THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
7.
地 水 師
ĐỊA ThỦy
SƯ
Sư Tự Quái |
師
序 卦 |
Tụng tất hữu chúng khởi,
|
訟 必 有 眾 起 |
Cố thụ chi dĩ Sư |
故 受 之 以 師 |
Sư Tự Quái
Tranh dành, quần chúng âu đành nổi
lên.
Quẻ Sư vì vậy tiếp liền.
Cá nhân bất hòa sẽ sinh kiện tụng. Quốc gia bất hòa cùng nhau, sẽ sinh chinh chiến. Cho nên sau quẻ
Tụng, bàn đến quẻ Sư. Quẻ Sư, trên là Khôn = Đất = Nhu thuận, dưới là
Khảm = Nước = Nguy hiểm, lại có 1 Hào Dương ở Cửu nhị, thống lãnh 5
Hào Âm. Nó gợi lên những ý nghĩa sau :
1. Chinh chiến là một công
chuyện hết sức hiểm nghèo, cần phải được thuận tình, thuận lý, tức là
phải có chính nghĩa, có lý do xác đáng, và được quốc dân tán thành mới
nên.
2. Đời xưa cho rằng: quân ẩn
trong lòng dân, như nước ẩn trong đất, quân và dân không thể rời
nhau. Thời bình thì quân là dân, thời chiến thì dân là quân. Vì thế
Chu Hi mới bàn rằng: Người xưa cho rằng quân nhân vốn đã tiềm ẩn
ngay trong tầng lớp nông dân, cái chí hiểm đã tàng phục ngay trong cái
chí thuận, và cái bất trắc đã tàng ẩn ngay trong cái tĩnh lãng.
Quân và dân liên lạc hết sức
mật thiết với nhau, nên tổ chức hành chánh (Quẻ Tỉ),
và tổ chức quân sự (Quẻ Sư) là hai tổ chức song hành và
tương ứng.
3. Quẻ Sư có một Hào Dương
(Hào Cửu nhị), thống lãnh quần Âm, đó là tượng trưng cho một vị tướng
soái, thừa ủy nhiệm vua, thống lĩnh ba quân xông pha gian hiểm, để
chinh thảo địch quân.
Trước khi khảo sát quẻ Sư, ta
nên biết Hiền thánh đời xưa rất ghét binh bị,
vì binh bị độc nhân, hại chúng. Hồng phạm Cửu trù, xếp Binh bị
vào hàng cuối cùng trong Bát chính (tám phương sách trị dân).
Gần đây, Thánh Gandhi cũng
nhất định đề xướng lên cùng thế giới chủ trương Bất hại (
Ahimsa), và chủ trương Bất bạo động. Ông viết: Nếu trong
một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa, cần phải hại tới sinh mạng con
người, thì người ta nên bắt chước chúa Jésus sẵn sàng đổ máu mình,
thay vì đổ máu kẻ khác, như vậy máu bớt chẩy trong hoàn vũ (
Autobiographie d'un Yogi p, 440 ).
Tự Quái đề cập tới duyên cớ
chiến tranh, và cho rằng vì người ta chia rẽ, tranh dành nhau nên mới
có chiến tranh.
I. Thoán.
Thoán
Từ.
師:
貞,丈 人,吉. 無 咎。
Sư. Trinh. Trượng nhân,
cát. Vô cữu.
Dịch.
Xuất sư, chính nghĩa phải theo,
Tướng gồm tài đức, hết điều
dở dang.
Thoán Từ
chủ trương: Mỗi khi hưng sư, động
chúng phải có một duyên cớ xác đáng. Người xưa hưng binh để trừ bạo
chúa, như Thành Thang hưng binh diệt Kiệt, Võ Vương hưng binh diệt
Trụ. Vì vậy, không có động chạm đến dân chúng.
Thoán Truyện.
師,眾 也,貞 正 也,能 以 眾 正,可 以 王 矣。剛 中 而 應,行 險
而 順,以 此 毒 天 下,而 民 從 之,吉 又 何 咎 矣。
Thoán viết: Sư. Chúng dã. Trinh. Chính dã. Năng dĩ chúng chính. Khả dĩ vương hĩ. Cương trung nhi
ứng. Hành hiểm nhi thuận. Dữ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi. Cát. Hựu hà cữu hĩ.
Dịch.
Thoán rằng: Sư ấy quân đông.
Trinh là chính nghĩa, phục
tòng, mới hay.
Bắt quân theo được đường
ngay,
Đáng làm vương tướng, làm
thầy thế gian.
Cương cường, thừa lệnh quân
vương,
Đi vào nguy hiểm, biết
đường xở xoay,
Quân binh độc địa xưa nay,
Biết dùng, thiên hạ vẫn
quay theo mình.
Khéo dùng, quân sự cũng
lành,
Lỗi lầm, hồ dễ nẩy sinh
được nào.
Một khi đã có lý do chính đáng
để hưng binh, động chúng, nhà vua có nhiệm vụ lựa một tướng có tài đức
cầm quân. Quyết định này sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự thắng lợi của
toàn quân. Lịch sử đã chứng minh điều đó:
Bái Công thắng trận nhờ Hàn
Tín.
Nước Pháp thắng trận liên
miên ở Ý (1796), nhờ Carnot biết bổ dụng Bonaparte v v . . .
Vị nguyên soái ấy phải giữ
được chính nghĩa, thuận quân và thuận dân, đem chiến thắng vinh quang
về cho đất nước, mới có thể gọi được là xuất quân tuyệt hảo.
II. Đại Tượng
Truyện.
象 曰.
地 中 有 水,師﹔ 君 子 以 容 民 畜 眾。
Tượng viết:
Địa
trung hữu thủy. Sư. Quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Dịch.
Nước trong lòng đất, gọi là Sư,
Nuôi dưỡng nhân dân, hãy
lắng lo.
Quân tử dung dân, và xuất
chúng,
Quân dân đất nước, hãy nên
so.
Tượng Truyện
đề cập đến một vấn đề hết sức quan
hệ, và cho rằng quân là dân, dân là quân. Nuôi dân, dạy dân
tức là nuôi quân, dạy quân. Vấn đề này từ năm 1789 trở đi đã trở
thành một vấn đề quốc tế. Thực vậy, sau cuộc Cách Mạng Pháp, chính
phủ Pháp đã thực hiện một cuộc động viên toàn diện, và bắt toàn dân
tham chiến. Từ chủ nghĩa Karl Marx ra đời, các lãnh tụ Cộng Sản đều
lấy đó làm vấn đề then chốt. Và Cộng Sản đã thực hiện triệt để khẩu
hiệu Quân dân cá nước, cho quân lẩn vào dân, sống nhờ dân, phối
hợp với dân ( du kích chiến), phối hợp dân với quân ( Vận động chiến,
Trận địa chiến), để đi đến thắng lợi cuối cùng.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng
Truyện
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 師 出 以 律,否 臧 凶。
象 曰: 師 出 以 律,失 律 凶 也。
Sơ Lục. Sư xuất dĩ luật. Phủ tang hung.
Tượng viết:
Sư xuất dĩ luật. Thất luật hung dã.
Dịch. Sơ Lục:
Xuất quân cần có phép.
Nếu không hung họa sẽ tới
nơi.
Tượng rằng:
Ra quân phép tắc đàng
hoàng.
Nếu không phép tắc, tan
hoang đã đành.
Hào Sơ cho rằng ra quân cần
phải có kỷ luật. Điều này cả Đông lẫn Tây đều cho là then chốt. Quân
tướng mà không nhất trí, tiến thoái mà không đồng nhất, hiệu lệnh mà
không nghiêm chỉnh, thì cũng chỉ là loạn quân, là quân ô hợp, không
làm nên chuyện gì.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 在 師 中,吉 無 咎,王 三 錫 命。
象 曰:
在 師 中 吉,承 天 寵 也。 王 三 錫 命,懷 萬 邦 也。
Cửu nhị. Tại sư trung. Cát. Vô
cửu. Vương tam tích mệnh.
Tượng viết:
Tại sư trung cát. Thừa thiên sủng dã. Vương tam tích mệnh.
Hoài vạn bang dã.
Dịch.
Nếu gặp anh tài cầm quân lữ,
Rồi ra mọi sự sẽ hoá hay.
Vua đã ba lần ban tưởng
thưởng,
Nghĩ đến dân gian khắp đó
đây.
Tượng rằng:
Ở chốn ba quân, vẫn được
hay,
Ơn trời mưa móc, hưởng tràn đầy.
Ba lần vua đã ban ân
thưởng,
Vì luyến dân tình khắp đó
đây.
Hào Cửu nhị cho rằng tướng
soái cầm quân cần có tài đức và có đủ uy quyền. Đánh giặc cũng như
đánh cờ, giỏi sẽ thắng, dốt sẽ bại. Tôn Võ cầm quân đánh giúp vua
Ngô, nên Nam thì phá được Sở, Bắc thì phục được Tề, được Tấn. Hưng Đạo
cầm quân đã ba lần cả phá quân Nguyên. Tướng soái ra quân cần có đủ
uy quyền, như vậy binh sĩ mới phục. Trong quẻ Sư, Tướng soái là một
Hào Dương chói sáng, còn vị quân vương lại là một Hào Âm lu mờ, nghĩa
là ở nơi chiến địa, Tướng soái mới là Vua. Xưa kia, Vua tiễn
Tướng ra quân, thời nói: Từ cổng thành trở ra, là do Tướng
quân quyết đoán. Sở dĩ Vua trao quyền định đoạt cho
Tướng soái, là vì nếu Tướng không có quyền, thì không điều khiển được
sĩ tốt. Hơn nữa, nhà vua ở xa trận địa, không hiểu rõ được diễn biến
của tình thế một cách thấu đáo, nên không thể nào quyết đoán được sự
tiến, thoái, công, thủ được
3. Hào Lục tam.
六 三. 師 或 輿 尸,凶。
象 曰: 師 或 輿 尸,大 無 功也。
Lục tam. Sư hoặc dư thi. Hung.
Tượng viết:
Sư hoặc dư thi. Đại vô công dã.
Dịch.
Ra quân, mà đến chở thây,
Thì thôi, hung họa, đắng
cay, còn gì?
Tượng rằng:
Ra quân mà đến chở thây,
Công trình mây khói, khói
mây còn gì?
Hào Lục tam cho ta thấy tướng
dở mà cầm quân là đưa quân vào cõi chết. Năm 1954, ở Việt Nam, tướng
Navarre đã cho quân Pháp đóng vào lòng chảo của Diện Biên Phủ, một nơi
tử địa, chung quanh là núi non, lại thường có sương mù, nên đã làm mồi
cho các ổ trọng pháo của Việt Cộng, và đã phải đầu hàng ngày 7 tháng 5
năm 1954 sau 55 ngày ác chiến. Sau cuộc chiến này, sự đô hộ của người
Pháp trên lãnh thổ Việt Nam đã cáo chung.
4.
Hào Lục tứ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Lục tứ. Sư tả thứ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tả
thứ vô cữu. Vị thất thường dã.
Dịch.
Lục tứ, lui quân lại phía sau,
Lui quân, nào đáng trách
chi đâu.
Tượng rằng:
Lui quân có lỗi chi đâu,
Quân cơ, tiến thoái, trước
sau, là thường.
Hào Lục tứ bàn về một vấn đề
binh pháp, người làm tướng phải biết tiến, biết lui, như vậy mới có
thể bảo toàn được lực lượng. Chỉ biết tiến, mà không biết lui,
nguy hiểm vô cùng. Lỗi lầm của Hitler trong trận Stalingrad
là bắt tướng Paulus phải cố thủ, không được rút lui, mặc dầu đã ở
trong tình thế tuyệt vọng. Vì thế, nên ngày 31 tháng 1 năm 1942, hết
lương thảo và quân nhu, binh sĩ lại đau ốm, Von Paulus phải ra hàng
với 22 tướng và 200.000 quân sĩ.
Kutosof đã dùng chiến thuật
rút lui, vườn không, nhà trống, nhử đại binh của Napoléon vào trọng
địa, để rồi ra nhờ đói khổ, rét mướt, bệnh tật, và du kích, chiến
thuật tiêu hao, truy kích, mà làm cho 500 ngàn quân thiện chiến của
Napoléon hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ còn được vài chục ngàn người đi
không vững.
5. Hào Lục ngũ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Lục ngũ. Điền hữu cầm. Lợi chấp ngôn. Vô cữu.
Trưởng tử soái sư. Đệ tử dư thi. Trinh hung.
Tượng viết:
Trưởng tử soái sư. Dĩ trung hành dã.
Đệ tử dư thi. Xử bất đáng dã.
Dịch.
Lục ngũ: thú rừng về đồng nội,
Đi lùng, đi bắt, vẫn là
hay.
Dùng được tướng tài, thời
khỏi lỗi,
Dùng kẻ vô năng, sẽ chở
thây
Tướng tài dùng được, mới
hay,
Dùng người bất lực, chở
thây vong tàn.
Tượng rằng:
Tướng giỏi ra quân, quân
mới vẹn,
Người ngu khiển chúng,
chúng phơi thây.
Dùng người, có dở, có hay.
Hào Lục ngũ cho rằng chỉ khi
nào có quân xâm lăng vi phạm cõi bờ, thì mới nên xuất quân chinh
thảo. Vì dầu sao, binh cách cũng là chuyện bất tường. Người xưa có
câu: Binh đi tới đâu, chông gai nẩy tới đó.
Khi đã có lý do chính đáng để
hưng binh rồi, cần phải biết dùng tướng tài, bỏ tướng dở. Tôn Tử
viết: Binh là việc lớn của nước, là vấn đề sống chết, là con
đường còn mất, không thể không xét biết.
Tướng chịu trách nhiệm về sự
tồn vong của ba quân. Vua chịu trách nhiệm tìm ra tướng tài.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 大 君 有 命,開 國 承 家,小 人 勿 用。
象 曰: 大 君 有 命,以 正 功 也;小 人 勿 用,必 亂 邦 也。
Thượng Lục.
Đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia. Tiểu nhân vật dụng.
Tượng viết:
Đại quân hữu mệnh. Dĩ chính công dã. Tiểu nhân vật dụng.
Tất loạn bang dã.
Dịch.
Thượng Lục: quân vương truyền mệnh
lệnh,
Khai quốc công hầu, cấp đất
đai.
Tiểu nhân thôi chớ có xài.
Tượng rằng:
Nhà vua lúc thưởng công lao,
Tiểu nhân thôi chớ có trao
chức quyền,
Tiểu nhân, ăn chốc, ngồi
trên.
Loạn nhà, loạn nước, đến
liền chẳng sai.
Thượng Lục thì bàn rằng, khi
đã chiến thắng, khi chiến tranh đã kết liễu, thời nên tưởng thưởng
chiến sĩ cho trọng hậu, nhưng không được dùng kẻ tiểu nhân để trị
nước, vì đó là mầm họa hoạn. Thế mới hay, trị quân khác trị
dân, chống ngoại xâm khác với đem hưng thịnh về cho đất nước.
Những ý niệm đại cương trên
đây cũng làm ta suy nghĩ rất nhiều. Nếu đã mang danh tướng soái, cầm
quân diệt giặc, thì phải là người học rộng, biết nhiều, học các chiến
tích danh nhân kim cổ, đọc hết các binh thư, biết dùng thời tiết, biết
dùng người, dùng quân, dùng dân, biết khuyến binh, khích tướng, biết
dùng địa hình, địa thế, biết khai thác và lợi dụng triệt để các loại
vũ khí, các phát minh của khoa học để thủ thắng. Tóm lại, binh
là biến, người cầm binh phải biết biến. Nơi trang giấy nhỏ
này, ta không thể bàn cãi cho xiết mọi khía cạnh của chiến tranh, của
binh thư, binh pháp, của chiến thuật, chiến lược. Và ta cũng bắt
chước Kinh Dịch, nói đến Tụng, là ước mong không còn kiện tụng, nói
đến Sư là chỉ ước mong không còn chiến tranh trên mặt đất này nữa.
ÁP
DỤNG QUẺ SƯ VÀO THỜI ĐẠI
Trước khi nói về quẻ Sư, áp dụng vào
thời đại này, ta hãy đọc qua cách bầy binh, bố trận của người đời xưa,
và của người đời nay, để tìm ra sự khác biệt của chúng.
Tôn Võ Tử,
một binh gia nổi tiếng thời Xuân
Thu, tác giả bộ Binh Pháp Tôn Tử ( sách dùng binh sớm nhất của
Trung quốc) viết: Binh là việc lớn của nước, là vấn đề
sống chết, là con đường còn mất, không thể không xét biết.
*Binh thư Tôn Võ
cho rằng: Trong phép dùng
binh:
-Ta gấp 10 địch, ta bao vây.
-Ta gấp 5 địch, ta tấn công.
-Ta gấp 2 địch, ta chia quân
đánh 2 mặt.
-Ta ngang với địch, ta phải
biết quyết đánh.
-Ta kém hơn địch về quân số,
ta phải hết sức tránh né giao phong.
*Fabius,
nhờ chiến thuật tránh né và rút lui, đã cầm chân Annibal được mấy năm
trời, không cho tiến tới được La Mã. Nhờ vậy, sau này Scipion mới
đánh tan được quân Annibal ở Zania (202 BC ).
*Trương Lương,
đã dùng Tâm lý chiến
đánh tan quân của Hạng Võ.
*Kutosof
đã dùng chiến thuật rút lui, vườn không, nhà trống, đánh
quân của Napoléon, như trên đã nói.
*
Mao Trạch Đông, dùng chiến thuật du kích, và cho
khẩu lệnh là: Địch tiến, ta lui; địch nghỉ, ta quấy; địch mệt, ta
đánh; địch lui, ta đuổi.
*Napoléon, Clausewitz, Hồng
quân đã dùng chiến thuật
công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý (của Tôn võ Tử), là
đánh khi địch chưa đề phòng, ta
thình lình ra quân.
a -Điều
động binh mã sao cho âm thầm, ngày nghỉ, đêm đi, nấp trong rừng, nấp
trong dân, để địch quân không biết mình ở đâu, muốn gì, có bao nhiêu
quân, cơ giới gì.
b -Trước khi đánh, phải chuẩn
bị cho kỹ lưỡng, nghiên cứu tình hình địch quân cho cặn kẽ, bằng tình
báo, bằng dân, bằng quân. Kế hoạch xuất quân, phải soạn thảo kỹ càng,
tản binh để di chuyển, tập binh để xung kích.
c -Lúc đánh, phải có mục tiêu
rõ rệt, đường hướng rõ rệt, và đánh cho thần tốc, dũng mãnh,
sấm sét, ào ạt, lấy mười đánh một, đánh vào chỗ sơ hở, đánh vào lúc
bất kỳ. Xong xuôi phải khai thác thắng lợi, tiêu diệt địch quân.
*Binh pháp của Thống Tướng
Foch là lúc nào cũng phải
bảo tồn lực lượng, có tiền phong, tả dực, hữu dực, có trung quân, hậu
quân, có chính, có kỳ. Chính thường ở
giữa để thủ, kỳ thường ở hai cánh để công vào sườn, vào hông,
vào lưng địch.
Hơn nữa, binh pháp, chiến
pháp thường thay đổi luôn
luôn, cho hợp với tình thế, hợp với đà phát triển của khoa học, của vũ
khí. Dần dà, các chiến thuật gia, lấy dân và quân kết thành
thế liên hoàn, nên vừa có Du kích chiến, vừa có Chính qui
chiến, Trận địa chiến. Xử dụng được cả quân lẫn dân, biết động, tĩnh
khôn lường; biết tụ, tán; biết quyền, biến; biết chính, kỳ; biết triển
dương, thu xúc, tức là áp dụng được lẽ Dịch trong vũ trụ vào
Binh bị.
Khi xưa, trong chiến trận, chỉ
2 tướng đánh nhau, tướng nào thua, là quân hàng, coi như trận đó thắng
bại đã rõ rệt,( như vậy đỡ chết quân).
Sau đó, du kích chiến, trận
địa chiến v v... nên quân chết nhiều. Chiến tranh dần dà biến thành
một thứ chiến tranh toàn diện, có mục đích là tiêu diệt, thành thử có
một bộ mặt hết sức là ghê gớm. Người ta chế tạo ra bom nguyên tử,
khinh khí, hơi ngạt, và còn bom vi trùng để tiêu diệt nhau khi có chiến tranh.
Khi xưa, hưng binh để trừ bạo
chúa thôi, ngày nay chiến tranh để thực hiện mộng xâm lăng; xâm chiếm
đất đai; gây hiềm khích giữa các nước người để tạo chiến tranh, để bán
võ khí; hoặc chiến tranh để thực hiện chủ nghĩa của 2 khối Tư Bản &
Cộng Sản. Nay khối Cộng Sản đã cáo chung, mong rằng Hòa Bình sẽ tới,
và sẽ ngự trị mãi mãi trên trái đất này, đó là điều chúng ta & Kinh
Dịch mong mỏi vậy.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
|