THƯỢNG KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30


 

29. 坎 為 水  KHẢM VI THỦY      

            BÁT THUẦN KHẢM

 

Khảm Tự Quái

坎 序 卦

Vật bất khả dĩ chung Quá.

陷 必 有 所 麗

Cố thụ chi dĩ Khảm.

故 受 之 以 離

Khảm giả hãm dã.

離 者 麗 也

 

Khảm Tự Quái

Sự đời tiến mãi được sao,

Cho nên quẻ Khảm đón, rào, vây, ngăn.

Khảm là gặp bước gian truân... 

 

Khảm là hãm, là mắc kẹt y như quẻ: một Hào Dương kẹt giữa hai Hào Âm. Vì thế Khảm cũng có nghĩa là nguy hiểm. Khảm là nước. Nước giữa giòng thời trong y như một Hào Dương tinh toàn, thanh khiết ở giữa hai hào Âm hai bên.

Khảm là do Hào giữa của Kiền mà thành. Như vậy Khảm là tinh hoa của Trời = Thần = Đạo tâm. Còn Ly là tinh hoa của Đất = Tâm = Hồn = Nhân tâm.

Con người sinh ra, ai cũng có tinh hoa của Trời tàng ẩn trong xác thân, y như một Hào Dương quẻ Khảm kẹt giữa hai hào Âm. Dầu sao Khảm, Ly cũng là trọng tâm của Trời Đất, cũng như Thần và Hồn là trọng tâm của vũ trụ. 

I. Thoán.

Thoán Từ.

 習 坎 . 有 孚 . 維 心 亨 . 行 有 尚 . 

Tập Khảm. Hữu phu. Duy tâm hanh. Hành hữu thượng.

Dịch.

Hiểm nguy, sau, trước, chập chùng,

Nếu ta thành khẩn, mới mong thoát nàn,

Chân thành, nên thoát nguy nan.

Việc làm như vậy, biết làm sao khen? 

Thoán Truyện.

彖 曰 : 習 坎 . 重 險 也 . 水 流 而 不 盈 . 而 不 失 其 信 . 維 心 亨 . 乃 以 剛 中 . 行 有 尚 . 往 有 功 也 . 天 險 不 可 升 也 . 地 險 山 川 丘 陵 也 . 王 公 設 險 以 守 其 國 . 坎 之 時 用 大 矣 哉 .

Thoán viết.

Tập Khảm. Trùng hiểm dã. Thủy lưu nhi bất doanh. Hành hiểm nhi bất thất kỳ tín. Duy tâm hanh. Nãi dĩ cương trung dã. Hành hữu thượng. Vãng hữu công dã. Thiên hiểm bất khả thăng dã. Địa hiểm sơn xuyên khưu lăng dã. Vương công thiết hiểm dĩ thủ kỳ quốc. Hiểm chi thời dụng đại hĩ tai. 

Dịch.

Thoán rằng: Nguy hiểm trập trùng ,

Nước vì trôi chảy, nên không tràn đầy.

Trong nguy, lòng vẫn thẳng ngay,

Thẳng ngay, may sẽ có ngày thoát nguy.

Gắng công, đáng được nể vì,

Gắng công, rồi sẽ thoát kỳ vận đen.

Trời cao, hiểm trở, khó lên,

Đất kia hiểm trở, sơn xuyên trập trùng.

Vương công dụng hiểm, bố phòng,

Giữ gìn bờ cõi, núi sông an bình.

Biết dùng hiểm, cũng lợi hanh,

Công trình dụng hiểm, âu đành lớn lao. 

 

Trong Thoán quẻ Khảm, Thánh nhân dạy:

1) - Phương pháp xử trí khi lâm hiểm.

2) - Phương pháp lợi dụng sự hiểm trở.

1) Phương pháp xử trí khi lâm hiểm:

Ở đời, hiểm nguy ai cũng thường gặp, nhưng khi gặp nguy hiểm phải xử trí ra sao? Thưa: ta phải thành khẩn, phải bình tĩnh. Gặp nguy mà giữ được lòng thanh thản, không rối rít, sẽ thoát hiểm. Vì thế Thoán nói: Dẫu gặp nguy hiểm trập trùng (Tập hiểm), mà thành khẩn (Hữu phu), mà tâm hồn thanh thản (Duy tâm hanh), thì hành động sẽ có kết quả

(Hành hữu thượng). Như nước chẩy, sẽ thoát qua mọi ngóc ngách, con người mà thành khẩn sẽ thoát qua mọi gian nguy (Thủy lưu nhi bất doanh. Hành hiểm nhi bất thất kỳ tín). Khi gặp hiểm nguy, hãy giữ cho lòng thanh thản, sắt son. (Duy tâm hanh. Nãi dĩ cương trung dã.) Thế tức là:

Sơn hà gặp buổi lao lung,

Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.

Đã sắt son, đã thành khẩn, thì hiểm nguy gì mà không vượt (Hành hữu thượng. Vãng hữu công dã). 

2) Phương pháp dụng hiểm để bảo vệ mình, bảo vệ quốc gia.

* Nơi cá nhân: Trung tín chính là giáp trụ, lễ nghĩa chính là can qua, để bảo vệ nhân cách con người.

* Trong xã hội: Chính, Hình, Uy, Thưởng

những hiểm trở để bảo vệ xã hội.

* Trong Quốc gia: (trong nước) thì lũy cao, hào sâu, núi cao, sông rộng, chính là những hiểm trở để bảo toàn bờ cõi, bảo vệ thành trì. Nhìn vào bản đồ Trung Quốc, ta thấy giới hạn của 3 nước được định bằng những hiểm trở thiên nhiên.

- Nước Ngụy ở phía Bắc, được giới hạn bằng dẫy núi Tần Lĩnh, và sông Dương, sông Hoài.

- Nước Ngô ở phía Đông Nam, giới hạn cũng bằng sông Dương, sông Hoài, ngăn Ngô và Ngụy. Và dẫy núi phía Tây ngăn Ngô và Thục.

- Nước Thục ở phía Tây đã có tiếng là hiểm trở, trập trùng.

- Các Kinh đô xưa, như Kiểu Kinh, Hàm Dương, Lạc Dương cũng thường ở vào những chổ nhiều sông, lắm núi để làm thế ỷ dốc, bên ngoài muốn tiến đánh rất là khó khăn. 

DÙNG HIỂM CÓ 2 CÁCH:

1) Lợi dụng mọi hiểm trở thiên nhiên, để bảo vệ mình (Hiểm chi dụng).

2) Lúc gặp ngoại xâm, lại phải tạo thêm hiểm trở (Hiểm chi thời).

Nước nào càng lắm hiểm trở thiên nhiên, càng ít bị ngoại xâm. Nước nào có nhiều đường lối xâm nhập, càng dễ bị chinh phục, (đó là Hiểm chi dụng).

Chiêm Thành xưa đã triệt để xử dụng Đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cả để bảo vệ đất nước.

Cho nên Dịch mới nói: Hiểm chi thời dụng đại hĩ tai. Biết dùng hiểm trở, lại biết khi nào phải dùng hiểm trở, để bảo vệ cho dân, cho nước, thì cao siêu biết chừng nào.  

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰 : 水 洊 至 . 習 坎 . 君 子 以 常 德 行 . 習 教 事 .

Tượng viết:

Thủy tấn chí. Tập Khảm. Quân tử dĩ thường đức hạnh. Tập giáo sự.

Dịch.

Tượng rằng: Nước chẩy liên hồi,

Đợt này, đợt khác, chẳng ngơi, chẳng ngừng.

Nên người quân tử soi gương,

Đường nhân, nẻo đức, thời thường chẳng sai.

Dạy người liên tục, không ngơi.

Thường xuyên nhắc nhở, chẳng rời phép khuôn.

Dòng nước chẩy liên tục, cho ta một bài học khác. Nước chẩy không ngừng, vì thế soi mòn được núi non, soi mòn được vàng đá. Vậy nếu con người cũng cố gắng học hỏi, tu thân, tiến đức, dạy dỗ người không ngừng, thì con đường tiến hóa làm gì có hạn định. Thế tức là: Nước chẩy lâu, đá cũng phải mòn, hay Có công mài sắt, có ngày nên kim. 

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện

Sáu Hào toàn bàn về cách xử hiểm. 

 

1. Hào Sơ Lục.

. 習 坎 . 入 于 坎  . .

象 曰 . 習 坎 入 坎 . 失 道 凶 也 . 

Sơ Lục. Tập Khảm. Nhập vu Khảm lãm. Hung.

Tượng viết:

Tập Khảm. Nhập Khảm. Thất đạo hung dã.

Dịch. Sơ Lục:

Ỷ mình quen với gian nguy,

Sa hầm, sụp hố, hèn gì chẳng hung.

Tượng rằng:

Ưa nguy, thời sẽ gặp nguy,

Không theo chính đạo, hèn gì chẳng hung.

Hào Sơ dạy không nên đùa rỡn với hiểm nguy. Nếu mình cứ xông liều vào nguy hiểm (Tập Khảm), ắt sẽ sa vào những hiểm nạn ghê gớm (Nhập vu khảm hạm). Như vậy là dở hết sức (Hung). Thế tức là: Chơi dao có ngày đứt tay.

Tiểu Tượng bình thêm: đùa rỡn với hiểm nguy là đi sai đường lối của Trời Đất, vì vậy nên hung (Thất đạo hung dã). 

 

2. Hào Cửu nhị.

九 二 .     坎 有 險 . 求 小 得 .

象 曰 .     求 小 得 . 未 出 中 也 . 

Cửu nhị. Khảm hữu hiểm. Cầu tiểu đắc.

Tượng viết:

Cầu tiểu đắc. Vị xuất trung dã.

Dịch.

Anh hùng gặp bước gian nan,

Dần dà, từ tốn, tính toan, gỡ lần.

Tượng rằng:

Tính toan nho nhỏ được rồi,

Giữa cơn hoạn nạn, đừng đòi hỏi hơn.

Hào hai Cương mà lại đắc trung, tức người quân tử biết xử hiểm, biết bảo vệ được mình. Khi gặp gian nguy, đừng vội liều lĩnh để thoát hiểm. Trong giữa cơn biến, mà thâu nhập được thắng lợi, dù nhỏ cũng đã quí, đừng nên quá nóng, quá hấp tấp, quá tham lam. Cũng như nước suối vừa tuôn, tuy còn ít oi, nhưng rồi ra sẽ lan tràn khắp nơi.

 

3. Hào Lục tam.

.     來 之 坎 坎 . 險 且 枕 . 入 于 坎 窟 . 勿 用 .

象 曰 .     來 之 坎 坎 . 終 無 功 也 . 

Lục tam. Lai chi Khảm Khảm. Hiểm thả chẩm. Nhập vu Khảm lạm. Vật dụng.

Tượng viết:

Lai chi Khảm Khảm. Chung vô công dã.

Dịch.

Tiểu nhân mà gặp gian nan,

Tiến lui cũng dở, ở càng nguy tai,

Nguy nan chồng chất bên ngoài,

Dẫu rằng vùng vẫy, cũng hoài công toi.

Tượng rằng: Lên xuống, đều nguy,

Cố công, rút cuộc ích gì cho cam.

Khi gặp gian nguy trập trùng, tiến lên cũng nguy, lui bước cũng nguy, thời đừng nên rối rít, đừng nên vọng động, kẻo sẽ nguy khốn thêm.

 

4. Hào Lục tứ.

六 四 .     樽 酒 簋 貳 . 用 缶 . 納 約 自 . 終 無 咎 .

象 曰 .     樽 酒 簋 貳 . 剛 柔 際 也 . 

Lục tứ. Tôn tửu quĩ nhị dụng phẫu. Nạp ước tự dũ. Chung vô cữu.

Tượng viết:

Tôn tửu quĩ nhị. Cương nhu tế dã.

Dịch.

Lòng thành, chén rượu, giỏ cơm.

Đồ sành lại lấy mà đơm, mà mời.

Chuyền qua lỗ cửa dâng người,

Chân thành, đạm bạc, ai cười, ai chê.

Tượng rằng: Chén rượu, giỏ cơm,

Cứng mềm, trên dưới, đôi đường giúp nhau.

Đại khái, Hào này nói: lúc hoạn nạn, lúc nguy nan, vua tôi giao tiếp nhau, nên tỉnh giảm lễ nghi hình thức bên ngoài, nên lấy lòng thành khẩn, chân thực, đối đãi với nhau. Lúc hiểm nàn, thời tặng nhau một bầu rượu, vài giỏ cơm, dùng bát đĩa sành, lại đưa qua cửa sổ, cũng vẫn được, miễn là thành khẩn cùng nhau. 

 

5. Hào Cửu ngũ.

九 五 :    坎 不 盈 . 只既 平 . 無 咎 .

象 曰 :    坎 不 盈 . 中 未 大 也 . 

Cửu ngũ. Khảm bất doanh. Kỳ ký bình. Vô cữu.

Tượng viết:

Khảm bất doanh. Trung vị đại dã.

Dịch.

Công trình trị hiểm còn vơi,

Nhưng mà hiểm sắp thoát rồi, lỗi chi?

Tượng rằng: Trị hiểm chưa xong,

Là vì tài đức chưa trung, chưa tuyền.

Tuy chưa thoát hiểm, nhưng tình thế đã bớt căng thẳng, y như sông Hoàng Hà, ở Long Môn thì nước còn chảy ào ào, nhưng đến bến Mạnh Tân, thì nước đã phẳng lặng hơn, thuyền bè đã có thể qua lại được.

Hào Năm, sở dĩ chưa thoát hiểm, là vì tuy đương sự có tài đức, có ngôi tôn, nhưng vì thiếu hiền thần phụ lực, phò nguy (Hào nhị cũng là Dương nên không ứng). Chưa thoát được hiểm, nghĩa là vẫn còn có khuyết điểm, hoặc về chính sách, hoặc về nhân sự, hoặc chưa gặp cơ hội (Khảm bất doanh. Trung vị đại dã). 

 

6. Hào Thượng Lục.

上 六 :     係 用 徽 . 置 于 叢 棘 . 三 歲 不 得 .

象 曰 :     上 六 失 道 . 凶 三 歲 也 .

Thượng Lục. Hệ dụng huy mặc. Trí vu tùng cức. Tam tuế bất đắc. Hung.

Tượng viết:

Thượng Lục thất đạo. Hung tam tuế dã.

Dịch.

Đã thừng, đã chão trói trăng,

Trói rồi, còn đặt giữa vùng góc gai.

Hung mà đến thế, thời thôi.

Ba năm hồ dễ có mòi thoát nguy.

Tượng rằng: Thượng Lục lầm đường,

Không theo chính đạo, tai ương bấy chầy.

Ba năm âu cũng đáng đời . . .

Hào 6. Gặp hiểm nguy cùng cực, mà không biết khéo xử, không biết hối quá lỗi lầm, thì làm sao thoát hung họa. Lưới tội khiên lúc ấy như thừng, như chão, trăng trói mình, như gai góc vương mắc mình, nếu không biết tìm đường rũ bỏ, thì làm sao mà chẳng gặp họa hung.

ÁP DỤNG QUẺ KHẢM VÀO THỜI ĐẠI

Quẻ Khảm trước hết có nghĩa là Nước, thứ đến Khảm có nghĩa là nguy hiểm.

1. Khảm có nghĩa là Nước. Dịch dạy ta tiến đức tu thân, bắt chước nước soi mòn vàng đá, và không bao giờ ngưng nghỉ.

2. Khảm có nghĩa là Nguy hiểm. Nói đến nguy hiểm, Dịch dạy ta phải biết dùng mọi nguy hiểm của cuộc đời để bảo vệ mình, bảo vệ Quốc Gia.

Khi có chiến tranh, người ta đào đường, đắp ụ, tiêu thổ kháng chiến, đó là gây khó khăn cho bên địch. Ta thấy trong chiến tranh Trung Nhật, thì chính phủ Tưởng Giới Thạch đã bỏ Nam Kinh, Bắc Kinh, là những nơi gần biển dễ chiếm, mà rút về Trùng Khánh (Vân Nam), là nơi khó khăn, hiểm trở hơn. Còn khi Quốc Cộng Trung Hoa giao chiến, thì Mao Trạch Đông đã chọn vùng Thiểm Tây hiểm trở ở phía Bắc, để làm Thủ Đô.

Ta cũng thấy, trước kia Liên Sô đã biết dùng thời tiết băng giá để chống với đại quân của Napoléon, và Hitler, và đã toàn thắng.

Ở Việt Nam, thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chỉ cách Saigon vài chục cây số, tại Củ Chi, Việt Cộng đã đào nhiều đường hầm, nằm ngay dưới các cơ sở Quân đội Cộng hòa và Mỹ. Tuy biết là có, nhưng Việt Nam và Mỹ, không làm sao mà tìm ra cách phá được. Vì thế Việt Cộng gọi Củ Chi là Tường Đồng, Vách Sắt. Mới hay, cái nhìn của người xưa thật là sâu sắc. Người xưa còn dạy ta: Khi gặp nguy cơ, phải bình tĩnh giải quyết thời sẽ thoát hiểm.

Những bài học thực tế trên, có giá trị muôn đời, và bao giờ đem áp dụng cũng thấy hợp thời, hợp thế.


» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30