẳng bợn mảy may.

Đời không biết tiếng, mà nay chẳng buồn,

Chẳng cầu danh vọng trần hoàn,

Gặp thời, Đạo lý âu mang thi hành,

Thời cơ chẳng thuận cho mình,

Âu cùng Đạo lý mai danh ẩn tàng.

Luôn luôn khí phách đường hoàng;

Chẳng gì khuynh đảo tâm xoang của người.

Ấy là rồng ẩn trong đời. 

b)  乾 龍 勿 用,下 也。

Tiềm long vật dụng hạ dã.

Dịch:

Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng,

Rồng còn ở dưới, vẫy vùng chửa nên.

c) 乾 龍 勿 用,陽 氣 潛 藏。

Tiềm long vật dụng. Dương khí tiềm tàng.

Dịch:

 Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng,

Là vì Dương khí còn trong tiềm tàng. 

d) 君 子 以 成 德 為 行,日 可 見 之 行 也。潛 之 為 言 也,隱 而 未 見,行 未 成,是 以 君 子 弗 用 也。

Quân tử dĩ thành đức vi hành. Nhật khả kiến chi hành dã. Tiềm chi vi ngôn dã. Ẩn nhi vị hiện. Hành nhi vị thành. Thị dĩ quân tử phất dụng dã.

Dịch:

Thuận theo Thiên đức thi hành.

Hàng ngày quân tử đinh ninh chẳng rời.

Tiềm tàng là lánh truyện đời;

Khi mà công việc đang thời dở dang.

Vậy nên quân tử chưa làm.

Khi chưa gặp vận, tiềm tàng là hay. 

2. Hào  Cửu nhị.

a)  九 二 曰: 「見 龍 在 田,利 見 大 人。」何 謂 也?

         子 曰: 「龍 德 而 正 中 者 也。庸 言 之 信,庸 行 之 謹,

                       閑 邪 存 其 誠,善 世 而 不 伐,德 博 而 化。

                       易 曰:「見 龍 在 田,利 見 大 人。」君 德 也。」

Cửu nhị viết. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân hà vị dã. Tử viết. Long đức nhi chính trung giả dã.  Dung ngôn chi tín. Dung hạnh chi cẩn. Nhàn tà tồn kỳ thành. Thiện thế nhi bất phạt. Đức bác nhi hóa.

Dịch viết. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân. Quân đức dã.

Dịch:

Hào  hai rồng hiện trong đồng,

Nếu mà gặp đấng Cửu trùng thời hay.

Nghĩa là làm sao?

Đức Khổng đáp:

Thế là đức hạnh cao dầy

Lại thêm trung chính, thẳng ngay, hoàn toàn.

Nói ra lời đã đủ tin.

Việc làm thường nhật trang nghiêm, hẳn hòi.

Thấy điều tà khuất xa rời,

Cố công giữ vẹn tính Trời mới nghe.

Chỉnh trang thời thế, chẳng khoe,

Đức nhân cảm hóa mọi bề gần xa.

Dịch rằng: đồng ruộng rồng ra,

Đại nhân nếu gặp thật là mắn may.

Đại nhân nói tới nơi đây,

Chính là Thiên tử, đấng thay quyền trời.

b)  見 龍 在 田,時 舍 也。

Hiện long tại điền. Thời xả dã.

Dịch:

Hào  hai rồng hiện trong đồng,

Ấy là thời thế chưa dùng người nhân.

c)  見 龍 在 田,天 下 文 明。

Hiện long tại điền. Thiên hạ văn minh.

Dịch:

Hào  hai rồng hiện trong đồng,

Thế gian nhờ đó tưng bừng văn minh.

d)  君 子 學 以 聚 之,問 以 辯 之,寬 以 居 之,仁 以 行 之。

     易 曰: 「見 龍 在 田,利 見 大 人。」君 德 也。

Quân tử học dĩ tụ chi. Vấn dĩ biện chi. Khoan dĩ cư chi. Nhân dĩ hành chi.

Dịch viết. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân. Quân đức dã. 

Dịch:

Học hành quân tử lo toan,

Học hành cốt để vẹn toàn kiến văn.

Hỏi han rành rẽ, biện phân.

Bao dung, khoáng đạt, đức nhân huy hoàng.

Dịch rằng: rồng hiện trong đồng,

Nếu mà gặp được Cửu trùng thời hay,

Đại nhân nói tới nơi đây,

Ấy là Thiên tử, đấng thay quyền Trời. 

3. Hào  Cửu tam.

a) 九 三 曰: 「君 子 終 日 乾 乾,夕 惕,若 厲,無 咎。」何 謂 也?

        子 曰: 「君 子 進 德 修 業,忠 信,所 以 進 德 也。修 辭 立 其 誠,

                      所 以 居 業 也。知 至 至 之,可 與 幾 也。知 終 終 之,

                      可 與 存 義 也。是 故,居 上 位 而 不 驕,

                      在 下 位 而 不 憂。故 乾 乾 因 其 時 而 惕,

                      雖 危 而 無 咎 矣。」

Cửu tam viết. Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ vô cữu. Hà vị dã?

Tử viết. Quân tử tiến đức tu nghiệp. Trung tín. Sở dĩ tiến đức dã. Tu từ lập kỳ thành. Sở dĩ cư nghiệp dã. Tri chí chí chi. Khả dữ cơ dã. Tri chung chung chi. Khả dữ tồn nghĩa dã. Thị cố cư thượng vị nhi bất kiêu. Tại hạ vị nhi bất ưu. Cố  kiền kiền  nhân kỳ thời nhi dịch. Tuy nguy vô cữu hĩ.

Dịch: 

Suốt ngày quân tử lo toan,

Chiều buông, dạ vẫn bàng hoàng chửa yên.

Sự đời nguy hiểm, tần phiền,

Nhưng ta trọn Đạo một niềm, lỗi chi? 

Thế nghĩa là làm sao?

Đức Khổng đáp:

Đức mình, quân tử trau dồi,

Đồng thời sự nghiệp, chẳng ngơi kiện toàn,

Muốn cho đức cả huy hoàng,

Một niềm trung tín, sắt son ai tầy,

Sửa sang lời nói cho ngay,

Nói lời thành tín, nghiệp xây vững bền.

Biết nơi phải đến, đến liền,

Thế là biết được cơ duyên ở đời.

Biết tìm chung cuộc hẳn hoi,

Thấy rồi thực hiện, lẽ Trời đành hay.

Cho nên quân tử xưa rầy,

Cao không ngạo nghễ, thấp nay chẳng buồn.

Những là hoạt động, lo toan,

Tùy thời, xử thế, khôn ngoan đề phòng.

Lâm nguy, vẫn vẹn tác phong,

Không hề lầm lỗi, ai hòng cười chê. 

b)  終 日 乾 乾,行 事 也 

Chung nhật kiền kiền. Hành sự dã.

Dịch:

Suốt ngày lo lắng, tính toan,

Ấy là sốc vác, lam làm liên canh.

c) 終 日 乾 乾,與 時 偕 行。 

Chung nhật kiền kiền. Dữ thời giai hành.

Dịch:

Suốt ngày lo lắng, tính toan,

Thế là theo nhịp thời gian tiến dần.

d)  九 三:   重 剛 而 不 中,上 不 在 天,下 不 在 田。 

                 故 乾 乾 因 其 時 而 惕,雖 危 無 咎 矣。

Cửu tam. Trùng cương nhi bất trung. Thượng bất tại thiên. Hạ bất tại điền. Cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch. Tuy nguy vô cữu hĩ.

Dịch:

Cửu tam: Cương cường, nhưng lại bất trung,

Cao không tới, thấp không thông, mới rầy.

Biết lo, biết lắng, mới hay,

Lo làm công chuyện, suốt ngày quản bao.

Dẫu nguy, nào lỗi chi nào,

Tuy rằng nguy hiểm, ai nào trách ta. 

4. Hào  Cửu tứ.

a)  九 四: 「或 躍 在 淵, 無 咎。」何 謂 也?

    子 曰: 「上 下 無 常,非 為 邪 也。進 退 無 恆,非 離 群 也。

                  君 子 進 德 修 業,欲 及 時 也,故 無 咎。」

Cửu tứ. Hoặc dược tại uyên. Vô cữu. Hà vị dã.

Tử viết. Thượng hạ vô thường. Phi vi tà dã. Tiến thoái vô hằng. Phi ly quần dã. Quân tử tiến đức tu nghiệp. Dục cập thời dã. Cố vô cữu. 

Dịch: 

Vẫy vùng trong chốn vực sâu,

Vực sâu vùng vẫy, có đâu lỗi lầm?

Thế nghĩa là làm sao?

Đức Khổng đáp:

Sự đời lên, xuống bất kỳ,

Miễn sao tránh khỏi tà phi, được rồi.

Cũng khi tiến thoái, tùy thời,

Luôn luôn giữ vẹn tính Trời, mới hay.

Con người quân tử xưa nay,

Nghiệp tu, đức tiến, kịp ngay với đời.

Đã theo kịp được thời Trời,

Làm sao có thể lầm sai được nào? 

b)  或 躍 在 淵,自 試 也。

Hoặc dược tại uyên. Tự thí dã.

Dịch:

Vẫy vùng ở chốn vực sâu,

Tự mình thử thách xem bao đức tài?

c)  或 躍 在 淵,乾 道 乃 革。

Hoặc dược tại uyên. Kiền Đạo nãi cách.

 Dịch:

 Vẫy vùng ở chốn vực sâu,

 Ấy là Thiên Đạo có mầu đổi thay.

d) 九 四:  重 剛 而 不 中, 上 不 在 天,下 不 在 田,中 不 在 人,

              故 或 之。或 之 者,疑 之 也,故 無 咎。

Cửu tứ. Trùng cương nhi bất trung. Thượng bắt tại thiên. Hạ bất tại điền. Trung bất tại nhân. Cố hoặc chi. Hoặc chi giả. Nghi chi dã. Cố vô cữu. 

Dịch: Cửu tứ: 

Trùng Cương mà lại bất trung,

Trên không thông, dưới không thông, mới rầy

Xa Trời, xa đất, xa người,

Cho nên trong dạ có bài nghi nan.

Đã nghi, thời sẽ khôn ngoan,

Khôn ngoan, nên thoát đa đoan, lỗi lầm. 

5. Hào  Cửu ngũ.

a) 九 五 曰:「飛 龍 在 天,利 見 大 人。」何 謂 也?

        子 曰: 「同 聲 相 應,同 氣 相 求;水 流 濕,火 就 燥;雲 從 龍,

                     風 從 虎。聖 人 作,而 萬 物 睹,本 乎 天 者 親 上,

                    本 乎 地 者 親 下,則 各 從 其 類 也。

Cửu ngũ viết. Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân. Hà vị dã.

Tử viết. Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu. Thủy lưu thấp. Hỏa tựu táo. Vân tòng long. Phong tòng hổ. Thánh Nhân tác nhi vạn vật đổ. Bản hồ thiên giả thân thượng. Bản hồ địa giả thân hạ. Tắc các tòng kỳ loại dã. 

Dịch: 

Rồng bay, bay bổng lưng trời,

Đại nhân gặp được, nữa thời càng hay.

Thế nghĩa là làm sao?

Đức Khổng đáp:

Dạy rằng đồng khí tương cầu,

Đồng thanh tương ứng, trước sau lẽ Trời.

Nước tìm chỗ ướt chẩy xuôi,

Lửa thời cao ráo, là nơi hướng về.

Mây theo rồng, mới thỏa thuê,

Gió theo được hổ, đề huề mới nên.

Thánh Nhân hoạt động chính chuyên,

Để cho vạn vật nhìn xem bấy chầy.

Gốc Trời hướng thượng xưa nay,

Gốc Đất hướng hạ, chẳng thay, chẳng rời.

Thế là loài lại theo loài,

Loài nào, loài ấy có sai bao giờ.  

b)  飛 龍 在 天,上 治 也。

Phi long tại thiên. Thượng trị dã.  

Dịch:

Rồng bay, bay bổng khung trời,

Thế là chính cách trị đời cao siêu.

c)  飛 龍 在 天,乃 位 乎 天 德

Phi long tại thiên. Nãi vị hồ thiên đức. 

Dịch:

Rồng bay, bay bổng khung trời,

Thế là theo đúng đức trời ở ăn.

d) 夫 大 人 者,與 天 地 合 其 德,與 日 月 合 其 明,與 四 時 合 其 序,與 鬼 神 合 其 吉 凶。先 天 而 天 弗 違,後 天 而 奉 天 時。天 且弗 違,而 況 於 人 乎? 況 於 鬼 神 乎?

Phù đại nhân giả. Dữ thiên địa hợp kỳ đức. Dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh. Dữ tứ thời hợp kỳ tự. Dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung. Tiên thiên nhi thiên phất vi. Hậu thiên nhi phụng thiên thời. Thiên thả phất vi. Nhi huống ư nhân hồ. Huống ư quỉ thần hồ?  

Dịch: 

Đại nhân đức hạnh bao la,

Như Trời, như Đất cao xa muôn trùng.

Sáng như Nhật Nguyệt hai vừng,

Sống đời tiết tấu, hợp khung bốn mùa.

Những điều lành, dữ, ghét, ưa,

Quỷ thần đường lối đem so khác nào.

Trước Trời, Trời chẳng trách đâu,

Sau Trời, cho hợp cơ mầu thời gian.

Trời không trách cứ, phàn nàn,

Thời người còn dám than van, nỗi gì?

Trời, Người, chẳng trách, chẳng chê,

Quỷ thần âu cũng chẳng hề oán than.  

6. Hào  Thượng Cửu.

a) 上 九 曰:「亢 龍 有 悔。」何 謂 也?

子 曰:「貴 而 無 位,高 而 無 民,賢 人 在 下 而 無 輔,是 以 動 而 有 悔 也。」

Thượng Cửu viết. Kháng long hữu hối. Hà vị dã? 

Tử viết. Quí nhi vô vị. Cao nhi vô dân. Hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ. Thị dĩ động nhi hữu hối dã.

Dịch: 

Rồng bay quá trớn ăn năn,

Câu này phải hiểu nghĩa rằng thế nao?

Tử rằng: Quí lại không ngôi,

Tuy cao mà chẳng có người, có dân.

Thiếu người phù ủng, đỡ dần,

Hiền nhân ở dưới, chẳng nâng đỡ người

Người mà như vậy, thời thôi,

Làm chi âu cũng có hồi ăn năn.  

b)  亢 龍 有 悔,窮 之 災 也。

Kháng long hữu hối. Cùng chi tai dã. 

Dịch:

Rồng bay quá trớn ăn năn,

Đến cùng, đến cực, đành rằng nguy tai.

c)  亢 龍 有 悔,與 時 偕 極。

Kháng long hữu hối. Dữ thời giai cực.

Dịch:

Rồng bay quá trớn ăn năn,

Những là hao kiệt tâm thân theo thời.

d) 亢 之 為 言 也,知 進 而 不 知 退 ,知 存 而 不 知 亡,知 得 而 不 知 喪。其 唯 聖 人 乎?知 進 退 存 亡,而 不 失 其 正 者,其 為 聖 人 乎?

Kháng chi vi ngôn dã. Tri tiến nhi bất tri thoái. Tri tồn nhi bất tri vong. Tri đắc nhi bất tri táng. Kỳ duy Thánh Nhân hồ!  Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chính giả. Kỳ duy Thánh Nhân hồ! 

Dịch: 

Rồng bay quá trớn hóa sui,

Ấy là biết tiến, mà lui chẳng tường

Chẳng hay sống, chết, đôi đường.

Sống thời biết sống, chết nhường chẳng hay.

Nguyên là muốn được mãi đây,

Chẳng bao giờ muốn có ngày mất đi.

Thánh Nhân riêng hiểu cơ vi,

Tồn vong, tiến thoái, minh tri cơ Trời.

Tiến lui, luôn hợp lẽ Trời,

Tới lui hợp lý, ai ngoài Thánh nhân?  

7. Hào  Dụng Cửu

a) 乾 元 用 九,天 下 治 也。

Kiền nguyên dụng Cửu. Thiên hạ trị dã.

 Dịch:

Kiền nguyên biến hoá xong rồi,

Bấy giờ thiên hạ nơi nơi trị bình.

b)  乾 元 用 九,乃 見 天 則。

Kiền nguyên dụng Cửu. Nãi kiến thiên tắc.

 Dịch:

 Kiền nguyên biến hóa xong rồi,

Bấy giờ mới thấy Luật Trời hiện ra.

BÌNH  GIẢNG

Muốn hiểu quẻ Kiền cũng như các quẻ Dịch sau này, trước hết phải hiểu bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

A. các quẻ ngoài Kiền và Khôn, thời Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh được bình giảng như sau:

-Nguyên là lớn mạnh, hào  hùng, cao đại.

-Hanh là thông suốt, chôi chẩy, không bị bế tắc.

-Lợi là lợi ích, hay thích nghi, thích đáng.

-Trinh là chính, là bền (Trinh cố, chính trực, bền vững)  Chúng dạy ta bài học thực tế sau đây:

Ở đời muốn thoát khỏi mọi bế tắc, muốn lướt thắng được mọi trở lực, chúng ta phải lớn, phải mạnh. Muốn được lợi ích lâu bền, và đích thực, phải theo chính Đạo, Chính Lý.

B. Nhưng ở quẻ Kiền, và Khôn, thời Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh lại có nghĩa khác:

- Nguyên là nguyên thủy, căn do, gốc gác.

- Hanh là biến hoá, trường thịnh, hanh thông.

- Lợi là thoải mái, ích lợi.

- Trinh là thành đạt, bền vững, vĩnh cửu.

Tiên Nho thường dùng bốn chữ này, để mô tả bốn giai đoạn của cuộc Tiến Hoá quần sinh:

-Căn nguyên Trời làm cho vạn vật trổ sinh. (Nguyên)

- Nhờ căn nguyên ấy, nhờ nguồn sống vô biên ấy, vạn vật trở nên lớn mạnh, phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực. (Hanh)

- Nhờ vậy sẽ có những ứng dụng vô biên, và sẽ được thoải mái, thảnh thơi, toại ý.(Lợi)

- Cuối cùng sẽ đi đến chỗ thành tựu, đến chỗ hoàn thiện. (Trinh) 

Như vậy chỉ dùng bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh mà vẽ được tất cả vòng biến thiên, tiến hoá của Trời Đất, từ lúc manh nha (Nguyên) cho đến lúc kết quả (Trinh)

Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh ứng vào bốn mùa là Xuân, Hạ, Thu, Đông;  ứng vào tiết tấu biến dịch là Sinh, Trưởng, Liễm, Tàng.

Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh nơi con người ứng vào tứ đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Nói cách khác, Nguyên Tận thiện, Hanh Tận Mỹ, Lợi là Thái Hòa, Trinh Hoàn Thiện

Nơi vũ trụ, thì vòng tiến hoá có chiều phóng xuất. Tiên Nho gọi là Xuất cơ, nó gồm Nguyên, Hanh. Và chiều Nhập cơ, nó gồm Lợi, Trinh.

Nơi con người, thì vòng Tiến Hoá bắt đầu từ căn bản con người, là Thiên Tâm (Nguyên), diễn biến dần dần qua các bình diện Tâm, Trí, Xác, Gia đình, Quốc gia, Xã hội, Hoàn cảnh, Vật Chất, để cuối cùng lại quay trở về các bình diện nội tâm, tình, tính, để cho con người nhập thần, đạt Thiên Vị. Vì thế Dịch nói: Lợi trinh tính, tình dã (Văn Ngôn)

Thánh nhân là người đã nhận chân được cái căn nguyên Trời nơi lòng mình, nên sẽ dùng không gian, thời gian, hoàn cảnh làm môi trường, để phát huy mọi khả năng biến hóa của mình, để đi tới tận thiện, chỉ dạy cho con người đi đến tận thiện, làm cho mọi người sống trong cảnh thái bình, hoan lạc. Cho nên HỌC DỊCH ĐỂ BIẾT CĂN CỐT MÌNH, BIẾT MỤC PHIÊU MÌNH PHẢI ĐẠT TỚI, BIẾT NHỬNG PHƯƠNG TIỆN MÌNH CÓ THỂ CÓ, ĐỂ THỰC HIỆN MỤC PHIÊU ẤY.

Căn cốt mình là  Kiền nguyên, tức là Tính Trời, Căn Trời. Mục phiêu mình phải liễu đạt là THIÊN TÍNH, THIÊN VỊ. Phương tiện mình có thể dùng là không gian, thời gian, hoàn cảnh, các khám phá của tiền nhân, sự cố gắng của chính mình, sức biến hóa của chính mình và của vũ trụ. Mạnh Tử nói:Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu. Thuấn (Ta học Dịch phải có mục đích làm Đại nhân như Nghiêu, Thuấn) Thật là chí lý vậy.

Quẻ Kiền bàn về: 

A- Trời, và Đạo Trời.

B- Thánh Nhân.

C-  Quân tử.

D-  Những nguyên tắc tổng quát để tu thân, xử thế.

A. - VẤN ĐỀ TRỜI

Trước tiên, ta phải nhận định rằng người xưa có nhiều thành ngữ để chỉ Trời, để chỉ Tuyệt Đối, hay Thực Thể của vũ trụ

-Khi muốn đề cập đến Trời một cách tổng quát thì gọi là Đạo.

-Khi nói đến tính tình của Trời, thì dùng chữ Kiền.

-Khi nói đến hình thể Trời thì dùng chữ Thiên.

-Khi dề cập đến Trời như vị chủ tể, thì dùng chữ Đế.

-Khi muốn về các hoạt động, các sự biến hóa của Trời thì dùng hai chữ Quỷ Thần.

-Khi nói về diệu dụng của Trời thì dùng chữ Thần.

-Khi xét về phương diện bản thể của vũ trụ, thì gọi là Dịch.

Dịch kinh muốn người bắt chước Trời, nên giống như Trời. Cho nên, nói về Trời, về tính Trời, thì dùng những  chữ  Cương  kiện, Trung  chính, Thuần  túy, Chí tinh.

Dạy người, thì muốn cho người luôn luôn cương kiện, luôn luôn gắng gỏi công trình, thực hiện được trung chính, thực hiện thấu đáo được tinh hoa của Trời Đất, để rốt ráo trở nên thuần túy, chí thiện. Đó cũng là chủ trương của Đại Học và Trung Dung.

Cho nên, Dịch không phải dạy nghề bói toán để ta có một kế mưu sinh đoạn tháng, qua ngày, mà chính là trao cho con người một phương pháp để trở về với Trời, muốn cho con người trở nên Khiết, Tinh, Tinh vi, biến hóa theo thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh, chứ không phải để cho thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh lôi cuốn, mà ngược lại dùng tuổi tác, hoàn cảnh, thời gian, lịch sử làm công cụ để siêu phàm, nhập thánh.

Bàn về Đạo Trời, Văn Vương dùng có 5 chữ Kiền, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Thực là vắn tắt hết sức, mà cũng hàm súc hết sức. Giải rộng ra, ta thấy Trời là nguồn gốc sinh ra muôn loài, làm cho muôn loài xương vinh, toại ý, để cuối cùng đạt được lý tưởng hoàn thiện, tinh hoa, và Trường Cửu vô biên.

Muốn thực hiện mục phiêu ấy, Trời dùng sự biến hóa, biến dịch tức là hiển lộ thần thông, phép tắc, để muôn loài theo đà thời gian, theo trào lưu Tiến Hoá, dần dần sẽ thực hiện được trạng thái thái hoà lý tưởng cuối cùng, theo ý Trời. Vì thế  Thoán  nói:

Kiện toàn Tính mệnh của mình.

Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho.

 Mới hay:

Thóc gieo thành lúa, thành bông.

Tuần hoàn, thóc vẫn thủy chung là mình.

Trời dầu vạn trạng, thiên hình,

Nhưng mà chung thủy, sự tình chẳng hai. . .   

B. ĐẠO THÁNH  NHÂN

Dịch kinh và Chư Nho chủ trương:

1. Thánh Nhân là những người đắc Thiên vị, hành Thiên Đạo.

2. Nên Thánh Nhân hành động bao giờ cũng hợp thời, biết cơ Trời, biết nhẽ tiến hoá, tồn vong, đắc thất, nên không bao giờ phải hối hận. Thánh Nhân khi đạt Thiên vị, sẽ đem Thiên Đạo ra thi hành, sẽ dùng người tài đức dạy dỗ dân, sẽ treo gương hoàn thiện cho dân soi, và sẽ cố gắng mang thái bình, thinh trị về cho thiên hạ.

Tóm lại, Thánh Nhân, Thánh Vương sẽ bắt chước Trời mà hành động. Trời biến hóa để muôn loài được vui sống. Thánh Vương, Thánh Nhân cũng sẽ làm chủ chốt, cũng sẽ hướng dẫn mọi biến thiên của nhân quần, để vạn quốc được an bình. 

C. ĐẠO QUÂN TỬ

Bàn về Đạo người quân tử, tức là bàn về phương pháp tu thân, để đi từ Nhân vị đến Thiên vị, quẻ Kiền dạy ở:

- Tượng Truyện:  Người quân tử phải cố gắng không ngừng, y như Trời hoạt động không ngừng. Người quân tử phải luôn luôn cố gắng tiến đức, tu nghiệp, cốt làm sao vươn lên đến một đời sống lý tưởng, qui tụ vào nơi mình mọi vẻ đẹp đẽ, rồi ra làm cho mọi người cũng được Tiến Hoá, cũng được hoan lạc, sung sướng và cũng thực hiện được lý tưởng hoàn thiện như mình (Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức)

D. NHỮNG  NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT TU THÂN, XỬ THẾ

Ngoài ra, quẻ Kiền còn dạy ta bài học nhân sinh, tu thân, xử thế ở nơi các Hào .

1. Hào  Sơ Cửu. Theo Dịch Kinh, dẫu ta có chí cả, nhưng chưa đủ  tài  đức, chưa gặp được thời cơ, thì cũng không được khinh suất (Tiềm long vật dụng)

2. Hào  Cửu nhị. Khi đã gặp thời cơ thuận tiện hơn, có địa vị khả quan hơn, khi tài đức mình đã bắt đầu hiển lộ, khi đã được mọi người đặt kỳ vọng vào mình, thời nên cộng tác với các bậc Minh vương, hoặc vị nguyên thủ có tài đức để mưu ích cho thiên hạ (Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân)

3. Hào  Cửu tam. Dẫu đã có địa vị hơn người, nhưng vẫn phải một lòng cầu tiến, luôn luôn gắng gỏi ra công tiến đức, tu nghiệp, luôn luôn biết phòng nguy, lự hiểm, có vậy mới vô sự (Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ. Vô cữu)

4. Hào  Cửu tứ. Hơn nữa càng lên cao, càng phải e dè, thận trọng, càng cần phải biết xét nét nhân tình, xét nét tâm lý người trên, kẻ dưới. Phải biết cơ vi tiến thoái; phải biết đợi thời cơ thuận tiện mới hành động, mới vẫy vùng; không bao giờ được quyết định, được hành động cẩu thả.

Tóm lại, sống ở đời cần phải biết nhẽ tiến thoái. Tiến thoái cho thích đáng, hành động cho hợp thời, mới tránh được mọi chuyện đáng tiếc, đáng phàn nàn (Hoặc dược tại uyên. Vô cữu)

5. Hào  Cửu ngũ. Khi đã lên ngôi trời, thống trị muôn dân, thì phải thi hành thiên Đạo, chọn hiền tài phụ bật, để thực hiện một cuộc cai trị lý tưởng cho muôn dân (Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân)

6. Hào   Thượng Cửu. Khi đã lên tới tuyệt đỉnh, lại càng phải gia ý đề phòng, và cũng nên nghĩ đến chuyện công thành thân thoái, mới được vẹn toàn (Kháng long hữu hối)

VỀ PHƯƠNG DIỆN TU THÂN,  ta có thể ghi nhận một vài bài học sau đây.

1. Khi mới giác ngộ, khi mới vừa nhận định ra rằng trong lòng mình có CĂN TRỜI, có THIÊN ĐỊA CHI TÂM, thời phải hết sức chắt chiu, ấp ủ, không được khinh xuất, phá tán.

2. Khi tài đức đã hiển lộ, thời nên cộng tác với các bậc Thánh Nhân hiền đức ở trên mình, để có thể mang tài đức giúp ích cho đời đến mức tối đa.

3. Lúc nào cũng phải cố gắng tu thân, tiến đức.

4. Ngoài ra, còn phải tỏ ra tri cơ, thức nhân tâm và thời vụ.

5. Mục đích của công cuộc tu thân là thực hiện Thiên Đức, đạt tới Thiên vị, trở nên hoàn thiện.

6. Khi quang huy đã lên tới cực điểm, lại càng phải hết sức khiêm cung, càng phải thông đạt lẽ tiến thoái, tồn vong. . .

 Tóm lại:  Quẻ Kiền cho rằng:

A. Về phương diện Triết học & Đạo giáo :

Trời là căn cốt cũng là cùng đích của muôn loài, hằng lồng trong vạn vật, để làm căn cơ, làm chủ chốt cho mọi công cuộc biến thiên, tiến hoá. Và tất cả sự biến chuyển, biến dịch của Trời chỉ cốt làm sao cho vạn vật phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực của mình; được thảnh thơi toại ý, và cuối cùng đạt được sự hoàn thiện, hoàn mỹ, trở về được với bản thể Thái Hòa nguyên thủy.

B. Về phương diện chính trị:

Kiền cho rằng Vương Đạo phải mô phỏng theo Thiên Đạo. Như vậy bậc quân vương phải là người hoàn thiện, thực lòng thương xót chúng dân, đem Đạo lý chân chính ra thi hành để đem an ninh lại cho thiên hạ.

C. Về phương diện tu thân và xử thế:

Quẻ Kiền cho rằng: Nếu chúng ta có căn cơ, có chí khí, có nghị lực, lúc nào cũng cương quyết, cũng hăng hái, thì dẫu làm gì cũng nên công. Tuy nhiên, hăng hái, mạnh mẽ cũng chưa đủ, mà phải hăng hái, mạnh mẽ theo đúng đường Đạo lý, theo đúng gương Trời, đúng đường lối Trời mà hành sự, mới có thể lập được đại công, đại nghiệp.

Ngoài ra, dẫu rằng mình là người tài cao, trí cả, cũng không bao giờ được vọng động, mà phải hành động cho hợp thời, hợp cảnh, hợp Đạo lý. Khi chưa đạt tới mức hoàn thiện, hãy cố gắng vươn lên. Khi đã đạt mức hoàn thiện, phải lo triển dương tài đức, giáo hóa chúng dân, thi ân bá trạch cho thiên hạ.

Phải luôn luôn gắng gỏi công trình và như con rồng thiêng, luôn luôn biến hóa. Phải noi gương Trời mà hành sự. Phải tiến lên Thiên đức, Thiên vị.

D. Quẻ Kiền như muốn tiên đoán về một thời hoàng kim mai hậu, mọi người đều như nhau, sống sung sướng, như một đàn rồng bay trên thinh không, mà chẳng cần có con đầu đàn dẫn lộ, sống một cuộc đời thuận Đạo lý vì nhìn tỏ thấy Luật trời ghi tạc nơi tâm (Kiền quần long vô thủ cát)  Như vậy chẳng phải là những bài học quí báu hay sao?  

ÁP DỤNG QUẺ KIỀN VÀO THỜI ĐẠI

Khi vào Kinh Dịch, ai cũng nói là đọc quẻ Kiền, quẻ Khôn là khó hiểu nhất, nhưng theo tôi (Huyền Linh, tác giả bài này), nó không có gì khó hiểu cả, khó hiểu chỉ vì người đọc Dịch cứ tìm tòi tiểu tiết, của từng câu chữ Hán, nên như bị vào mê hồn trận, không có lối ra , rồi sau đó đoán mò, hiểu bậy bạ, theo thiển kiến của họ.

Tôi cũng như phần đông độc giả, chỉ biết võ vẽ vài ba chữ Hán, hiểu lơ mơ mấy chữ đã phiên Âm, nhưng đã hiểu ý nghĩa của toàn quẻ sau khi đọc lời Bình Giảng, mà nhà tôi đã soạn khi xưa, lúc dạy Dịch ở Đại Học Minh Đức Việt Nam, nên tôi đã nẩy ra ý định cộng tác với chồng tôi, về phần Áp dụng vào thời đại, để minh chứng với người xưa rằng: không phải là những người trên 50 tuổi mới hiểu được Dịch, mà ngay một người độ 18 tuổi (đọc và viết thông tiếng Việt), sau khi đọc phần Bình Giảng, và  phần Áp dụng vào Thời đại của tôi soạn, (nếu thông hiểu tiếng Việt) thì cũng hiểu. Tôi muốn chứng minh rằng phụ nữ, không những cũng có thể học Dịch, mà còn có thể tham gia vào phần nghị luận về tư tưởng, cũng như về Đạo Lý, như các bậc tiền bối Thánh Hiền.   

Sự thật, học Kinh Dịch chẳng có gì là quá khó khăn như người ta tưởng. Tôi xin trình bầy cách hiểu quẻ Kiền của tôi ra sao để quí độc giả thưởng lãm.

1-  Khi bắt đầu vào quẻ nào, ta phải đọc kỹ Thoán, vì nó là tổng kết của toàn quẻ, và khi đã nắm được ý chính của nó muốn nói gì, thì ta sẽ hiểu rất dễ dàng các Hào  sau này, vì Hào  chỉ là khai triển từng giai đoạn, mà quẻ muốn nói mà thôi. Ví dụ:  khi đọc Thoán Từ của quẻ Kiền, tôi đọc câu thơ:   

Kiền nguyên tóm hết Đạo Trời.

Tóm thâu Thiên Đạo khúc nhôi sinh thành.

Và câu chót

Thánh Nhân vượt trổi chúng sinh,

Làm cho muôn nước an bình khắp nơi.

là tôi hiểu ngay quẻ Kiền muốn nói về Đạo Trời (Thiên Đạo) và về Chính Trị (muôn nước an bình) từ lúc mới manh nha, cho đến ngày Hoàn Thiện (Đạo Trời), và Hoàn Mỹ (Chính Trị)

Về Đạo Trời, thì tác giả đã nói quá rõ, trong phần Bình Giảng, ở đây tôi chỉ xin góp ý một chút trong phần Bình Luận nhỏ này về liên quan đến Chính trị trong quẻ Kiền. Ta thấy trong Hào  1, 2, 3, 4, luôn khuyên những người có chí lớn, nhưng chưa đủ kinh nghiệm và tài đức, phải cố gắng, cầu tiến;  nhưng không được khinh xuất, phải e dè, thận trọng, phải biết đợi thời cơ thuận tiện mới hành động, phải biết lẽ tiến thoái.

Ngày nay, đúng vậy, người muốn lập sự nghiệp lớn, mới có chí lớn chưa đủ, mà ngay từ thuở thiếu thời đã phải học luật, học về chính trị, và phải xuất thân ở 1 Đại Học danh tiếng, phải gia nhập vào đảng Chính trị có uy tín trong nước, để dựa vào thế lực của đảng, làm nấc thang cho mình leo lên ngành cai trị dân. Có thể lúc đầu từ cấp cai trị thấp, sau sẽ leo dần lên. Như vậy nếu mình là người thật  lòng vì dân, vì nước, thì sự thành công sẽ dễ dàng hơn là một người không có tài đức, kinh nghiệm, mà cứ muốn nhờ gió bẻ măng. Nếu  may mắn mà lên, thì đường hoạn lộ cũng không bền, còn không, sẽ thất bại dễ dàng.

 Hào 5 nói đến bổn phận của một vì Thiên tử là phải chọn hiền tài phụ bật, phải thực hiện một cuộc cai trị lý tưởng cho muôn dân (chế độ Quân chủ xưa)

Hào 6 nói đến các vị vua sau này, thụ hưởng quá nhiều, đâm ra xa xỉ , phóng túng, hành vi quá trớn, do đó Hào 7 Dụng Cửu nói: Kiến quần long vô thủ. Cát, là khi nào nước do 1 nhóm người cai trị, mà không ai là người cầm đầu, ý nói là những người trong nhóm này có thẩm quyền quyết định ngang nhau. Khi mà tất cả thế giới đều được như vậy, lúc đó sẽ là lúc Hoàn Mỹ. An bình thịnh trị sẽ đến với mọi người trên trái đất này. Phải chăng đó là chế độ Tổng Thống và Lưỡng viện của Hoa Kỳ hiện nay?  Vì sao tôi nói vậy? Vì đã nghiềm ngẫm lịch sử từ xưa tới nay, tôi chưa thấy ở nước nào mà người dân bới lỗi lầm, bôi nhọ nhà vua, qua báo chí mà không bị trừng trị. Hơn nữa, nếu người cầm đầu mà bất tài, thì đã bị lôi xuống rồi, chứ đừng nói là có thể hà khắc đối với dân chúng. Nhóm người cầm đầu lại do dân bầu: như vậy nếu họ làm hại dân, hay chỉ lo mưu đồ tư lợi cho cá nhân mình, nếu không bị chỉ trích hoặc truất phế ngay lúc đó, thì khoá sau, (chỉ cách khóa trước 4 năm), họ cũng không hy vọng gì được trở lại chức vị cũ.

 Nếu ta áp dụng quẻ Kiền vào các sự nghiệp khác, thì cũng vậy mà thôi, nghĩa là ta phải hoạch định ngay từ thuở thiếu thời, đường lối mà ta đã dự định, và ta nhất định theo đuổi tới cùng, dù vất vả, gian lao mấy cũng không sờn, thì sớm muộn gì ta cũng sẽ thành công.


» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30