THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11
12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
12.
天 地 否
Thiên Địa Bĩ
Bĩ
Tự Quái |
否 序 卦 |
Thái giả thông dã. |
泰 者 通 也 |
Vật bất khả dĩ chung thông. |
物 不 可 以 終 通 |
Cố
thụ chi dĩ Bĩ. |
故 受 之 以 否 |
Bĩ Tự
Quái
Thái là thông suốt, thông lầu,
Muôn loài hồ dễ gót đầu hanh thông.
Cho nên Bĩ khởi lao lung...
Bĩ là Âm Dương cách trở, trời đất cách trùng,
cho nên vạn vật lâm cảnh bế tắc.
Bĩ là thời kỳ tiểu nhân lũng loạn chính quyền,
mặc tình làm mưa, làm gió; còn người quân tử thì lại bất đắc dụng,
bất phùng thời. Cái gì xui nên sự bế tắc, sự chia ly ấy? Chính là sự
thái thịnh. Tại sao? Vì khi thịnh, con người dân dần bớt cố gắng,
bớt đề phòng, bớt giữ ý, và bắt đầu đi vào con đường xa hoa hưởng
thụ.
Nói rằng: Bĩ tự Thái sinh, cũng y như
Dostoievski đã viết: Căn nguyên của sự chiến tranh chính là cảnh
thái bình (Max Scheller, L'Idée de la Paix et le
Pacifisme, p. 71).
Quẻ Bĩ ứng vào thời kỳ mà con người lấy vật chất
làm trọng tâm, lấy sự đấu tranh làm phương châm hàng động, lấy sự
thỏa mãn thị hiếu, thị dục làm cứu cánh, lấy sự thành công bên ngoài
làm tiêu chuẩn mà đánh giá con người. Thời ấy tất cả cái đẹp đẽ đều
phô ra ngoài, con người trở nên phù phiếm, phiến diện. Đạo đức, nhân
nghĩa cũng hời hợt nơi đầu môi, cửa miệng, và được lồng vào những lễ
nghi bên ngoài, được giăng mắc nơi đâu đường, xó chợ, dưói
hình thức bích chương và biểu ngữ... nhưng trên thực tế, đạo đức,
nhân nghĩa đã rời khỏi lòng con người.
Người quân tử khi thái bình, thì phải biết đề
phòng họa hoạn; lúc gặp cơn đen, vận túng, thời phải biết ẩn dật,
chờ thời, cố giữ lấy lề xưa, cách cũ, cố tài bồi cho văn hóa khỏi
suy vong, chờ cho đến khi thời cơ xoay chuyển đem đại vận, đem hanh
thông trở lại.
Thái, Bĩ là hai quẻ tương phản
nhau. Nhân tâm tốt hay xấu, thiên vận sẽ xoay theo.
Tích thiện thời cho gặp may, tích ác thời cho gặp dở. Nếu muốn
biết thời vận Bĩ, Thái ra sao, thì chỉ xem lòng người tốt hay xấu là
rõ. Ta thấy, trong Thái có Bĩ, trong Bĩ có Thái, đó là lẻ Ỷ
Phục của Trời đất.
I. Thoán.
Thoán Từ.
否 . 否 之 匪 人 . 不 利 君 子 貞 . 大 往 小 來 .
Bĩ: Bỉ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử
trinh. Đại vãng tiểu lai.
Dịch.
Thoán Từ.
Bĩ là lúc con người chia rẽ,
quân tử trinh bền, sẽ chẳng may.
Lớn đi, nhỏ lại từ đây...
Thoán Truyện.
Thoán viết.
否 之 匪 人
.
不 利 君 子 貞
.
大 往 小 來
.
則 是 天 地 不 交
.
而 萬 物 不 通 也
.
上 下 不 交
.
而 天 下 無 邦 也
.
內 陰 而 外 陽
.
內 柔 而 外 剛
.
內 小 人 而 外 君 子
.
小 人 道 長
.
君 子 道 消 也
.
Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử
trinh. Đại vãng tiểu lai. Tắc thiên địa bất giao nhi vạn vật bất thông dã. Thượng
hạ bất giao nhi thiên hạ vô bang dã. Nội Âm nhi ngoại Dương. Nội nhu nhi
ngoại cương. Nội tiểu nhân nhi ngoại quân tử. Tiểu nhân đạo trưởng. Quân
tử đạo tiêu dã.
Dịch.
Thoán rằng: Bĩ, vì người chia rẽ,
Quân tử trinh bền, sẽ chẳng may,
Lớn đi, nhỏ lại từ đây,
Là vì Trời đất, đôi nơi quải gàng.
Quần sinh bế tắc trăm đàng,
Dưới trên ly cách, suy tàn quốc gia.
Âm trong, Dương bị đẩy xa.
Trong mềm, ngoài cứng, phô ra mẽ ngoài.
Tiểu nhân lên mặt thầy đời,
Lòng thời ti tiện, mặt thời cao sang.
Tiểu nhân thi triển lối đường,
Còn người quân tử, mối giường ai hay.
Thoán Từ & Thoán Truyện cho rằng Bĩ là
thời kỳ đảo điên, chia rẽ, thời kỳ mà nhân nghĩa, đạo lý của người
quân tử trở nên lỗi thời, lạc hậu, thời kỳ mà tiểu nhân làm chủ
chốt, quân tử đứng chầu rìa; thời kỳ mà tiểu nhân lên hương, quân tử
xuống dốc; thời kỳ mà giang sơn, gấm vóc mất ý nghĩa cao đẹp của nó,
trở thành những chiêu bài cho tiểu nhân mưu cầu danh lợi. Dịch nói:
Thiên hạ vô bang, cũng như Á Nam Trần Tuấn Khải than:
Giang san này vẫn giang san,
Mà nay sẻ nghé, tan đành vì ai?
Tóm lại, Bĩ là thời kỳ mà con người không còn
thực thi nhân đạo nữa (Bĩ phi nhân).
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰
.
天 地 不 交 .
否 .
君 子 以 儉 德 辟 難
.
不 可 榮 以 祿
.
Tượng viết: Thiên địa bất giao. Bĩ.
Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn.
Bất khả vinh dĩ lộc.
Dịch.
Tượng rằng: Trời đất quải gàng,
Mỗi bên, mỗi ngã, đôi đàng chẳng giao.
Hiền nhân đức cả, tài cao,
Liệu bề che dấu, cốt sao thoát nàn.
Đừng mong lợi lộc, vinh quang.
Tiểu nhân đắc thế, ẩn tàng là hơn.
Gặp thời kỳ đảo điên, lòng người đổi trắng, thay
đen như vậy, người quân tử hãy nên quy ẩn, đừng để cho bả lợi
danh làm hoen ố lý tưởng và đạo nghĩa của mình.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.
1. Hào Sơ lục.
初 六
. 拔 茅 茹
. 以 其 彙
. 貞 吉 亨
.
象 曰
. 拔 茅 貞 吉
. 志 在 君 也
.
Sơ lục. Bạt mao như. Dĩ kỳ vị. Trinh cát hanh.
Tượng viết.
Bạt mao trinh cát. Chí tại quân dã.
Dịch.
Hào Sơ lục, cỏ gianh khi nhổ,
Nhổ một cây, cụm bủa lên theo.
Chính mình sẽ được may nhiều.
Tượng rằng: Cỏ gianh nhổ được tốt lành,
Là vì tâm trí vẫn dành thờ vua.
Theo đà tư tưởng ấy, Trình tử khi bình giải Hào Sơ đã cho rằng khi
đã cần phải rút lui, người quân tử phải rút lui toàn bộ, với tất cả mọi
đồng chí mình, như vậy mới hay.
Chu Hi thì giải ngược lại, mà cho rằng: Kẻ tiểu nhân mới ra cầm quyền,
cũng chưa có dịp làm gì ác lộ liễu, nên Thánh nhân mới khuyên họ hãy
theo chính đạo mà trị dân, trị nước, nếu được như thế sẽ hay, vì như vậy
tiểu nhân sẽ trở nên quân tử, mà giang san, đất nước sẽ có phần nhờ.
2. Hào Lục nhị.
六 二
. 包 承
. 小 人 吉
. 大 人 否 亨
.
象 曰
. 大 人 否 亨
. 不 亂 群 也
.
Lục nhị. Bao thừa. Tiểu nhân cát. Đại nhân bĩ hanh.
Tượng viết:
Đại nhân bĩ hanh. Bất loạn quần dã.
Dịch.
Hào hai: bao bọc, nghe theo,
Tiểu nhân như vậy, có chiều hay ho.
Khi người quân tử sa cơ,
Cố cùng, nhưng vẫn chẳng lo khốn cùng.
Rồi ra sẽ được hanh thông.
Tượng rằng:
Đại nhân khi bĩ, vẫn hanh,
Không hề cẩu thả, liên minh cùng người.
Hào hai cho rằng tiểu nhân cầm quyền, nếu còn biết nể nang, nghe theo,
đỡ đầu người quân tử thời cũng hay, cũng tốt. Tuy nhiên, người quân tử
không nên làm gì để đến nỗi tổn thương đến thanh danh, giá trị, lý tưởng
của mình, và cũng không thể như phượng hoàng thất thế phải theo đàn
gà được.
3. Hào Lục tam.
六 三
.
包 羞
.
象 曰
.
包 羞
.
位 不 當 也
.
Lục tam. Bao tu.
Tượng viết.
Bao tu. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Lục tam: mang lấy nhuốc nhơ.
Tượng rằng: mang lấy nhuốc nhơ,
Là vì ngôi vị đang là dở dang.
Hào ba cho rằng tiểu nhân cầm quyền, tuy bên ngoài thì cao kiêu, ngất
ngưỡng như vậy, nhưng thực ra họ vẫn tự thẹn với lòng, vì biết mình
không xứng đáng với chức vị.
4. Hào Cửu tứ.
九 四
. 有 命 無 咎
. 疇離 祉
.
象 曰
. 有 命 無 咎
. 志 行 也
.
Cửu tứ. Hữu mệnh. Vô cữu. Trù ly chỉ.
Tượng viết:
Hữu mệnh. Vô cữu. Chí hành dã.
Dịch.
Mệnh Trời đã có trong thân,
Nên không vấp vướng, lỗi lầm, đơn sai.
Đến Hào bốn, ta thấy cơ Trời đã bắt đầu xoay chuyển. Người anh hùng trị
Bĩ đã bắt đầu lộ diện. Đó là bậc cương minh chi tài, có sứ mệnh phục
hưng lại thời cuộc, và có đông bè bạn vui lòng phụ bật, để làm nên đại
cuộc.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五
. 休 否,大 人 吉
. 其 亡 其 亡
. 繫 于 苞 桑
.
象 曰 .
大 人 之 吉 .
位 正 當 也 .
Cửu ngũ. Hưu bĩ. Đại nhân cát. Kỳ vong kỳ vong. Hệ vu bao tang.
Tượng viết:
Đại nhân chi cát. Vị chính đáng dã.
Dịch.
Cơn đen, vận bĩ đã lui,
Đại nhân đã gặp được hồi hay ho.
rằng nguy, rằng hỏng mới là,
Khóm dâu vững chãi, thiết tha buộc ràng.
Tượng rằng:
Đại nhân được tốt, được lành.
Là vì địa vị phân minh, đàng hoàng.
Đối với người hùng có tài kinh bang, tế thế, có tài đem lại an bình,
khang thái và đạo đức lại cho nhân quần đó, Dịch kinh khuyến cáo hãy
biết lo lường, biết thận trọng, thì mới tạo nên được những thành quả
vững bền.
Hệ Từ quảng luận hào này như sau:
Nguy thay, kẻ tưởng vững ngôi,
Táng vong, kẽ ngỡ thảnh thơi, trường tồn.
Loạn là, kẻ tưởng trị an,
(Tưởng an, khinh thị, ly loàn mới sinh)
Cho nên quân tử giữ mình,
Đương yên, mà vẫn nhớ dành cơn nguy.
Đương còn, vẫn sợ mất đi,
Nước yên, mà vẫn phòng khi ly loàn.
Biết lo, thân mới được an,
Biết lo, nên mới bảo toàn quốc gia.
Dịch rằng:
Rằng nguy, rằng hỏng mới là,
Khóm dâu vững chãi, thiết tha buộc ràng.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九
. 傾 否
. 先 否 後 喜
.
象 曰
. 否 終 則 傾 . 何 可 長 也 .
Thượng cửu. Khuynh bĩ. Tiên bĩ hậu hỉ.
Tượng viết:
Bĩ chung tắc khuynh. Hà khả trường dã.
Dịch.
Cơn đen, vận bĩ hết rồi.
Trước thời bế tắc, sau vui mới là.
Tượng rằng: Bĩ cực, Thái lai,
Có gì trường cửu ở đời này đâu?
Thánh nhân kết thúc quẻ Bĩ bằng một niềm vui, bằng chữ Hỉ, và cho rằng
cơn đen, vận bĩ cũng có lúc phải cùng. Đó là một bài học dạy cách xử thế
hết sức là thâm thúy, nó là phản ánh đường lối chung của Dịch Kinh., mà
ta có thể tóm tắt như sau: Lúc thái thịnh, thì chớ nên kiêu sa, buông
thả, lúc nguy bĩ thì chớ nên thất vọng, chớ nên nạn lòng. Thế mới là:
Khi hay phải biết lo toan,
Khi cùng phải biết thi gan với đời.
ÁP DỤNG QUẺ
BĨ VÀO THỜI ĐẠI
Bĩ vào thời kỳ tiểu nhân lên cầm quyền. Tiểu nhân cầm quyền thì chỉ có
lớp người thống trị là sung sướng, còn dân con sẽ điêu linh. Đi vào lòng
con người lúc ấy, ta chỉ thấy dâm bôn, uế tạp, thấy ác độc, đố kỵ. Lòng
con người trở nên đêm trường tăm tối, vì đã vắngười bóng mặt trời nhân
nghĩa, lòng con người đã trở nên sa mạc khô khan, vì đã làm khô cạn hết
nước suối thương yêu.
Lúc ấy, xã hội cũng như cá nhân ưa lấy thiên lý, thiên đạo làm phấn sáp
tô điểm cho vẻ bên ngoài thêm lộng lẫy, mà bên trong là cả một bãi tha
ma nhân dục, là cả một hang ổ trộm cướp.
Cái xã hội, cái cảnh đời mà quẻ Bĩ muốn nói ra ấy, đã được tác giả (Nhân
Tử Nguyễn Văn Thọ) tả ra bằng những vần thơ sau đây:
Đời là chi, đời là một hý trường,
Lấy áo mão, đem thay chân giá trị.
Mới thoạt nhìn, tưởng ngọc ngà thanh quý,
Để tâm dò mới thấy rặt bùn đen,
Vỏ nhân nghĩa, mà ruột chặt kim tiền,
Mặt đạo đức , nhưng lòng đầy gươm giáo.
Đời là chi, mà sao đầy giả tạo,
Bán tài tình, bán cả đến phấn son,
Bán khoé mắt, bán cả trái tim non,
Đem cao thượng mà tô lòng đen bạc.
Chén rượu đời, pha phách bao chua chát,
Tấm kịch đời, chan chứa cảnh đoạn trường,
Phiên chợ đời, tan, hợp, mấy tang thương,
Đường lối đời, rắc reo đầy cạm bẫy,
Đời nói đẹp, nhưng đời chuyên làm bậy,
Hứa trăm voi, không được bát sáo suông.
Mặt thần thánh, mà lòng dạ chim muông,
Khéo luồn cúi, huênh hoang, thôi cũng khéo.
Lý tưởng ngầm là khéo vơ, khéo đẽo,
Đem văn minh, khoác lốt sống kiêu sa,
Lòng con người nhem nhọ bụi phù hoa,
Thích phù phiếm, thích lợi danh và tàn bạo.
Ôi giả tạo, biết bao là giả tạo,
Sau bức tranh, thế sự đẫm vàng son.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11
12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
|