THƯỢNG KINH

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30


 

5. 水 天 需  ThỦy Thiên Nhu 

 

Nhu Tự Quái

序 卦

Vật trĩ bất khả bất dưỡng dã

物 稚 不 可 不 養 也, 

Cố thụ chi dĩ Nhu

故 受 之 以 需﹔

Nhu giả ẩm thực chi đạo dã.

需 者 飲 食 之 道 也。

 

Nhu Tự Quái

Mông là dốt nát, mịt mùng, thơ ngây.

Thơ ngây, nuôi dưỡng mới hay,

Cho nên kế tiếp quẻ này, là Nhu.

Nhu là ẩm thực, ấm no. . .  

 

Nhu theo Từ nguyên, gồm hai chữ:  là mưa, Chuyên là cây non. Nghĩa là cây non mới mọc, cần được mưa móc đượm nhuần, nuôi dưỡng.

Vì thế Nhu có nghĩa đầu tiên là Ăn uống. Nhu theo Tượng quẻ là mây kéo đầy trời, nhưng chưa mưa. Phải chờ một khoảng thời gian nữa mới mưa. 

Nhu thành bởi Kiền (lão phụ = cha già), và Khảm (thứ nam), cũng gợi lên hình ảnh một người cha già đứng tựa cửa chờ con ở xa chưa về.

Nhu theo đức quẻ, thì là hiểm nguy (Khảm) ở trước mặt. Cho nên người quân tử phải sáng suốt (Kiền), phải biết khoan dãn, đợi thời, đừng có đâm vào vòng nguy hiểm.

Như vậy Nhu có 2 nghĩa:

1/ Tu dưỡng, ăn uống (nơi Tự Quái, Tượng, Hào 5)

2/ Chờ đợi thời cơ ( nơi Hào 1, 2, 3, 4,và 6 ).

Thoán Từ, Thoán Truyện, bất kỳ ở một quẻ nào cũng bàn tổng quát quẻ đó. Nhu lấy Hào  Cửu ngũ làm chủ Hào  

I. Thoán.   

Thoán Từ.

 需:有 孚,光 亨,貞 吉。 利 涉 大 川。

 Nhu. Hữu phu. Quang hanh. Trinh cát. Lợi thiệp đại xuyên.

Dịch.

Nhu là khoan dãn, đợi thời cơ,

Vững tin, vận sẽ sáng sủa ra.

Trinh chính rồi ra may mắn tới.

Tuy phải vượt sông, vẫn lợi mà.  

 

Thoán Truyện viết:

需, 須 也﹔ 險 在 前 也。剛 健 而 不 陷,其 義 不 困 窮 矣。需, 有 孚,光 亨,貞 吉。位 乎 天 位,以 正 中 也。利 涉 大 川,往 有 功 也。

Nhu. Tu dã. Hiểm tại tiền dã. Cương kiện nhi bất hãm. Kỳ nghĩa bất khốn cùng hỹ. Nhu. Hữu phu quang hanh trinh cát. Vị hồ thiên vị. Dĩ chính trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Vãng hữu công dã.

Dịch.

Nhu là khoan dãn, đợi thời cơ.

Trước mặt hiểm nguy, phải biết chờ.

Cương kiện, nhưng không mua chuốc hiểm,

Nên không cùng khốn, với sa cơ.

Nhu vững niềm tin, sáng sủa ra,

Chính trinh, may mắn sẽ chờ ta,

Vị ở ngôi Trời, trung chính đủ,

Dẫu phải vượt sông, vẫn lợi mà !

Vượt sông, cũng vẫn hay ho,

Việc làm sau, trước đều là thành công. 

 

Thoán Từ & Thoán Truyện bàn về quẻ Nhu một cách tổng quát: Trong trường hợp gặp nguy hiểm, nếu mình là người tài đức, minh chính, tự tín, tự cường, lại khôn ngoan biết lựa thời, lựa thế, không mua chuốc cho mình những nguy hiểm vô ích, thì đến khi hành sự chắc sẽ được hay.

Nhu lấy Hào Cửu ngũ làm chủ chốt. Cửu ngũ Dương cương, lại cư trung, đắc thiên vị, cho nên nơi Thoán Từ, ta thấy nói đến sự thành khẩn, phu tín, trinh chính v  v... Thoán Từ với câu: Lợi thiệp đại xuyên, làm ta liên tưởng đến Võ Vương đang chuẩn bị mạo hiểm vượt sông Hoàng Hà ( năm II trước Công nguyên), để đánh Trụ Vương. 

II. Đại Tượng Truyện.

Tượng viết:

象 曰: 雲 上 於 天,需﹔君 子 以 飲 食 宴 樂。

Vân thượng ư thiên. Nhu. Quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.

Dịch.

Tượng rằng: Mây ở trên trời,

Uống ăn, quân tử thảnh thơi vui vầy.

Tượng Truyện khuyên ta rằng: Phàm làm công chuyện gì, mà mình đã làm hết sức, thời không nên nóng nẩy muốn gặt hái ngay thành quả...Trái lại, hãy nên bình tĩnh, hãy dưỡng thân, dưỡng tâm, dưỡng trí, dưỡng thần, đợi chờ ngày thành công tới. Như thế, có khác gì Khương Tử Nha, ngồi câu nơi sông Vị, chờ ngày Văn Vương tới rước về làm Thượng Phụ đâu?.

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.

Sáu Hào quẻ Nhu chủ trương rằng: Dở, hay, không phải là chỗ ở xa, hay gần nguy hiểm, mà là ở chỗ biết chờ thời, hay không biết chờ thời. Gặp Hào Dương cương, thì khuyên nên nén lòng chờ đợi. Gặp Hào Âm nhu, thời dạy phải mềm dẻo để thoát nguy.  

1. Hào Sơ Cửu.

初 九.      需 于 郊。 利 用 恆,無 咎。

象 曰:    需 于 郊,不 犯 難 行 也。 利 用 恆,無 咎﹔未 失 常 也。

Sơ Cửu.

Nhu vu giao. Lợi dụng hằng. Vô cữu.

Tượng viết:  

Nhu vu giao. Bất phạm nạn hành dã. Lợi dụng hằng vô cữu.

Vị thất thường dã.

Dịch. Sơ Cửu:

Chờ trông ở cánh đồng,

Bền gan mọi sự sẽ nên công.

Bền bỉ chờ trông, không đáng trách,

(Trách sao được kẻ biết chờ mong).

Tượng rằng: Đợi ở ngoài đồng,

Khó khăn, trắc trở, ta không lao vào.

Bền gan, lợi ích biết bao,

An thường, thủ phận, trách sao được mình !

 

Gặp thời buổi hiểm nguy, ly loạn, nhưng mà mình được cái may mắn còn ở xa nguy hiểm. Tưởng nên bắt chước Khổng Minh, khi còn ở Ngọa Long Cương, giữ tròn Đạo lý, khí tiết, đừng có dại dấn thân một cách vô lý vào nguy hiểm, phong trần, để mắc họa thất cơ, lỡ vận. Thế mới là hay. 

 

2.  Hào Cửu nhị.  

九 二.      需 于 沙。小 有 言,終 吉。

象 曰:    需 于 沙,衍 在 中 也。雖 小 有 言,以 終 吉 也。

Cửu nhị. Nhu vu sa. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.

Tượng viết.  

Nhu vu sa. Diễn tại trung dã. Tuy tiểu hữu ngôn. Dĩ cát trung dã.

Dịch.

Hào Cửu nhị: đợi ngoài bãi cát,

Mặc xì xào, sau rốt sẽ hay.

Tượng rằng: Trên cát chờ trông,

Ngôi trung thanh thản, thung dung đợi chờ.

Mặc người đàm tiếu, nhỏ to,

Nhưng mà chung cuộc, bao giờ cũng hay.

 

Mình tuy đã gần hiểm nguy, mà vẫn giữ được bình tĩnh, trung chính, kiên nhẫn. Dẫu người không hiểu mình, mà nhỏ to, đàm tiếu, thời có hại chi đâu. Thế tức là:

Anh hùng chưa được cao nhân phục,

Khuất tiết, sui nên kẻ sĩ lờn! 

 

3. Hào  Cửu tam.

九 三.      需 于 泥,致 寇 至。

象 曰:    需 于 泥,災 在 外 也。 自 我 致 寇,敬 慎 不 敗 也。

Cửu tam. Nhu vu nê. Trí khấu chí.

Tượng viết.

Nhu vu nê. Tai tại ngoại dã. Tự ngã trí khấu. Kính thận bất bại dã.

Dịch.  

Hào Cửu tam: trong bùn đứng đợi,

Có khác gì mời gọi giặc đâu?

Tượng rằng:  Đợi ở trong bùn,

Hiểm nguy đã thấy nấp nom phía ngoài.

Tự ta gọi giặc tới nơi,

Hết lòng thận trọng, thoát thời bại vong.

 

Ở gần nguy hiểm, nếu không biết tự kiềm chế, mà cứ xông xáo tiến lên, thì có khác nào chiêu tai hoạ vào mình, mời giặc cướp tới hại mình đâu. Nhược bằng biết sợ sệt, biết thận trọng, sẽ thoát hiểm.

Đọc Hào này ta liên tưởng đến Tào Tháo, lúc sắp mắc trận hỏa công nơi sông Xích Bích, mà vẫn còn ngạo nghễ, không coi đối phương ra gì, vẫn uống rượu, thưởng trăng, ca ngâm, hớn hở. Tào tháo có biết đâu rằng mấy câu thơ của mình

Đêm nay, sao sáng, trăng thanh,

Về Nam, con quạ lao mình trên không,

Lượn quanh cây lớn ba vòng,

Tìm không chỗ đậu, lại vùng bay mau . . .

ít ngày nữa sẽ ứng vào mình, một tướng thảm bại, lạc lõng nơi Hoa Dung tiểu lộ, khuất kỷ cầu sinh. . .  

 

4. Hào  Lục tứ.

六 四.      需 于 血,出 自 穴。

象 曰:    需 于 血,順 以 聽 也。 

Lục tứ. Nhu vu huyết. Xuất tự huyệt.

Tượng viết.

Nhu vu huyết. Thuận dĩ thính dã.

Dịch.

Hào  Lục tứ: đợi chờ trong huyết,

Dẫu lọt vào hãm huyệt vẫn ra.

Tượng rằng: Trong máu đợi chờ.

Tùy thời xử sự, có cơ thoát nàn.

Mình dẫu đã lâm vào vòng nguy hiểm, nhưng nếu biết nhu thuận, tùy thời xử sự, thì cuối cùng cũng sẽ thoát hiểm. Hào  này làm ta liên tưởng tới Văn Vương, lúc bị giam nơi Dũ Lý. Trong vòng 7 năm, hằng ngày Trụ Vương sai người dò thám, bắt lỗi Văn Vương để mà trừ khử đi, nhưng vì Văn Vương khéo xử sự, nên Trụ Vương không làm gì được, cuối cùng đành phải phong tặng, và cho về nước.  

 

5.  Hào  Cửu ngũ.

九 五.     需 于 酒 食,貞 吉。

象曰:    酒 食 貞 吉,以 中 正 也。

Cửu ngũ. Nhu vu tửu thực. Trinh cát.

Tượng viết.

Tửu thực trinh cát. Dĩ trung chính dã.

Dịch.  

Hào  Cửu ngũ: đợi nơi ăn uống,

Cứ chính trinh, sẽ hưởng tốt lành.

Tượng rằng: Ăn uống, trông chờ,

Bền gan, trinh chính, rồi ra cát tường.

Chính trung, giữ vẹn lẽ thường.

Khi mình đã mài miệt học hành, một dạ tu thân, hoặc khi mình đã thi triển hết tài năng để trị dân, trị nước, mà  chưa  thâu lượm  được  những thành quả hiển nhiên, thì  đừng vội sốt ruột. Hãy biết vững bụng chờ thời. Hào  này làm ta nhớ mấy câu thơ của Chu Du:

Trượng phu phải lập công danh,

Công danh đã thỏa bình sinh trên đời.

Bình sinh, chí đã thỏa rồi,

Uống say, ta hát mấy lời ca ngông !  

 

6. Hào  Thượng Lục.

九 五.     需 于 酒 食,貞 吉。

象 曰:   酒 食 貞 吉,以 中 正 也。 

Thượng Lục. Nhập vu huyệt. Hữu bất tốc chi khách tam nhân lai.

Kính chi trung cát.

Tượng viết.

Bất tốc chi khách lai. Kính chi chung cát. Tuy bất đáng vị. Vị đại thất dã.

Dịch.  

Hào  Thượng Lục: sa vào địa huyệt,

Khách ba người chẳng biết tự đâu,

Đãi đằng, kính cẩn trước sau,

Rồi ra, muôn sự  một mầu an vui.

Tượng rằng: Không cầu, khách vẫn đến nơi,

Đãi đằng, kính cẩn, chuyện rồi sẽ êm.

Vị ngôi chẳng xứng, chẳng nên,

Rồi ra cũng bớt tần phiền, dở dang.

Cũng có người mắc phải hiểm nguy ghê gớm, nhưng vì có bạn bè đông đúc, hết lòng phù ủng, nên đã thoát hiểm. Đó là trường hợp Tiết Nhân Quí bị Lý Đạo Tông hãm hại, đến nỗi lâm đại nạn, may nhờ bè bạn bên ngoài như Uất Trì Cung, Từ Mậu Công, Trình Giảo Kim, hết lòng giúp đỡ, nên cuối cùng đã thoát được tai ương . . .

ÁP DỤNG QUẺ NHU VÀO THỜI ĐẠI

Gặp thời Nhu, vị nguyên thủ quốc gia phải nuôi dưỡng thiên hạ, cả về mặt tinh thần lẫn vật chất, chứ chẳng phải du ngoạn, yến ẩm, hoan lạc một mình.

Mây lơ lửng trên trời, rồi sau trước sẽ thành mưa, để nuôi dưỡng vạn vật, thì một nền hành chính đứng đắn, sau trước cũng phải đặt nặng vấn đề nuôi nấng vạn dân, vì vậy Chính Phủ phải lập các ngân khoản trợ cấp, học bổng, cho vay dài hạn, để giáo dưỡng hàng sĩ phu trong thiên hạ, và đào tạo những anh tài, những nhà bác học cho đất nước; xem xét việc trồng tỉa, khai khẩn, để nuôi dưỡng chúng dân, cung cấp quân lương đầy đủ để nuôi dưỡng binh lính, thu thập thuế má cho đầy đủ để nuôi nấng công chức của quốc gia, để mọi người đều được tự tại, thoải mái, thảnh thơi. Muốn được vậy, đâu phải công chuyện một sớm, một chiều.

Trên, ta mới bàn qua về mặt vật chất, mà một vị Nguyên thủ quốc gia, và Lưỡng viện của chính phủ phải lo cho dân. Còn về mặt tinh thần, cũng phải lo giáo hóa dân, từ lớp Mẫu giáo cho đến tuổi thành niên. Phải nâng đỡ những nhà Văn, nhà Báo, những nhà Tư tưởng, để họ có đủ khả năng về vật chất để ấn loát, mà truyền bá tư tưởng, truyền bá những cái hay, cái đẹp cho thế hệ sau này ( Mục này tôi nghĩ các quốc gia trên thế giới quả là quá khiếm khuyết),

Quẻ Nhu còn khuyên ta:  Phải biết chờ đợi. Phàm công chuyện gì mà mình đã làm hết sức, thời không nên nóng nẩy muốn gặt hái ngay thành quả. . .

Trái lại, hãy nên bình tĩnh, hãy dưỡng tâm, dưỡng trí, dưỡng thần, mà đợi ngày thành công tới.

Áp dụng vào ngày nay, có nhiều người ra trường mà không sao xin được việc làm. Ta phải bình tâm, suy xét xem ta đã khiếm khuyết cái gì. Sau khi biết, ta sẽ dễ dàng sửa chữa nó, và sau ta sẽ thấy ta xin việc dễ hơn trước nhiều. Ta đừng vội nản, và cho rằng Trời chẳng thương ta, hoặc sao số ta xui quá. Ta hãy phân tích xem ta đã làm theo những giai đoạn này chưa?

1. Môn ta đang học, ta có thật thích nó không? Hay chỉ theo học vì nó có cái bề ngoài sang trọng, hoặc là học theo sở thích của cha mẹ muốn nó. Nếu không thật thích, sao ta có thể hết sức cố gắng, chuyên cần, để hiểu nó một cách tường tận được.

2. Trong thời gian học, ta nên lợi dụng thời kỳ nghỉ hè, để xin vào làm công việc, giống như môn học của ta, để ta lấy kinh nghiệm, sau này khi tốt nghiệp ra ta dễ xin việc. Nếu có thể, hàng năm ta nên tập sự cùng một chỗ hay hơn, như vậy những nhân viên có kinh nghiệm trong sở, họ sẽ chỉ dẫn kinh nghiệm của họ cho ta một cách tường tận hơn.

3. Sau khi đã áp dụng 1, 2 ở trên mà ta cũng không xin được việc, thì là vì khả năng hấp thụ sự hiểu biết của ta hơi yếu. Nhưng đừng vội thất vọng, hãy tiếp tục học những lớp huấn luyện thêm về môn đó, nếu ta còn có đủ điều kiện vật chất để tiếp tục, nếu thiếu điều kiện, ta hãy xin một công việc thấp hơn ( dù nó ít lương hơn nhiều), nhưng phải cùng giống môn học của ta, và ta vẫn phải tiếp tục học lớp huấn luyện. Ta đừng bao giờ nản chí, như vậy sự thành công chắc chắn sẽ đến với ta.


» Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu | Dịch Kinh Giản Lược |

Quẻ 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14 

15  16  17  18  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  29  30