THƯỢNG KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30


27. 山 雷   SƠN LÔI DI  

 

Di Tự Quái

頤 序 卦

Vật súc nhiên hậu  khả dưỡng.

物 畜 然 後可 養

Cố thụ chi dĩ Di.

故 受 之 以 頤

Di giả dưỡng dã.

頤 者 養 也

Di Tự Quái

Một khi súc tụ, lo đàng dưỡng nuôi.

Cho nên Di mới nối đuôi.

Di là di dưỡng, muôn loài trước sau. 

 

Di trên dưới có 2 Hào Dương, giữa 4 Hào Âm, trên là Cấn = Núi, là đứng yên. Dưới là Chấn = Sấm = là cử động, tượng trưng cho cái mồm, trên dưới có 2 hàm răng cứng, giữa là miệng, lưỡi trống hoặc mềm; lại có 2 hàm: hàm trên không cử động, hàm dưới cử động.

Trong quẻ Di có Tượng mồm miệng, Thánh nhân mới nghĩ đến vấn đề di dưỡng, chứ không nói rằng ăn uống, vì chữ di dưỡng bao quát hơn vấn đề ăn uống. Ta có thể nói: Di dưỡng tinh thần, đức hạnh, thân xác, tha nhân.

I. Thoán.

Thoán Từ.

: 貞 吉 . 觀 頤 . 自 求 口 實 .

Di: Trinh cát. Quan Di. Tự cầu khẩu thật.

Dịch.

Hay thay công cuộc dưỡng nuôi.

Hãy xem lề lối người đời kiếm ăn.

Di là dưỡng: dưỡng kỷ, dưỡng nhân, nhưng phải cho hợp lý, hợp nghĩa mới hay. Vì thế mới nói Di. Trinh cát. Di có 2 phương diện. Trình tử cho đó là: Dưỡng kỷ và Dưỡng thân. Chu Hi cho là Dưỡng đức và Dưỡng thân.

Chu Hi giải 2 chữ: Quan Di là xem mình chú ý di dưỡng cái gì nơi con người, Tự cầu khẩu thực = Cách thế sinh nhai. 

Thoán Truyện.

彖 曰 : . 貞 吉 . 養 正 則 吉 也 . 觀 頤 . 觀 其 所 養 也 . 自 求 口 實 . 觀 其 自 鄱 也 . 天 地 養 萬 物 . 聖 人 養 賢 . 以 及 萬 民 . 頤 之 時 義 大矣 哉 .

Thoán viết: 

Di. Trinh cát. Dưỡng chính tắc cát dã. Quan Di. Quan kỳ sở dưỡng dã. Tự cầu khẩu thực. Quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật. Thánh nhân dưỡng hiền. Dĩ cập vạn dân. Di chi thời đại hỹ tai. 

Dịch.

Dưỡng sinh, mà tốt, mà hay.

Tốt, vì hợp lẽ chính ngay đất Trời,

Xem nuôi, xem dưỡng những ai.

Lại xem cung cách sinh nhai mỗi người.

Đất trời nuôi dưỡng muôn loài

Thánh nhân dưỡng dục hiền tài, vì dân.

Dưỡng sinh, nghĩa rất cao thâm,

Tùy thời dưỡng dục, mười phân vẹn mười.

Trời đất sinh vạn vật, tức phải lo nuôi dưỡng vạn vật. Thảo mộc, cỏ hoa, ngũ cốc, nước nôi, không khí tràn đầy mặt đất, chẳng phải để dưỡng nuôi vạn vật là gì?

Thánh nhân cai trị thiên hạ, cũng phải lo nuôi dưỡng thiên hạ. Trị dân mà để dân đói, dân khổ, thời trị dân làm gì? Tuy nhiên, thiên hạ thời bao la, sức một người không sao gánh vác xuể, vì vậy Thánh nhân có bổn phận chiêu hiền, đãi sĩ, tìm những người hay, người giỏi về cộng tác với mình, cho họ bổng lộc, để họ cùng mình thi ân trạch xuống bá tánh, nuôi dưỡng bá tánh, như vậy mới là biết trị dân (Thiên địa dưỡng vạn vật. Thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân). Hiểu nghĩa chữ Di, biết tùy thời dưỡng kỷ, dưỡng nhân, thật là cao đẹp vậy. (Di chi thời đại hĩ tai). 

 

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰 : 山 下 有 雷 . . 君 子 以 慎 言 語 . 節 飲 .

Tượng viết:

Sơn hạ hữu lôi. Di. Quân tử dĩ thận ngôn ngữ. Tiết ẩm thực.

Dịch. Tượng rằng:

Ven non Sấm động là Di,

Hiền nhân ăn nói, hai bề vẹn hai,

Nói thời cẩn thận từng lời.

Ăn thời chừng mực, hẳn hoi, đường hoàng.

Đại Tượng nhân Tượng quẻ Di là mồm mép, khuyên ta nên: 1)- Thận trọng trong khi ăn nói. 2)- Tiết độ trong khi ăn uống. Đó là 2 bài học rất chí lý.

Thơ Bạch Khuê, trong Đại Nhã kinh Thi có 4 câu được Tạ Quang Phát dịch như sau:

Ngọc Bạch Khuê bị chầy, bị mẻ,

Mài láng trơn, có thể thành công.

Lời sai lầm, chót nói xong,

Chẳng làm gì được, răn lòng khắc ghi.

Ông Nam Dung thích đọc thơ này, và cố theo đó giữ gìn lời ăn, tiếng nói, nên Đức Khổng đã đem cháu gái gả cho (LN, XI, 5). Khi Đức Khổng vào thăm miếu của tổ tiên nhà Châu là Hậu Tắc, ngài thấy trước thềm bên phải, có một người vàng, miệng niêm phong 3 đợt, sau lưng có khắc những lời đại loại như sau:

Đây là Tượng một người xưa.

Lời ăn, tiếng nói, đắn đo giữ gìn.

Gương xưa, ta cũng nên xem,

Nói năng cẩn trọng, hãy nên lo lường.

(Khổng tử gia ngữ, chương Tắc miếu) 

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện

1. Hào Sơ Cửu.

初 九 :     舍 爾 靈 龜 . 觀 我 朵 頤 . .

象 曰 :     觀 我 朵 頤 . 亦 不 足 貴 也 . 

Sơ Cửu. Xả nhĩ linh qui. Quan ngã đóa Di. Hung.

Tượng viết:

Quan ngã đóa Di. Diệc bất túc quí dã.

Dịch.

Xấu thay người bỏ rùa linh (thần trong ta).

Trề môi, há miệng, mà rình xem ta.

Tượng rằng: Trề miệng nhìn ta (thèm ăn),

Thời đâu còn đáng gọi là thanh tao.

Hào Sơ có thể giải 3 cách:

1) Đường đường tu mi, nam tử mà không tin vào tài trí mình, có thể tự lực, cánh sinh mà phải bám vào người để cầu thực, thì chẳng ra gì (Hào tứ). Vì thế Tứ mới chê Sơ: Người có rùa linh = Có trí huệ, mà trề môi, há miệng, thèm thuồng đứng nhìn ta, thời đâu có hay.

2) Mê dục tình, mà táng khí tiết, thời đâu có hay.

3) Mình có nguồn đạo đức, có tàn lửa Thiên Chân bên mình, tại sao cứ chạy đi tìm những điều giả tạo bên ngoài, thế là đóng cửa đi ăn mày, thế là Thần lửa mà phải đi xin lửa. Những người như vậy, làm sao mà đáng quí được. 

 

2. Hào Lục nhị.

六 二 :     顛 頤 . 拂 經 . 于 丘 頤 . 征凶 .

象 曰 :     六 二 征 凶 . 行 失 類 也

Lục nhị. Điên Di. Phất kinh vu khưu Di. Chinh hung.

Tượng viết:

Lục nhị chinh hung. Hành thất loại dã.

Dịch.

Trên quay xuống dưới xin ăn,

Thế là trái với lẽ hằng thế gian,

Nhược bằng cầu cạnh người sang,

Người trên xa lạ, bắc quàng hay chi.

Tượng rằng: Cố vươn, cố với, hay gì,

Đôi bên đâu có tông chi, họ hàng.

Hào hai đề cập đến một hạng người không có óc tự tin, óc độc lập, không biết tự lực cánh sinh, mà những mong dựa vào người dưới, hoặc người trên để kiếm ăn.

Đáng lý mình nuôi người dưới mới phải, nay lại cầu người dưới nuôi mình (Cầu Sơ Hào), thế là đảo lộn nghĩa lý (Điên Di), thế là nghịch với lẽ thường (Phất kinh). Ngoài ra trông vào những người trên không có liên lạc gì với mình (Thượng lục) để cầu thực, thì làm sao mà hay, mà toại nguyện được (Vu khưu Di. Vãng hung). Cái không hay là đã dựa vào những người không đồng chí hướng với mình (Thất loại dã). (Hào Lục nhị Âm; Hào Sơ, Hào Thượng đều Dương, thế là thất loại). 

 

3. Hào Lục tam.

六 三 :     拂 頤 . 貞 凶 . 十 年 勿 用 . 無 攸 利 .

象 曰 :     十 年 勿 用 . 道 大 悖 也 . 

Lục tam. Phất Di. Trinh hung. Thập niên vật dụng. Vô du lợi.

Tượng viết:  

Thập niên vật dụng. Đạo đại bội dã.

Dịch.

Mưu sinh trái với đạo thường,

Mưu sinh mà đến bất lương, hay gì.

Cuối cùng sẽ chẳng ra chi,

Mưu toan dẫu lắm, chung kỳ cũng toi.

Tượngrằng: Chung cuộc cũng toi,

Là vì trái với đạo Trời quá đa.

Hào Ba đề cập đến một hạng người đi sai đường lối của Di. Phàm con người ta, phải lo di dưỡng tinh thần hơn là thể chất. Phải có những phương thế mưu sinh chính đáng, hẳn hoi, mới là đúng đạo lý của Di. Nếu phóng túng dục tình, chỉ lo thỏa mãn khẩu phúc, chỉ chìm đắm trong thanh sắc, lại có những đường lối sinh nhai bất chính, thì làm sao mà có một chung cuộc hay ho được (Lục tam. Phất Di. Trinh hung. Thập niên vật dụng. Vô du lợi).

 

4. Hào Lục tứ.

六 四 .     顛 頤 吉 . 視 眈 眈 . 其 欲 逐 逐 . 無 咎 .

象 曰 .     顛 頤 之 吉 . 上 施 光 也 . 

Lục tứ. Điên Di cát. Hổ thị đam đam. Kỳ dục trục trục. Vô cữu.

Tượng viết: 

Điên Di chi cát. Thượng thi quang dã.

Dịch.

Hạ mình cầu cạnh với người,

Cầu hiền chỉ giáo, hay thời đã hay,

Đăm đăm, chăm chú bấy chầy,

Như hùm rình rập, khôn khuây tấc lòng. 

Luôn luôn, những ngóng, cùng trông,

Trông người phụ bật, ai hòng cười chê.

Tượng rằng:

Hạ mình cầu cạnh, là hay,

Vì mình muốn sáng soi người gần xa.

Lục tứ là người có trách nhiệm dưỡng nuôi dân chúng, tuy mình vô tài (Âm nhu), nhưng biết khuất kỷ, cầu hiền (Hào Sơ Cửu); lòng lại đăm đăm, bo thiết, (Hổ thị đăm đăm), lòng bao giờ cũng canh cánh (Kỳ dục trục trục), muốn dụng hiền cho hay, dưỡng dân cho phải, thì dẫu mình làm một điều ngược với lẽ Trời, là nương vào tài đức của người hơn là trông vào thực lực của mình, cũng chẳng có lỗi gì (Điên Di chi cát). Hơn thế nữa, đó là cách trị dân quang minh vậy (Thượng thi quang dã). 

 

5. Hào Lục ngũ.

六 五 .     拂 經 . 居 貞吉 . 不 可 涉 大 川 .

象 曰 .     居 貞 之 吉 . 順 以 從 上 也 . 

Lục ngũ. Phất kinh. Cư trinh cát. Bất khả thiệp đại xuyên.

Tượng viết:

Cư trinh chi cát. Thuận dĩ tòng thượng dã.

Dịch.

Hạ mình, chịu nhún nhờ người,

Thế là trái với lẽ đời xưa nay.

Bền lòng, vững chí, thì hay,

Nhưng tài sức ấy, khó ngày băng sông.

Tượng rằng:

Bền lòng, vững chí, hay thay,

Là vì theo được người hay trên mình.

Ở vào bậc quốc quân, mà cảm thấy mình còn tài thô, trí thiển, lại biết hạ mình để nhờ hiền tài (Thượng Cửu), chỉ vẽ cho mình biết cách trị dân cho hay, cho khéo, tuy là trái với thông lệ (Phất kinh), tuy là không mấy sĩ diện cho mình, nhưng thật ra là điều rất tốt cho thiên hạ, nhất là khi mình lại thật tâm dùng người hiền đức, nghe lời người hiền đức (Thuận dĩ tòng thượng dã).

 

6. Hào Thượng Cửu.

上 九 :     由 頤 . 厲 吉 . 利 涉 大 川 .

象 曰 :     由 頤 厲 吉 . 大 有 慶 也 . 

Thượng Cửu. Do Di. Lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên.

Tượng viết:

Do Di lệ cát. Đại hữu khánh dã.

Dịch.

Đứng ra dưỡng dục muôn người,

Những lo, cùng lắng, hay thời đành hay.

Dẫu băng sông lớn, băng ngay.

Khó khăn dẫu mấy, có ngày thành công.

Tượng rằng:

Đứng ra dưỡng dục mọi người,

Những lo, cùng lắng, hay thời đành hay.

Thấm nhuần ân trạch, đó đây,

Xa gần, chung hưởng những ngày hân hoan.

Hào Thượng Cửu ám chỉ một bậc hiền tài như: Y Doãn, Phó Duyệt, Chu Công, Tử Nha, Khổng Minh đã vì Quân Vương mà gánh vác việc nước, tận tụy một lòng vì nước, vì dân. lo cho dân no ấm (Do Di), thì phúc khánh cho quốc gia biết là mấy mươi (Cát đại hữu khánh dã).

ÁP DỤNG QUẺ DI VÀO THỜI ĐẠI

Trong Kinh Dịch, Di là cái mồm, nên bàn về Quẻ Di là bàn về di dưỡng. Di dưỡng là một định luật phổ quát:

*Trời đất di dưỡng vạn vật.

*Thánh nhân dưỡng hiền, và qua trung gian các hiền tài, dưỡng vạn dân.

*Con người sinh ra đời chẳng những phải biết lo cho thể xác mình, mà còn phải biết lo cho tinh thần mình nữa: 

I. Lo cho thể xác.

1. Dưỡng sinh = động tác, nghỉ ngơi đúng chừng mực. Thật vậy, sống ở thời đại văn minh vật chất này, con người sống như một cái máy. Để kiếm cho được thật nhiều tiền, họ làm việc bất kể thời gian, giờ giấc. Có người vì phải làm công việc quá độ, cơ thể không chịu đựng được, nên sinh ra đủ mọi thứ bệnh.

2. Dưỡng hình: Ăn uống, phải thời, đúng lúc. Cũng như trên, vì mải lo kiếm tiền, nên sự ăn uống thì bạ đâu ăn đó, không có điều độ, không hợp vệ sinh, nên lúc chưa già mà cơ thể đã nhiễm đủ mọi thứ bệnh, mọi thứ ung thư.

3. Dưỡng đức: Thứ nhất là ta phải kiểm soát lời ăn, tiếng nói. Các cụ xưa dạy con cháu thường nói: Bệnh tòng khẩu nhập. Họa tòng khẩu xuất nghĩa là bệnh từ mồm vào, họa từ mồm ra. Bệnh tật phần lớn là do ăn uống, tai ương là do mồm sinh. Ta vì ăn nói xô bồ, chê bai, khinh khi mọi người, nên bị mọi người thù oán. Nên ta cần phải biết giữ mồm, giữ miệng. Cho nên, Esope xưa mới nói: Xấu nhất là cái lưỡi, tốt nhất cũng là cái lưỡi. 

II. Di dưỡng Tinh thần:

Nếu xác ta cần được nuôi, thì tinh thần ta cũng cần được dưỡng như vậy. Ta sống không phải nguyên vì cơm, gạo, bánh mì. Mà ta cần phải đọc thêm nhiều sách vở. Có như vậy ta mới là con người toàn diện. Ngày nay, nước Hoa Kỳ cho ta nhiều cơ hội được đọc sách của bất kỳ Đạo Giáo nào, và cũng không ai bắt ta phải tin gì, hoặc theo đạo nào. Đọc sách không cần đọc nhiều. Cần nghiền ngẫm quyển sách nào mà ta cho rằng đắc ý nhất. Và ta nên nhớ, Thánh Hiền sau trước, không phân Đạo Giáo, đều nói một thứ Chân Lý, đều bàn về Bản thể con người, về Đạo thể vô biên tế mà thôi. 

III. Dưỡng nhân: Lo lắng, nuôi dưỡng muôn dân.

Người làm Chính trị tuy không trực tiếp nuôi dân, nhưng thật ra vẫn gián tiếp nuôi dân. Thực vậy, họ đã lập ra pháp luật để mang an bình, trật tự lại cho mọi người. Nếu không có an bình, trật tự thì làm sao ta giữ nổi miếng ăn.

Hiện nay, ở Mỹ chính phủ đã lo thực phẩm cho dân quá đầy đủ, chẳng những thực phẩm do trong nước sản xuất, mà còn nhập cảng đủ thứ, từ nơi xứ người, nên người dân không bị thiếu thốn về thực phẩm, hay thua sút dân tộc khác. Nhưng nếu con người sinh ra mà chỉ để ý đến thân xác, hoặc ăn uống mà thôi, thì thật quá tầm thường.

Theo thiển ý của tôi, Vấn đề di dưỡng phải dung hòa đủ mọi mặt như trên đã nói, thì mới là quân bằng sự đòi hỏi về đời sống của con người. Tức là: Di dưỡng là: Dưỡng sinh, dưỡng đức, dưỡng hình, dưỡng nhân.

 


» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30