THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23
24
25 26
27 28
29 30
24.
地 雷 復
ĐỊA LÔI PHỤC
Phục Tự
Quái |
復
序
卦 |
Bác giả
bác dã. |
剝
者
剝
也 |
Vật bất
khả dĩ chung tận. |
物 不 可 以 終 盡。 |
Bác cùng
thượng phản hạ. |
剝
窮 上 反 下, |
Cố thụ
chi dĩ Phục. |
故 受 之 以 復。 |
Phục Tự Quái
Sự đời
đâu mãi tan hoang,
Bác
cùng trên dưới, đôi đàng trở trăn.
Cho nên Phục đã theo chân...
Quẻ Phục
là một trong những quẻ quan trọng của Dịch kinh; nói lên được lẽ
Âm Dương tiêu trưởng, lẽ phản phục của Trời Đất và của tâm lý con người. Từ xưa tới nay, các nhà bình giải cũng đã nhận định được rằng: Quẻ Phục
đề cập đến 2 vấn đề:
- Sư hồi
phục của khí Dương.
- Sự hồi
phục của nhân tâm về cùng đạo lý.
Ngày nay,
với sự tiến triển của Khoa Học, với sự phổ biến của các Triết
thuyết Âu. Á, ta có thể bàn rộng hơn về lẽ phản phục của Đất,
Trời, cũng như của Lịch sử.
A. Phục
đánh dấu 1 thời kỳ mà vũ trụ sẽ bắt đầu co lại. Vì nếu vũ trụ khuếch tán được, triển dương được, thì cũng có thể co lại
được, phản phục được. (M. Sénard , Le Zodiaque, Le Capricorne, p. 376).
Cũng một
nhẽ, thời gian cũng có thể phản phục được, vì thời gian gắn liền với
không gian. Cho tới ngày nay, ít ai nghĩ được rằng thời gian cũng có
hai chiều, hai hướng, cũng có thể vãng phục như không gian.
B. Phục
đứng về phương diện tiết khí, là lúc mà sinh khí phục hồi.
Trong
ngày Đông Chí, khi mà vạn vật trên mặt đất như đang muốn chết cóng vì
gió sương, băng tuyết, thì ở dưới lòng đất, Dương khí phục sinh,
để chuẩn bị cho gian trần một mùa Xuân mới, để đem lại cho muôn
loài một luồng sinh khí mới.
C. Phục
cũng vẽ lại con đường phiêu lãng của vừng Dương.
Phục xét
về phương diện Lịch số là ngày Đông Chí, là
ngày mà vừng Dương như dừng gót lại, để trở về sống gần gũi với Trái Đất
& Vạn vật hơn.
Các dân
tộc xưa thường ăn mừng ngày Đông chí, để đáng dấu sự phục sinh của
Mặt Trời, của thần Mithra.
Từ thế kỷ
thứ Tư, Giáo Hội La Mã cũng theo tục lệ của dân gian, mà ăn mừng Lễ
Sinh Nhật vào ngày 25 tháng chạp, tức là vài ngày sau tiết Đông Chí.
D. Xét
về phương diện Lịch sử,
thì khi
tới quẻ Phục, nhân loại đã đạt tới một mức độ văn minh vật chất tuyệt
đích.
E. Đối
với con người.
Quẻ Phục
là lúc con người trở nên minh giác, giác ngộ, biết được Thiên Mệnh, biết
được rằng trong lòng mình vốn có sẵn Lòng Trời:
Phục kỳ kiến Thiên địa chi tâm hồ?
Theo
Toán Học cổ truyền, con người có thể giác ngộ năm 42, 43
tuổi.
G. Về
Triết Lý & Đạo Giáo.
Quẻ
Phục nêu lên mấy vấn
đề:
1) Con
người khi nào sẽ kiến Thiên địa chi
tâm?
2)Và làm
sao biết mình đã kiến Thiên địa chi tâm?
Các nhà
bình giải thường cho rằng: chỉ khi nào tâm hồn con người chí hư, chí
tĩnh, mới thấy được Thiên địa chi tâm.
Thiên
tâm, đạo tâm là nguồn năng lực, là nguồn sinh hóa, cho nên khi đã kiến
Thiên Địa chi tâm, ta sẽ thấy tâm hồn chuyển động, nguồn sống
trở nên dạt dào, cảm hứng trở nên sôi động, trí tuệ trở nên mẫn tiệp. Nói tóm lại, ta đã trở thành con người mới.
Phục
chính là bước đầu của con đường trở lại. Dịch Kinh đề cập quẻ Phục một
cách đơn giản.
*Nơi
Thoán thì dùng cho sự hồi phục của Dương khí.
* Nơi
Tượng thì nói đến tục lệ đời xưa đã theo trong ngày Đông chí.
* Nơi các
Hào thì bình luận cung cách con người trở về cùng Đạo Lý.
I. Thoán.
Thoán Từ.
復:亨。
出 入 無 疾,朋 來 無 咎。 反 復 其 道,七 日 來 復,利 有 攸 往。
Phục. Hanh. Xuất nhập vô tật. Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật
lai phục. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Dương về,
vận đã hanh thông,
Cho nên xuất nhập thong dong, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Rồi ra sẽ hết vấn vương, lỗi lầm.
Đạo Trời phản phục, cùng thông,
Đường đi bảy độ, lại vòng về ngay.
Đường về, vận đã hoá hay.
Làm đi, rồi sẽ có ngày thành công.
Phục là
Dương khí mới trở về (Phục), và sẽ hứa hẹn một vận hội hanh thông
mới (Hanh). Người quân tử tuy biết rằng: Cơ phục hồi đạo lý đã
trở lại, nhưng chớ nên vội vàng, chớ nên hấp tấp mà hại cho đạo lý, cho
lý tưởng (Xuất nhập vô tật). Hãy ráng chờ cho thêm đồng tâm,
đồng chí (Bằng lai), rồi mới tránh khỏi được những chuyện lỗi lầm
(Vô cữu).
Cơ Trời
muốn phục hồi, phải qua hết 6 giai đoạn biến hóa, đó là: Cấu ( tháng
5), Độn (tháng 6), Bĩ (tháng 7), Quan (tháng 8), Bác (tháng 9), Khôn
(tháng 10). Thiên vận, thế vận, phải đi cho cùng đường biến hoá, từ
tinh thần ra đến vật chất, rồi mới có thể quay ngược trở lại được. Trở
về đến quẻ Phục, tức là giai đoạn thứ bảy. Lúc ấy người quân tử mới có
cơ hội hoạt động (Phản phục kỳ đạo thất nhật lai phục. Lợi hữu du
vãng).
Thoán
truyện.
彖 曰 : 復 亨 ﹔ 剛 反,動 而 以 順 行,是 以 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。反 復 其 道,七 日 來 復,天 行 也。 利 有 攸 往,剛 長 也。 復 其 見 天 地 之 心 乎?
Thoán viết:
Phục
hanh. Cương phản. Động nhi dĩ thuận hành. Thị dĩ xuất nhập vô tật.
Bằng lai
vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Thiên hành dã.
Lợi hữu
du vãng. Cương trưởng dã. Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ.
Dịch.
Thoán rằng:
Vận Phục
mà hay,
Là vì Dương cứng tới nay phục hồi,
Động mà vẫn thuận cơ Trời,
Cho nên lui tới thảnh thơi, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Xây nền đạo lý, ai than, ai cười.
Vãng lai, phản phục đạo Trời,
Đi đà bảy độ, lại hồi, lại quay.
Làm gì cũng sẽ mắn may,
Là vì Dương vận tới ngày hanh thông,
Phục rồi, được thấy Thiên tâm,
(Vì lòng Trời đất cũng trong lòng người.)
Thoán
Truyện
đã đưa ra
2 nhận định:
1.)
Người quân tử tuy nay gặp hoàn cảnh thuận tiện hơn để hoạt động, nhưng
phải hành động cho khéo léo, cho hợp với đạo lý, như vậy mới không chiêu
hại cho mình (Động nhi dĩ thuận thị dĩ xuất nhập vô tật.)
2.) Lúc
này là lúc con người trở về để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm. Tìm ra được Thiên địa chi tâm, chẳng qua là tìm ra được Đạo tâm vi
tế trong lòng mình, và nói lên được như Thánh Phao Lồ rằng:
Tôi nghĩ tôi có Thần Chúa trong tôi (I Cor. J. 39)
II. Đại
Tượng Truyện.
象 曰 : 雷 在 地 中,復
; 先 王 以 至 日 閉 關,商 旅 不 行,后 不 省 方。
Tượng
viết:
Lôi tại địa trung. Phục. Tiên vương dĩ chí nhật bế quan.
Thương lữ bất hành. Hậu bất tỉnh phương.
Dịch.
Tượng rằng:
Phục là
lòng đất sấm ran,
Tiên vương Đông chí, cửa quan bế tàng.
Ngược xuôi, vắng bóng khách thương.
Nhà vua tránh chẳng lên đường tuần du.
Tượng
Truyện
nhắc lại hành động của những vị quân vương xưa trong ngày Đông Chí:
Đông chí là ngày Nhất Dương sơ động, chính là lúc ứng vào Hào
Sơ quẻ Kiền: Tiềm long vật dụng = Rồng ẩn chớ dùng. Cho nên
ngày ấy, đóng cửa quan ải, ngăn cấm khách thương đi lại, và nhà vua cũng
không đi tuần thú. Nguyên tắc của các vị quân vương xưa là : Theo
Trời mà hành sự, cho nên ngày Thu phân thì truyền cho sửa sang lại
cân lạng,(vì là ngày tượng trưng cho sự quân bằng mọi sự = ngày, đêm dài
bằng nhau), ngày Đông chí là ngày hàm dưỡng, nghỉ ngơi.
III. Hào
Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào
bàn về sự trở về cùng đạo lý. Nguyên tắc tu thân xưa là: Tu thân
dĩ đạo. Tu đạo dĩ nhân = Dùng đạo để tu thân. Lấy sự hoàn thiện để tu
đạo.
Tu thân
là đi vào con đường hoàn thiện, là để trở nên hoàn thiện, là để tìm cho
ra được Thiên địa chi tâm = tìm cho ra được đạo tâm.
1. Hào Sơ
Cửu.
初 九. 不 復 遠,無 只 悔,元 吉。
象 曰: 不 遠 之 復,以 修 身 也。
Sơ Cửu: Bất viễn phục. Vô kỳ hối. Nguyên cát.
Tượng
viết:
Bất viễn
chi phục. Dĩ tu thân dã.
Dịch.
Chưa xa
đã biết phục hồi,
Thế thời khỏi hối, thế thời rất may.
Tượng rằng:
Chưa xa
đã biết phục hồi,
Tu thân ấy chính cơ ngơi mối giường.
Hào Sơ
là nhất Dương sơ động, ám chỉ những hạng người như Nhan
Hồi, hăng hái theo đường đạo lý. Tuy chưa phải là Thánh Hiền, tuy
hãy còn có những điều lầm lỗi, nhưng lỗi thời biết, biết thời không tái
phạm nữa.
Tóm lại,
Hào Sơ là những người đã sống gần tới mức lý tưởng, dầu chưa được
mười phân vẹn mười, thì cũng đã gần Trời, gần Đạo. Mỗi khi có một
tà niệm, một mầm mống bất thiện nào vừa muốn nhô lên trong tâm hồn họ,
là họ cố tiêu diệt ngay, vì vậy tâm hồn họ thời thường là như ngọc
trắng, gương trong chẳng bợn trần ai, tục lụy. Vì vậy, Hào Sơ này nói
lên hai chữ tu thân, tức là đặt căn bản cho công cuộc tu thân
vậy.
2. Hào Lục
Nhị.
六 二 : 休 復,吉。
象 曰: 休 復 之 吉,以 下 仁 也。
Lục nhị.
Hưu phục. Cát.
Tượng
viết:
Hưu phục
chi cát. Dĩ hạ nhân dã.
Dịch.
Phục hồi đẹp
đẽ biết bao!
Tượng rằng:
Phục hồi đẹp đẽ biết bao.
Là vì đã biết nương vào đức nhân.
Hào Lục
nhị
là hạng người trung chính, lại có cái may mắn ở gần những người hiền
đức. Họ là những người thành khẩn, muốn khắc kỷ, phục lễ, lấy sự hoàn
thiện làm tiêu chuẩn cho đời mình, và công cuộc tu thân đối với họ cũng
chẳng mấy khó khăn. Vì thế, dùng chữ Hưu phục.
Hào hai
chỉ nói đến tu thân, đến sự hoàn thiện để làm tiêu
chuẩn cho cuộc đời, nên đặc biệt có chữ Nhân.
3. Hào Lục
tam.
六 三 : 頻 復,厲 無 咎。
象 曰: 頻 復 之 厲,義 無 咎 也。
Lục tam.
Tần phục. Lệ. Vô cữu.
Tượng
viết:
Tần phục
chi lệ. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Trở đi,
trở lại nhiều lần,
Tuy rằng nguy hiểm, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Trở đi, trở lại nhiều lần.
Xét theo nghĩa lý, thì lầm lỗi chi?
Hào Lục
tam
chỉ những hạng người thiếu nghị lực, nên tuy muốn bỏ điều xấu, mà vẫn
không thể dứt bỏ, vẫn sa đi, ngã lại nhiều lần. Mặc dầu vậy, mỗi lần họ
sa ngã, là một lần họ ăn năn, họ chỗi dậy. Nếu đã thực tâm hối quá, thì
cũng không đáng chê bai.
4.
Hào Lục
tứ.
六 四 :
中 行 獨 復。
象 曰: 中 行 獨 復,以 從 道 也。
Lục tứ.
Trung hành độc phục.
Tượng
viết:
Trung
hành độc phục. Dĩ tòng đạo dã.
Dịch.
Một mình
giữa bọn tiểu nhân,
Thế mà đơn độc hồi tâm, hồi đầu.
Tượng rằng:
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Một mình trở lại theo chân đạo Trời.
Hào Lục
tứ
Độc Phục chính là những cánh sen trong bùn, gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn. Tuy sống trong hoàn cảnh ngang trái, mà lòng
vẫn hướng về lý tưởng, đaọ lý. Sống giữa bầy tiểu nhân, mà lòng vẫn
hướng về phía chính nhân, quân tử.
5.
Hào Lục ngũ.
六 五 : 敦 復,無 悔。
象 曰: 敦 復 無 悔,中 以 自 考 也。
Lục ngũ. Đôn Phục. Vô hối.
Tượng viết:
Đôn Phục
vô hối. Trung dĩ tự khảo dã.
Dịch.
Lục ngũ:
Đạo
Trời thành khẩn phục luôn.
Hết còn hối hận, tâm xoang an bình.
Tượng rằng:
Đạo
Trời thành khẩn phục luôn.
Một mình nghiền ngẫm sớm hôm đạo Trời.
Hào Lục
ngũ
là hạng người không có cái duyên may mắn gần được người Hiền Thánh,
nhưng đã một mình tìm được ra Chân Lý (vì thế gọi là tự khảo),
mà khi đã tìm ra được đạo lý rồi, thì nhất tâm giữ vẹn Đạo Trời.
6. Hào
Thượng Lục.
上 六 :
爻 辭:迷 復,凶,有 災 眚。用 行 師,終 有 大 敗,
以 其 國 君,凶 ; 至 于 十 年,不 克 征。
象 曰: 迷 復 之 凶,反 君 道 也。
Thượng
Lục. Mê Phục. Hung. Hữu tai sảnh. Dụng hành sư.
Chung
hữu đại bại. Dĩ kỳ quốc quân hung. Chí vu thập niên bất khắc chinh.
Tượng
viết:
Mê phục
chi hung. Phản quân đạo dã.
Dịch.
Thượng Lục:
Nếu mà mê mẩn, chẳng hồi tâm,
Thời thôi họa hại, thật vô ngần.
Điều động binh đao, âu cũng hỏng,
Dẫu làm vua chúa, vẫn gian truân.
Mê chi, mê mẩn tâm thần.
Suốt đời vẫn chẳng qui tâm, hồi đầu.
Tượng rằng: Mê chẳng phục hồi.
Ấy là phản lại đạo Trời trước sau.
Hào
Thượng Cửu:
Tuy là ở trong hồi Phục Hưng đạo lý, hồi mà nhân tâm qui thuận thiên lý,
cũng vẫn có những người mê lú, không chịu trở lại đường ngay. Họ không
chịu phục thiện được vì nhiều lẽ:
1) Vì
địa vị họ quá cao, nên họ không thể nhận chân lý, nhận đạo lý nơi người
khác.
2) Họ xa
những người hay, nên không có dịp trở về cùng đạo lý.
3) Bản
chất họ tối tăm, dày đặc, nên họ không thể khai ngộ được.
4) Họ
không đủ nghị lực để cải tà, qui chánh.
Khi mà họ
đã một mực theo đường tà, mặc cho dục tình lôi cuốn, không đếm xỉa gì
đến đạo lý nữa, thì dĩ nhiên họ sẽ lâm vào cảnh quốc phá, gia vong. Dẫu
họ có làm vua, làm tướng chi nữa, nếu không theo chính nghĩa, thì cũng
chỉ là hôn quân, bại tướng.
ÁP DỤNG QUẺ PHỤC
VÀO THỜI ĐẠI
Có nhiều
người, sau khi đã đi một quãng đường dài trong cuộc đời, đã từng thành
công cũng như thất bại, đã sống trên nhung lụa, kẻ hầu người hạ, nhưng
cũng có khi ăn tháng này, đã phải lo tháng sau liệu có đủ hay không?
Chợt một lúc nào đó, họ cảm thấy đời sống thật là vô vị, không lẽ sinh
ra đời chỉ là để lo làm sao cuộc sống được đầy đủ hay sao? Hay sinh ra
đời chỉ để làm phân bón nuôi vợ con? Sáng sớm thức dậy đã phải lo đi
làm việc, có nhiều người làm việc vất vả hơn trâu. Nhất là ở xứ Mỹ này,
đàn ông cũng như đàn bà có người ngày làm hai, ba nơi. Làm mệt quên
nghỉ, làm cốt chỉ để kiếm tiền cho thật nhiều, mặc dù họ không cần thiết
phải vất vả như vậy họ vẫn đủ sống. Họ làm việc mà không có mục đích,
không có lý tưởng, họ làm cho có nhiều tiền, để ăn tiêu huy hoàng hơn
người khác, và để tỏ cho người ngoài thấy họ là người tài giỏi, thế
thôi.
Nhưng có
ai chịu hiểu sâu sa hơn, là Thượng đế sinh ra loài người đâu phải chỉ để
nguyên có sống để mà hưởng thụ, như các loài động vật khác, mà
Ngài sinh ra loài người là muốn họ phải tiến hóa về mọi mặt, tiến
lên để giống Ngài.
Về mặt
Vật chất,
họ phải
tiến cao để tạo cho thế giới ngày thêm tươi đẹp, đầy đủ tiện nghi, cho
con người được thoải mái phần nào sau nhiều giờ làm việc trong ngày.
Về mặt
Tinh thần,
họ phải suy tư, tìm hiểu đâu là bản thể của mình, vì Thần của họ là gốc
gác Thần minh, họ phải biết đường để quay về với Thần minh, nếu không sẽ
có lúc họ cảm thấy đời vô ý nghĩa, và họ sẽ chán nản vô cùng, vì
thế có nhiều người chẳng hiểu vì lý do gì mà lại tự tử.
Thật vậy,
nếu chúng ta sinh ra đời, mà suốt cuộc đời sống không mục đích, không lý
tưởng, thì quả thật cuộc sống thật là vô vị, và lúc lâm chung chẳng hiểu
mình sẽ đi về đâu?
Theo
thiển ý của tôi, khi còn nhỏ sống trong gia đình, ta hãy ăn ở sao cho
cha mẹ, và thày giáo vui lòng. Khi khôn lớn, giữ sao cho hạnh kiểm
đường hoàng, cho minh chính để mọi người nể trọng mình. Ta cứ lập gia
đình, tạo sự nghiệp, để góp mặt với xã hội nhân quần. Nhưng khi tóc đã
hoa râm, đã qua được quá nửa đời người (quãng 42- 43 tuổi), thì ta phải
biết suy tư, học đạo để quay về với nguồn gốc của mình, nếu cứ mê đắm
trong hoan lạc, e cuối đời ăn năn không kịp, như Hào Thượng Lục của quẻ
Phục răn ta:
Chấp
nê, một dạ sống trong mê,
Nghĩa
lý, lìa xa chẳng chịu về.
Vương,
tướng nghênh ngang, phường múa rối,
Đạo Trời
chẳng biết, sống ra chi
!
Quẻ Phục
này đáng cho ta suy nghĩ vậy!
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23
24
25 26
27 28
29 30
|