THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
21.
火雷噬嗑
HỎA LÔI PHỆ HẠP
Phệ Hạp
Tự Quái |
噬
嗑
序
卦 |
Khả
quan nhi hậu hữu sở hợp. |
可
觀
而
后
有
所
合 |
Cố thụ
chi dĩ Phệ Hạp. |
故
受
之
以
噬
嗑 |
Hạp giả
hợp dã. |
嗑
者
合
也 |
Phệ Hạp
Tự Quái
Ngắm
trông sẽ hợp, sẽ thân,
Cho nên Phệ Hạp theo chân hình thành.
Phệ Hạp
là hợp đã đành.
Phệ Hạp
là nghiền nát để hợp. Nghiền nát đây là trừng trị những kẻ bất lương,
những người ngang ngược, làm mất trật tự xã hội, làm cho dân tình ly
tán, không hợp nhất được với nhau.
Phệ Hạp xét về tượng hình, y như cái mồm mắc vật cứng ở giữa, làm cho
2 hàm trên dưới không thể hợp nhau. Phải nghiền nát vật cứng nhiên hậu
mới hợp nhau được.
Trong xã hội cũng vậy, cần phải diệt trừ nguyên do chia
rẽ, nhân tình mới hòa hợp được. Vì thế cần phải dùng hình phạt.
Hình phạt mà áp dụng cho trúng, đó là thương dân, vì nhờ vậy dân
mới được yên ổn. (Ái bách tính, cố hình phạt trúng. Hình
phạt trúng, cố thứ dân an.)
Trời
dùng Sấm = Chấn = Lôi; Chớp = Ly = Hỏa, để đánh tan sự oi ả. Thánh
nhân dùng hình phạt để dẹp tan mầm mống chia rẽ. Thế chính là Pháp
Thiên, bắt chước Trời mà hành sự.
Phệ Hạp
trên có Ly = Hỏa chỉ sự sáng suốt, dưới có Chấn = Sấm chỉ sự uy
nghiêm. Sáng suốt nên không ai dấu được sự tình;
uy nghiêm nên mọi người đều kiêng sợ. Đó chính là những đức tính của
vị phán quan.
Quẻ Phệ
Hạp tóm tắt lại cơ chế hình pháp đời xưa. Đời xưa, Lễ, Nhạc, Hình,
Chính (chính trị), là 4 cách trị dân. Hình pháp cốt để giữ gìn
trật tự, trừng trị những kẻ gây rối.
I.
Thoán.
Thoán
Từ.
噬 嗑:亨。 利 用 獄。
Phệ
Hạp. Hanh. Lợi dụng ngục.
Dịch.
Cản
trước, rồi ra mới hợp sau,
Ngục hình dùng đúng, lợi biết bao.
Thoán
Từ
trước hết giải hai chữ Phệ Hạp, là nghiền nát để hợp. Ý
muốn nói nghiền nát hay trừng trị kẻ ngoan ngạnh trong xã hội, để xã
hội được hoà hợp. Vì thế, Thoán Từ nói Phệ Hạp hanh.
Thoán
Truyện.
彖 曰: 頤 中 有 物,曰 噬 嗑,噬 嗑 而 亨。剛 柔 分,動 而 明,雷 電 合 而 章。柔 得 中 而 上 行,雖 不 當 位,利 用 獄 也。
Thoán
viết:
Di trung hữu
vật. Viết Phệ Hạp. Phệ Hạp nhi hanh. Cương Nhu
phân.
Động nhi minh. Lôi điện hợp nhi chương. Nhu
đắc trung nhi thượng hành.
Tuy bất đáng vị. Lợi dụng ngục dã.
Dịch.
Vật
cứng ngáng mồm là Phệ Hạp,
Cắn nghiền ra, rồi hợp mới hay.
Cứng, mềm, minh biện, phơi bầy,
Uy nghi, sáng suốt, ai tày phong quang.
Như sấm chớp rỡ ràng, lẫm liệt.
Tuy khoan Nhu, siêu việt ngôi trên.
Vị ngôi tuy chẳng ấm êm,
Nhưng khi gia phạt, cũng nên Nhu hòa.
Thoán
Truyện nói: Phệ Hạp nhi hanh. Có trừng trị kẻ gây rối rồi, thì
xã hội mới được hanh thông, an lạc.
Phệ Hạp
có Ly = Nhu ở trên, Chấn = Cương ở dưới. Cương, Nhu lưỡng dụng đều
đặn, phân minh. Ý nói khi áp dụng hình phạt, cũng như khi xử tội,
phải áp dụng cả Cương lẫn Nhu (Cương Nhu phân).
Phệ Hạp
có Chấn là Động, Ly là Minh, ý nói khi xử đoán tội tình cũng như thi
hành hình phạt vừa minh, vừa uy (Động nhi minh). Minh, Uy phối
hợp với nhau, sẽ như sấm chớp dẹp tan mọi chếch mác, đem hòa hợp và
trị bình lại cho đất nước, vì thế nói: Lôi điện hợp nhi chương.
Thoán Truyện viết tiếp: Âm Nhu đắc trung nhi thượng hành.
Âm mà ở ngũ, thời đâu có đáng ngôi vị, nhưng mà đối với các công cuộc
hình án, thời nó là Nhu mà cư Cương. Lòng vốn tốt, nhưng
nghiêm, Cương để bảo trì luật pháp cũng là hay rồi. Thoán Truyện, vì
thế viết tiếp: Tuy bất đáng vị. Lợi dụng ngục dã.
II. Đại
Tượng Truyện.
象 曰: 雷 電 噬 嗑 ﹔先 王 以 明 罰 敕 法。
Tượng
viết:
Lôi
điện Phệ Hạp. Tiên vương dĩ minh phạt sắc
pháp.
Dịch.
Tượng rằng:
Phệ Hạp chớp lóe, sấm vang,
Tiên vương, hình phạt quyết mang răn đời,
Có răn, có phạt, hẳn hoi,
Dân gian sẽ sống theo đòi phép khuôn.
Tượng
Truyện lại nhắc lại: Lôi điện là Phệ Hạp. Đó tức là uy minh
lưỡng dụng. Các bậc Thánh Vương xưa thấy vậy, xác định lại hình phạt,
chỉnh đốn lại luật pháp, để cho dân biết tôn trọng luật pháp.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào
nói về cách áp dụng về hình phạt. Hào 1 và 6 vì vô vị nên tượng trưng
cho người thụ hình, và cho tội nhân. Các Hào 2, 3, 4, 5 là những người
có chức vị, có bổn phận phải thi hành hình phạt.
1. Hào Sơ
Cửu.
初 九 : 履 校 滅 趾,無 咎。
象 曰: 履 校 滅 趾,不 行 也。
Sơ
Cửu. Lý giáo diệt chỉ. Vô cữu.
Tượng
viết:
Lý giáo
diệt chỉ. Bất hành dã.
Dịch.
Tra
cùm, làm mất ngón chân,
Gia hình thế ấy, có lầm lỗi chi.
Tượng rằng:
Tra
cùm, làm mất ngón chân,
Hết đi, hết dám sa vòng tội khiên.
Hào Sơ
tượng trưng cho người mắc khinh tội, bị phạt nhẹ, bị cùm chân, bị mất
ngón chân. Thế là phạt nhẹ, để ngăn tiểu nhân đi vào con đường gian
ác.
2. Hào Lục nhị.
六 二: 噬 膚 滅 鼻,無 咎。
象 曰: 噬 膚 滅 鼻,乘 剛 也。
Lục
nhị. Phệ phu diệt tị. Vô
cữu.
Tượng
viết:
Phệ phu
diệt tị. Thừa Cương dã.
Dịch.
Nghiến
da, nghiến mất mũi đi,
Gia hình thế ấy, chẳng chi lỗi lầm.
Tượng rằng:
Nghiến
da, nghiến mũi, mất trơn,
Gặp người quá bướng, nghiêm hơn đã đành.
Hào hai
tượng trưng cho một quan chức ngôi vị xứng kỳ đức, thi hành hình phạt
theo đúng lẽ phải, cho nên dễ làm cho người phục; y như cắn vào da mềm
vậy. Tuy nhiên, đôi khi cũng gặp phải những kẻ ương ngạnh, ngang
ngược (Thừa Cương), nên phải dùng hình phạt nặng hơn (diệt
tị =cắt mũi), mới trị được họ.
3. Hào Lục
tam.
六 三 : 噬 臘 肉,遇 毒 ﹔小 吝,無 咎。
象 曰: 遇 毒,位 不 當 也。
Lục
tam. Phệ tích nhục ngộ độc. Tiểu lận. Vô cữu.
Tượng
viết:
Ngộ
độc. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Phường
gian ngoan khi cần sửa phạt,
Khó như là day nát thịt khô.
Thịt khô dai ngoách, cứng đơ.
Phạt người chẳng nổi, hóa ra hại mình.
Trường hợp ấy, âu đành rắc rối,
Nhưng riêng mình, nào lỗi chi đâu.
Tượng rằng:
Phạt người mà hóa hại mình,
Là vì ngôi vị, quyền hành dở dang.
Hào Lục
tam
đề cập đến một vị phán quan chưa đủ uy tín,
mà đã xử tội một kẻ gian ngoan, có quyền thế. Gặp trường hợp này có
khác nào nhai phải miếng thịt khô, lại còn cả xương; nên nhai đã chẳng
được, nhiều khi còn nhiễm độc, nhiễm hại.
4.
Hào Cửu tứ.
九 四 : 噬 乾 胏,得 金 矢,利 艱 貞,吉。
象 曰: 利 艱 貞 吉,未 光 也。
Cửu
tứ. Phệ can chĩ. Đắc kim thỉ. Lợi gian trinh. Cát.
Tượng
viết:
Lợi
gian trinh cát. Vị quang dã.
Dịch.
Thịt
khô cắn nát như thường,
Thịt khô còn dính cả xương cũng nghiền.
Bắt người nộp cả vàng, tên.
Khó khăn mấy, cũng chu tuyền công phu.
Tượng rằng:
Gian nan, vất vả mới xong,
Uy danh chiếu rạng chưa cùng khắp nơi.
Cửu tứ
trái lại là một vị phán quan Cương nghị. Tội nhân ngang ngạch bất trị
như miếng thịt khô dính xương, cũng nghiền nát được. Chẳng những vậy,
còn bắt phải nộp đủ lệ bộ án phí. Xưa nộp án phí bằng vòng vàng (kim
câu), và tên bắn (Thúc thỉ= 1 bó 50 cái).
5. Hào Lục
ngũ.
六 五: 噬 乾 肉,得 黃 金,貞 厲,無 咎。
象 曰: 貞 厲 無 咎,得 當 也。
Lục
ngũ. Phệ can nhục. Đắc hoàng kim. Trinh lệ. Vô cữu.
Tượng
viết:
Trinh
lệ vô cữu. Đắc đáng dã.
Dịch.
Thịt
khô nào khó cắn nghiền,
Lại còn được cả hoàng kim của người.
Tuy nhiên, chớ có dể ngươi,
Đề cao cảnh giác, vậy thời mới hay.
Tượng rằng: Chẳng có dể ngươi,
Vì ta chính vị, chính ngôi đã đành.
Hào Lục
ngũ
vì đắc trung nên có đủ quyền uy để xét xử, trừng phạt những vụ hình án
lớn. Nói là hình án lớn, vì đây tội nhân phải xuất kim (nộp vàng, nộp
kim câu làm án phí ).
6. Hào
Thượng Cửu.
上 九 : 何 校 滅 耳,凶。
象 曰: 何 校 滅 耳,聰 不 明 也。
Thượng
Cửu. Hà giáo diệt nhĩ. Hung.
Tượng
viết:
Hà giáo
diệt nhĩ. Thông bất minh dã.
Dịch.
Mang
gông mà mất cả tai,
Sự tình như thế, hung tai còn gì.
Tượng rằng:
Mang gông, đến mất cả tai,
Khôn thời đã vậy, ngoan thời chẳng ngoan.
Hào
Thượng Cửu
ám chỉ một tội nhân, vì đã đi quá trớn, đã làm điều xằng bậy quá lớn,
nên bị trọng hình, mang gông mà mất cả tai.
ÁP
DỤNG QUẺ PHỆ HẠP VÀO THỜI ĐẠI
Như
trên ta đã biết, quẻ Phệ Hạp nói về luật pháp đời xưa. Vậy trước khi
so sánh luật pháp xưa và nay, ta hãy tìm hiểu chúng. Trước tiên ta
phải hiểu rõ, là bất kỳ ở Thời đại nào
cũng vậy, hình pháp đặt ra cốt để giữ gìn trật tự, trừng trị những kẻ
gây rối. Lễ Ký viết: Những người dũng cảm, sức lực, thay vì dùng
sức lực mình để thi hành lễ nghĩa, hoặc chiến thắng ngoại thù, mà lại
dùng nó vào việc tranh dành ẩu tả, thời gọi là những kẻ gây rối. Khi
hình phạt được thi hành trong nước, những kẻ gây rối sẽ bị trừng trị
trước tiên. Như vậy dân mới phục lệnh, mới sống hẳn hoi, và nước nhà
mới yên.
Đối với
hình án, người xưa rất nghiêm minh và thận trọng. Ví dụ: Vua Đại Võ
và Cao Dao đã đặt mấy nguyên tắc cho nền hình pháp như sau:
1)
Phán quan phải khoan hậu.
2)
Không được phạt tới con cháu.
3) Tha
các tội phạm vì vô tình.
4)
Nhân nhượng đối với nghi tội.
4) Lỗi
án lệ, còn hơn giết oan người.
5)
Phán quan phải tỏ cho dân biết đức hiếu sinh của nhà vua ( Kinh thư,
Đại Vũ Mô tiếp 12 ).
Người
xưa coi 5 hình phạt sau đây là nặng nhất gọi là ngũ hình:
1)
Mặc = Thích chữ vào trán hay vào mặt.
2)
Tị = Sẻo mũi.
3)
Ngoạt = Cắt chân.
4)
Cung = Hoạn đối với con trai dâm loạn, cấm cố đối với con gái dâm
loạn.
5)
Đại tịch = Chém đầu.
Theo Lễ
ký, mỗi khi phải áp dụng ngũ hình, vị phán quan hết sức cẩn trọng:
- Phải
để ý tình cha con, nghĩa vua tôi.
- Phải
cân nhắc tội trạng cho hẳn hoi.
- Xét
tâm tư tội nhân cho tinh tế.
- Phải
dùng hết tài trí thông minh, và lòng trung ái của mình khi xét xử.
- Phải
lưu ý dến mọi trường hợp.
- Khi
nghi ngờ, phải hỏi ý dân. Dân mà nghi không chắc, mình sẽ tha.
- Phải
khảo lại các án lệ trước. (Lễ ký, Vương chế , IV,
tiết 13 ).
Mỗi khi
gặp hình án quan trọng, Lục sự phải trình hồ sơ lên phủ đường. Phủ
đường xét hồ sơ rồi đệ lên Đại Tư Khấu (Tổng Trưởng Tư Pháp). Đại Tư
Khấu xét hồ sơ xong, đệ lên nhà vua. Nhà vua giao cho Tam Công xét
lại. Tam công xét xong, đệ lên lại cho nhà vua, bấy giờ mới quyết
định hình phạt.
Ngày
nay,
ở các nước văn minh, những người bị tội nhẹ như ẩu đả, trôm cắp v v
... thì bị xét xử nơi Tòa Tiểu hình, tội nhân sẽ bị phạt tiền, hoặc bị
giam giữ ngắn hạn. Còn những tội như cướp của, giết người, gây rối
trị an, lường gạt, bội tín sẽ bị coi là những trọng tội, và sẽ bị xét
xử nơi Tòa Đại Hình, tùy theo tội nặng nhẹ mà bị giam giữ lâu, hay
chóng, còn như giết người, tối đa sẽ có thể bị tử hình, chứ không có
những hình phạt dã man như ngày xưa.
Tóm
lại, ở Thời đại nào, chính quyền đặt ra luật pháp cũng chỉ cốt là bảo
vệ dân. Vậy làm dân, chúng ta tốt nhất là phải tôn trọng luật pháp, và
bảo vệ luật pháp.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
|