THƯỢNG KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30


 

9. 風天小畜  Phong Thiên TiỂu Súc 

 

Tiểu Súc Tự Quái

小 畜 序 卦

Tỉ tất hữu sở súc dã

比 必 有 所 畜 也

Cố thụ chi dĩ Tiểu Súc

故 受 之 以 小 畜

 

Tiểu Súc Tự Quái

Tỉ là tương hợp, tương liên.

Người đông, phải biết chế kiềm, mới hay,

Thế nên, Tiểu Súc theo ngay.

 

Tiểu Súc là một quẻ khó giải của Dịch Kinh. Tiểu Súc có nhiều ý nghĩa: 1) Cản trở ít.   2) Nuôi dưỡng ít.   3) Hàm súc ít  4) Ảnh hưởng ít.

Tiên nho thường cho rằng quẻ Tiểu Súc mô tả nỗi niềm của Văn Vương, khi bị giam ở ngục Dũ Lý, tưởng về cổ quốc là Tây Kỳ, thương dân tình đang bị điêu đứng, mà mình còn bị vướng trở, chưa thi thố được đại công, đại nghiệp để cứu trợ chúng dân, ví mình như áng mây, còn vương trên khung trời, chưa sa thành mưa, để chúng dân thấm nhuần ơn vũ lộ.

Phân tác Quẻ ta thấy: Tiểu Súc, trên là Tốn là quẻ Âm Nhu, dưới là Kiền, là quẻ Dương Cương, có nghĩa là Âm ngăn chặn bước đường tiến của Dương.

Xét về Hào, ta thấy một Hào Âm nằm ở Hào Lục tứ, ngạn cản đà tiến của Hào Dương. Tuy nhiên, sự ngăn cản ấy không mạnh mẽ, mà chỉ tồn tại được nhất thời. Hào Tứ cùng là tượng trưng cho một hiền thần. Hiền thần mà muốn can gián vua, thời phải khéo léo, mềm dẻo.

Phân tách tượng quẻ, ta thấy Tiểu Súc là gió thổi trên khung trời cao, như vậ tức là ảnh hưởng tới vạn vật rất ít. Lời bình luận hay nhất về quẻ Tiểu Súc là lời bình luận của Tào Thăng, tác giả tập Chu Dịch Tân Giải.

Tào thăng viết: Súc là nuôi dưỡng. Tiểu Súc là nuôi dưỡng chưa được nhiều. Quẻ này một Âm ở Hào bốn là chủ của quẻ. Quẻ trên là Tốn, từ tốn ta công nuôi dưỡng sức lực của Kiền. Đại Súc là theo đúng thiên nhiên, Tiểu Súc là cố làm hết phận sự con người.

Tận phận sự con người, tức là súc tích lực lượng để chờ thời cơ. Nói theo cá nhân, tức là tiến đức tu nghiệp, nói theo quốc gia tức là quốc kế dân sinh, giáo huấn, tích tiểu thành đại, tích từng giọt nước để thành sông biển, tích từng đồng tiền để thành cự phú, đều là Tích tiểu thành đại. Cái bí quyết của sự tiến hóa là ở đó. Làm được như vậy, sẽ chuyển yếu thành mạnh, chuyện bại thành thắng. Cứ xem quẻ Tiểu Súc là biết đường lối để phục hưng vậy.

I. Thoán.

Thoán Từ.

畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .

Tiểu Súc. Hanh. Mật vân bất vũ. Tự ngã tây giao.

Dịch.

Tiểu Súc hanh thông, quẻ rõ rồi,

Trời Tây, mây phủ, chửa mưa rơi.

Thoán Từ nói: Mây dầy mà chưa mưa, địa khí bốc lên, nhưng thiên khí chưa ứng hợp. Mây còn tích tụ trên phía trời Tây, có nghĩa là Âm xướng, nhưng Dương chưa họa. Bởii vì cứ theo trên, dưới mà phân Âm, Dương, thì địa khí là Âm, mà thiên khí là Dương. Lấy phương hướng mà phân Âm Dương, Tây là Âm, Đông là Dương. Âm cảm mà Dương chưa ứng, thế nên quẻ gọi là Tiểu Súc.

Thoán Từ đại khái nói rằng: Dẫu tiểu nhân có thể ngăn cản bước tiến của người quân tử, nhưng khi sự cản trở ấy không mạnh, thì người quân tử vẫn tiến bước được, đó là vì người quân tử, trong thì tinh thần vững mạnh, ngoài thì có sự nhún nhường khéo léo.

Suy rộng ra, thì đó là khi thời cơ chưa thuận tiện, lòng người dưới trên chưa ứng, chưa hòa, nên chưa thể làm nên được đại công, đại sự.

Thoán Truyện. Thoán viết:

彖 曰 . 小 畜 . 柔 得 位 . 而 上 下 應 之 . 曰 小 畜 . 健 而 巽 . 剛 中 而 志 行 . 乃 亨 . 密 雲 不 雨 . 尚 往 也 . 自 我 西 郊 . 施 未 行 也 .

Tiểu Súc. Nhu đắc vị nhi thượng hạ ứng chi. Viết Tiểu Súc. Kiện nhi tốn. Cương trung nhi chi hành. Nãi hanh. Mật vân bất vũ. Thượng vãng dã. Tự ngã tây giao. Thi vị hành dã.

Dịch. Thoán rằng:

Quẻ Tiểu Súc, Hào nhu đắc vị,

Dưới lẫn trên, nhất trí ứng theo,

Nên rằng cản ít, không nhiều,

Cương cường hoạt động, có chiều hanh thông.

Bền lòng, vững chí, ra công,

Mây dầy, còn chuyển nên không mưa rào.

Trời Tây mây phủ ngất cao,

Việc làm ảnh hưởng chưa bao lăm gì.

Thoán truyện nói:  Thượng vãng, nghĩa là Âm khí còn bốc lên. Thi vị hành, nghĩa là âm khí chưa thành mưa để rơi xuớng. Nếu đem áp dụng vào nhân sự thì có nghĩa là bậc thần tử muốn đem tâm xây dựng nước non, mà bậc quân phụ chưa hưởng ứng...

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰 . 風 行 天 上 . 小 畜 . 君 子 以 懿 文 德 .

Tượng viết: Phong hành thiên thượng. Tiểu Súc. Quân tử dĩ ý văn đức.

Dịch.

Tượng rằng: Gió thổi trên trời,

Nên rằng Tiểu Súc, chưa nuôi được nhiều.

Nên rằng quân tử y chiều,

Trau dồi phong thái mỹ miều, tài hoa.

Tượng truyện nối tiếp ý Thoán Truyện mà bảo rằng; hiện nay người quân tủ chưa thể nào gây được ảnh hưởng lớn khắp nơi chúng dân, có khác nào như gió còn thoảng bay trên khắp vòm trời cao, không có ảnh hưởng trực tiếp đến vạn vật, như vậy việc đáng làm hơn hết lúc này là trau dồi tài năng, đạo đức.

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.

1.   Hào Sơ Cửu.

初 九 .      復 自 道 . 何 其 咎 . 吉 .

象 曰 .      復 自 道 . 其 義 吉 也 .

Sơ Cửu. Phục tự đạo. Hà kỳ cữu. Cát.

Tượng viết:

Phục tự đạo. Kỳ nghĩa cát dã.

Dịch.

Sơ Cửu quay về đường nẽo cũ,

Một lòng hướng thượng, lỗi chi đâu.

Tượng rằng: Đường cũ quay về,

Là hay là phải ai chê được nào?

Hào Sơ  bàn rằng: Khi ngưòi quân tử bị tiểu nhân kiềm chế, không cho thi hành đại đạo, thì hãy quay về tu luyện bản thân. Y như đường lối của Mạnh Tử: Lúc đắc chí (làm quan, làm tướng), thì chung sức với dân, mà thi hành những đức Nhân, Lễ, Nghĩa. Khi chẳng đắc chí, thì ẩn dật mà tu thân hành đạo.

 

2. Hào Cửu Nhị.

九 二 .     牽 復 . 吉 .

象 曰 .     牽 復 在 中 . 亦 不 自 失 也 .

Cửu nhị. Khiên phục. Cát.

Tượng viết: 

Khiên phục tại trung. Diệc bất tự thất dã.

Dịch.

Cửu nhị dắt nhau theo đạo lý,

Biết lam như vậy, vẫn là hay.

Tượng rằng: đạo lý quay về

Dắt nhau trở lại, chẳng hề hấn chi.

Hào Cửu nhị là trưòng hợp một người quân tử, ở gần thế lực khống chế của tiểu nhân hơn. tuy nhiên cửu nhị cương kiên, và đã quyết theo đạo lý, sẽ không e ngại sự cản trở của tiểu nhân, vần có thể tìm những người đồng tâm, đồng chí, tiến bước trên đường đạo lý.

3.  Hào Cửu tam.

九 三 .      輿 說 輻 . 夫 妻 反 目 .

象 曰 .      夫 妻 反 目 . 不 能 正 室 也 .

Cửu tam. Dư thoát bức. Phu thê phản mục.

Tượng viết:

Phu thê phản mục. Bất năng chính thất dã.

Dịch.

Cửu tam: căm thoát trục xe,

Vợ chồng lườm nguýt, chẳng huề cùng nhau,

Tượng rằng: chồng vợ lườm nhau,

Làm sao gia đạo gót đầu êm xuôi.

Hào Cửu tam là trường hợp người quân tử vụng xử hơn, ít thức thời hơn, lại ở kề cận tiểu nhân, nên rất dề bị nó khống chế hãm hại. Nhất là người quân tử đó lại tỏ ra thất thố, sơ hở. Quân tử mà ở kề cận tiểu nhân, thời sẽ sinh đủ điều hung họa, phiền toái cho mình, có khác gì đi xe mà long bánh, ở trong gia đình, vợ chồng lườm nguýt, bất hòa với nhau đâu.

 

4.   Hào Lục tứ. 

六 四 .    有 孚 . 血 去 惕 出 . 無 咎 .

象 曰 .    有 孚 惕 出,上 合 志 也 .

Lục tứ. Hữu phu. Huyết khứ dịch xuất. Vô cữu.

Tượng viết.

Hữu phu dịch xuất. Thượng hợp chi dã.

Dịch. Lục tứ.

Nếu mình mà thành khẩn

Sẽ không lưu huyết, khỏi lo âu.

Thế thời đáng trách chi đâu.

Tượng rằng: thành khẩn, khỏi lo âu,

Bởi tại người trên cũng tâm đầu.

Hào Lục tứ. Dịch kinh đổi đề tài. Ở đây, lại đề cập đến một vị hiền thần, một lòng vì nhà, vì nước, muốn gián nghị bậc quân vương. Dịch kinh cho đó là một công trình nguy hiểm, cần phải khéo léo, và thành khẩn lắm mới khỏi bị máu rơi thịt nát. Đọc lịch sử, ta thấy biết bao nhiêu công thần chỉ vì can gián hôn quân, bạo chúa, mà phải chết oan.

- Mai Bá vì can Trụ Vương mà bị hình bào lạc,

- Hàng Sanh can Hạng Vương mà bị bỏ vào vạc dầu...

 

5.  Hào Cửu ngũ.

九 五 .      有 孚 攣 如 . 富 以 其 鄰 . 

象 曰 .      有 孚 攣 如 . 不 獨 富 也 .

Cửu ngũ. Hữu phu luyến như. Phú dĩ kỳ lân.

Tượng viết:

Hữu phu luyến như. Bất độc phú dã.

Dịch.

Chân thành thân thiết với hương lân,

Thế là giầu có gấp mấy lần.

Tượng rằng:

Xóm giềng, mà thực lòng thân,

Mình giầu, mà vẫn chung phần với ai.

Hào Cửu ngũ, theo Ngự Án (vua Khang Hy), chính là một vị quốc quân, biết nghe lời gián nghị. Thấy bề tôi thực tình can gián mình, thì cũng đem tình thực mà đáp ứng lại. Thế là biết lấy ý người làm ý mình, hiểu rằng mình ở cao ngôi, chính là để phục vụ dân nước, chứ không phải để riêng hưởng giầu sang.

Làm vua mà giầu cùng dân, vui cùng dân, mới được trường cửu. Làm vua mà giầu một mình, vui một mình, sẽ sớm bại vong. Đường lối của vua Văn, võ và Kiệt, trụ khác nhau ở chỗ đó.

6. Hào Thượng Cửu.

上 九 .     既 雨 既 處 . 尚 德 載 . 婦 貞 厲 .  月 幾 望 . 君 子 征 凶 .

象 曰 .     既 雨 既 處 . 德 積 載 也 . 君 子 征 凶 . 有 所 疑 也 .

Thượng Cửu. Ký vũ ký xử. Thượng đức tải. Phụ trinh lệ.

Nguyệt cơ vọng. Quân tử chính hung.

Tượng viết:

Ký vũ ký xử. Đức tích tải dã. Quân tử chính hung. Hữu sở nghi dã.

Dịch.

Thượng Cửu. Mưa rơi, thời nên nghỉ

Được vậy là nhờ tốn công phu.

Phụ nữ thắng rồi, còn chưa phỉ,

Rồi ra, chắc sẽ gặp nguy cơ.

Khuôn trăng sắp sửa tròn vo,

Được đà, quân tử phải lo nguy nàn.

Tượng rằng: Mưa xuống, thời ngơi,

Công phu tích tải lâu rồi mới nên.

Quá đà, quân tử nguy liền,

Là vì sẽ khiến người trên nghi ngờ.

Hào Thượng lục cho rằng khi mà can ngăn đã đạt, thì kẻ bầy tôi nên biết chiều ngưng lại mới hay. Muốn người trên ứng hợp với mình, mà người trên đã ứng hợp rồi, cũng như muốn mưa, đã mưa rồi, còn muốn gì hơn nữa? Đi quá trớn rồi, có khác gì phụ nhân đắc trí đâu? Trăng trước rằm mới là trăng đẹp, trăng quá rằm sẽ là trăng khuya, trăng khuyết,  và sẽ hao mòn, mờ mịt dần với thòi gian.

ÁP DỤNG QUẺ TIỂU SÚC VÀO THỜI ĐẠI

Trên bước đường đời của chúng ta hiện nay, nhất là với người lữ thứ gặp biết bao nhiêu là cản trở, về đủ mọi phương diện: tiền tài, học vấn, nghề nghiệp, hôn nhân...

Khi bắt tay vào việc gì, nếu ta thấy bị cản trở, thì ta phải biết dừng chân lại. Phải soát xét lại tài đức mình, xem có khiếm khuyết sơ hở chỗ nào chăng, nên khiến bị người cản ngăn, phá phách. Người xưa cho rằng nếu có người chê trách mình, tì phải xét lại hành động, tác phong của chính mình chính là vì vậy. Ví dụ: khi ta ra trường, đi xin việc làm không đâu nhận, thì đừng đổ tại số xui, mà phải đi học tu nghiệp lại, vì ta xin việc không được là do khả năng nghề nghiệp của ta còn kém quá mà thôi. Hoặc hôn nhân của ta cứ lủng củng, thì ta phải xét lại ta, xem tính tình của ta có khó khăn không? cách xử sự của ta có lễ độ không? Sự đòi hỏi của ta có cao quá không?

Nếu xét thấy ta có đủ điều kiện mà vẫn bị cản trở, thì đó chỉ là những trở ngại bên ngoài, là tạm bợ nhất thời mà thôi, không nên quá bận tâm. Ta đừng bao giờ ngã lòng trước những trở ngại đó, ta cứ từ từ suy tính, từ từ giải quyết thì trước sau, ta cùng giải quyết được hết. Cái nút dù thắt khó đến đâu, nếu từ từ tháo gỡ, thì cũng tháo gỡ được.

Còn như muốn can ngăn người khác làm việc gì, thì cũng phải cẩn trọng. Can ngăn người phải biết lựa lời, lựa cơ hội, phải phân tích sự lợi hại của vẩn đề cho họ hiểu, cần nhất phải thành khẩn với họ, nếu không dễ làm mất lòng nhau.

 


» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30