16.
雷 地 豫
Lôi ĐỊA DỰ
Dự Tự
Quái |
豫
序
卦 |
Hữu đại
nhi năng Khiêm. |
有 大 而 能 謙. |
Tất Dự. |
必 豫 |
Cố thụ
chi dĩ Dự. |
故 受 之 以 豫 |
Dự Tự Quái
Có, mà
khiêm tốn, mới nhiều hân hoan.
Cho nên quẻ Dự tiếp luôn.
Quẻ Dự
bao quát nhiều vấn đề:
1-Tự
Quái đề cập đến sự hòa lạc của dân nước, khi đã đạt tới phong doanh,
thái thịnh.
2- Ca
tụng công lao của vị trọng thần làm cho dân được thái hòa, an lạc.
3-
Hướng ta về công chuyện khảo cứu nhạc lý để áp dụng vào chính trị, dạy
người cầm quyền biết cách xử sự, hoạt động đúng theo luật Trời, theo
đúng ý dân, để dân được vui thỏa, dạy cho ta biết ý nghĩa sâu xa của
chính trị, là đưa dân lên đến tinh hoa, là chau chuốt tâm hồn dân con
trở nên thanh lịch, để cùng nhau tấu lên một khúc nhạc thái hòa.
Theo
quái đức,
ta thấy
Dự trên là Lôi, là Động, dưới là Khôn là Thuận. Người xưa đọc thành
Thuận dĩ động. Do đó, phát sinh ra hai nguyên tắc chính:
a)
Người cầm quyền bất kỳ làm gì, cũng phải thuận tình, thuận lý, như thế
mới làm cho dân được vui thuận.
b) Phải
làm sao cho dân tự nguyện đóng góp vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
Theo
quái tượng,
Dự trên
có Lôi là Sấm, dưới có Khôn là Đất, như Sấm đầu xuân, kích thích lòng
muôn vật để cho sinh khí rạt rào, sống một cuộc sống mới, đẹp như ánh
xuân. Thánh Vương cai trị cũng muốn làm rung động lòng người, làm
sinh khí rào rạt trong tâm hồn mọi người. Vì thế nên chế ra vũ, nhạc,
để hướng nghệ thuật cai trị lên tới tuyệt luân, tuyệt đỉnh. Nhạc
chính là sự hỗn hợp của trời đất, sự đồng điệu của Âm Dương, và sự vui
chung của quân thần, phụ tử và dân chúng nơi nơi.
Chữ
Nhạc đây không phải là ca nhạc không, mà gồm cả ca nhạc và nhạc vũ. Nhạc ký viết: Chuông, trống, sáo, khánh, vũ thược, can, qua là những
nhạc khí. Co, ruỗi, ưỡn, khom, chụm, tỏa, nhanh, chậm,
là nhạc văn.
Nói
cách khác, nhạc gồm: Thi, ca, nhạc, vũ. Nhạc là sự
phối hợp của thanh âm, mầu sắc, tiết tấu, chuyển động để mà
kích thích, di dưỡng tâm thần con người.
-Thời
cổ Trung Hoa: Về Nhạc khí, người ta dùng 8 nguyên liệu mà chế
ra:
1) Cách
= Da súc vật như trâu, bò v v...làm trống.
2) Bầu
= Quả bầu để khô làm Sênh, Hoàng, Vu.
3)
Trúc, gồm những loại Quản, Sáo như: Trì, Địch, Thược, Tiêu, Quản.
4) Mộc
= Gỗ, gồm các loại: Chúc, Ngữ.
5) Ti =
Sợi tơ, gồm các loại đàn: Cầm, Sắt, Không hầu, Tỳ bà, Trúc.
5) Thổ
= Đất, gồm các loại: Huân, Phữu.
6) Kim
= Kim khí, gồm các loại Chuông, Trống, Não bạt.
7)
Thạch = Đá, gồm các loại Khánh: Ngọc, Thạch, Đại, Biên, Sanh, Tụng.
Về
Vũ khí, có Mao, Vũ, Can, Thích, Múa Văn dùng Mao.
Múa Võ dùng Can, Thích.
Như
vậy, trong trời đất bất kỳ thứ gì nếu được tinh luyện, chế hoá
cũng có thể trở nên thanh kỳ, và góp phần vào khúc đại hòa tấu của vũ
trụ.
I.
Thoán.
Thoán Từ
豫:利 建 侯 行 師。
Dự. Lợi kiến hầu hành sư.
Dịch.
Dự là
hứng chí, hứng tâm.
Lập hầu cũng tốt, ra quân cũng lời.
Thoán
Truyện.
豫,剛 應 而 志 行,順 以 動,豫。豫,順 以 動,故 天 地 如 之,而 況 建 侯 行 師 乎?天 地 以 順 動,故 日 月 不 過,而 四 時 不 忒﹔ 聖 人 以 順 動,則 刑 罰 清 而 民 服。豫 之 時 義 大 矣 哉!
Thoán
viết:
Dự. Cương ứng nhi chí hành. Thuận dĩ động. Dự.
Dự thuận dĩ động. Cố thiên địa như chi. Nhi huống kiến hầu hành
sư hồ. Thiên địa dĩ thuận động. Cố nhật nguyệt bất quá. Nhi tứ thời bất thắc. Thánh nhân dĩ thuận động. Tắc hình phạt thanh nhi dân phục. Dự chi thời
nghĩa đại hĩ tai.
Dịch.
Dự là
hứng chí, hứng tâm,
Cương, Nhu ứng hợp, muôn lòng hòa vui.
Thuận tình, hành động êm xuôi,
Thuận tình hành động, đất trời cũng ưa.
Đất trời còn chẳng phôi pha,
Thời chi dựng nước, với là ra quân.
Đất trời thuận lý xoay vần,
Cho nên nhật nguyệt, hai vầng vững y.
Tứ thời cũng chẳng sai đi,
Thánh nhân hành động, hợp nghì mới nên.
Thuận theo đạo lý, một niềm.
Chẳng cần ráo riết, dưới trên phục tòng.
Dân vui, dân phục thong dong.
Làm dân thuận phục, nên công cao vời.
Thoán
cho rằng: Người trên mỗi khi thi hành phận sự phải thuận lý, thuận
thiên, thuận thời, thuận nhân tâm, và thuận cảnh (Thuận dĩ động). Hơn nữa, muốn cho dân thi hành công tác gì cũng phải làm sao cho họ
vui thuận mà làm, chứ không phải miễn cưỡng mà làm(Thuận dĩ động).
Người
trên muốn dân phục,
phải có một đời sống thanh cao, đạo đức, một dạ vì dân, vì nước, xót
thương lê thứ, tránh mọi sự hà khắc, nhũng nhiễu dân, mà chỉ muốn dân
giàu có, vui sướng, an hòa. Được vậy, dân sẽ phục. Dịch nói
vắn tắt: Thiên địa dĩ thuận động... dân phục. Thánh nhân cho
rằng: khi dân đã có đủ ăn, đủ mặc , mà nghĩ đến sự giáo hóa, sự tinh
luyện tâm thần dân, để đem lạc thú, hạnh phúc cho dân, thì cao siêu
biết bao( Dự chi thời nghĩa đại hỹ tai).
II. Đại
Tượng Truyện.
象 曰. 雷 出 地 奮,豫。 先 王 以 作 樂 崇 德,殷 荐 之 上 帝,以 配 祖 考。
Tượng
viết: Lôi xuất địa phấn. Dự. Tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức. Ân hiến chi Thượng Đế. Dĩ phối tổ khảo.
Dịch. Tượng rằng:
Dự là
đất chuyển, sấm rung,
Tiên vương tác nhạc, tôn sùng đức cao.
Ơn
trời, tấu khúc tiêu tao,
Tình thâm tổ khảo, gửi vào nhã ca.
Tượng
cho rằng: Trị dân là phải biết cổ võ lòng dân, kích động lòng dân theo
chính nghĩa, chính đạo, biết sống một đời sống linh hoạt, vui tượi,
dào dạt sinh khí như vạn vật đầu xuân, nhờ sấm động mà bừng tỉnh giấc
đông miên.
Trời
lấy sấm động, làm rung lòng đất, và rung lòng vạn vật, đem sinh khí
lại cho muôn vật, thì Thánh nhân cũng chế nhạc để ca tụng đạo đức, làm
rung động lòng thần minh, tiên tổ và lòng muôn dân, để sinh khí rạt
rào khắp vũ trụ, hòa khí lan tỏa khắp muôn phương.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện
1.
Hào Sơ
Lục.
初 六. 鳴 豫,凶。
象 曰: 初 六 鳴 豫,志 窮 凶 也。
Sơ Lục. Minh Dự. Hung.
Dịch.
Vui mà
để lộ ra ngoài,
Khoe vui, khoe sướng với đời hay chi.
Tượng rằng:
Hào Sơ
vui lộ ra ngoài,
Vênh vang tự đắc với đời hay chi?
Hào Sơ
cho rằng: mới vui, mới sướng, mà đã cuống cuồng, không tự chủ được,
toe toét, huyênh hoang, thì thế nào cũng hỏng, vì thế nào cũng nghĩ
đến hưởng thụ, cho nên sa đọa.
2.
Hào
Lục nhị.
六 二. 介 于 石,不 終 日,貞 吉。
象曰: 不 終 日,貞 吉﹔ 以 中 正
也。
Lục
nhị. Giới vu thạch. Bất chung nhật. Trinh cát.
Tượng
viết:
Bất
chung nhật trinh cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Vững
vàng như đá, há đâu thay,
Chẳng cần suy tính đến trọn ngày,
Cương kiên, thiết thạch thêm sung mãn,
Minh mẫn, Cương kiên, thế mới hay.
Tượng rằng: Chẳng cứ cả ngày,
Chính trung nên tốt, nên hay lâu dài.
Hào hai
dạy rằng: Khi đã được thoải mái, không được buông thả tâm thần, phải
biết trì chí luyện tâm, theo đường đạo lý, lòng dạ sắt son, không để
cho dục tình lôi cuốn, đã định làm điều hay, phải làm cho ngay, cho
gấp. Tức là trong hoàn cảnh sung mãn, mà vẫn giữ được chính lý, chính
đạo, vẫn Cương kiên, thiết thạch, không ủy mị, kiêu sa. Như vậy mới
là hay.
3.
Hào
Lục tam.
六 三. 盱 豫,悔。 遲 有 悔。
象 曰: 盱 豫 有 悔,位 不 當 也。
Lục
tam. Hu dự hối. Trì hữu hối.
Tượng viết:
Hu Dự hữu hối. Vị bất đáng dã.
Dịch.
Hay chi
ngửa mặt, cầu vui,
Ỷ thần, ỷ thế của người hay chi.
Hào ba
cho rằng: những kẻ vô tài, vô đức, bất trung, bất chính dựa vào địa
vị, cậy quyền, cậy thế người mà dương dương tự đắc, vênh váo, hân
hoan, thì cái vui ấy có ra gì. Biết mình sống trong những thú vui giả
tạo, trong dật lạc sa đọa, mà lần lữa sống đoạn tháng, qua ngày, không
chịu thay đổi nếp sống, như vậy hỏi có ra chi?
4.
Hào Cửu tứ.
九 四. 由 豫,大 有 得。勿 疑。 朋 盍 簪。
象 曰: 由 豫,大 有 得 ﹔ 志 大 行
也。
Cửu tứ. Do Dự. Đại hữu đắc. Vật nghi. Bằng hạp trâm.
Tượng viết:
Do Dự đại hữu đắc. Chí đại hành dã.
Dịch.
Do mình
thiên hạ được vui,
Khá đem chí lớn, giúp đời, giúp dân.
Đừng nghi chẳng có tay chân,
Bạn bè như tóc, theo trâm hội về.
Tượng rằng:
Nhờ ta
thiên hạ được vui,
Càng cao trí cả, vì đời thi vi.
Hào tứ
chủ trương như Thoán Từ rằng: nếu mình là trọng thần, mà ngày đêm lo
đem lại an vui cho quốc dân, thì thực là một điều đại hạnh, đại bảo,
còn gì mà phải nghi nan, phải sợ sệt. Chúng dân sẽ theo về mình, như
tóc theo trâm, đó là trường hợp Chu Công, Y Doãn, Phó Duyệt, Đại Vũ,
những bậc đại nhân như vậy, sẽ vì sự an lạc cho dân, mà lập những đại
công, đại nghiệp, như ta thấy: Vũ trị Hồng Thủy, Y Doãn phạt Kiệt, Chu Công đông chinh.
5.
Hào
Lục ngũ.
六 五. 貞 疾,恆 不 死。
象 曰: 六 五 貞 疾,乘 剛
也。 恆 不 死,中 未 亡 也。
Lục
ngũ. Trinh tật. Hằng bất tử.
Tượng viết:
Lục ngũ trinh tật. Thừa Cương dã. Hằng
bất tử. Trung vị vong dã.
Dịch:
Lục ngũ
giống như người có tật,
Ốm lắt leo, mà chẳng chết cho.
Tượng rằng: Lục ngũ
ốm lâu,
Vì là đã cưỡi lên đầu Dương Cương,
Dằng dai, vẫn sống vất vương,
Dằng dai, vì vẫn thời thường ngôi trung.
Hào ngũ
cho rằng: khi nước đã thái bình, mà vua chuyên hưởng lạc, thì có khác
nào một người mắc bệnh kinh niên, nan trị, sống lay, sống lắt đâu. Lúc ấy, còn hay mất, sống hay chết, không còn do vua quyết định.
Quyền thần mà trung, thì ngôi vua còn, quyền thần mà phản, thì ngôi
vua mất.
6. Hào
Thượng Lục.
上 六. 冥 豫,成 有 渝,無 咎。
象 曰:冥 豫 在 上,何 可 長 也。
Thượng
Lục. Minh Dự. Thành. Hữu du. Vô cữu.
Tượng viết:
Minh Dự tại thượng. Hà khả trường dã.
Dịch.
Vùi đầu
mê hưởng cuộc vui,
Nếu như biết sửa, vậy thời lỗi chi.
Tượng rằng: Mê mải cuộc vui.
Chênh vênh, ngất ngưởng, lâu dài làm sao?
Hào
Thượng cho rằng: Một con người đang say đắm trong hoan lạc, mà biết
hồi đầu, tu chính, trở về với đạo lý, sống một cuộc đời thanh cao, thì
có gì đáng trách đâu. Nhược bằng cứ vùi đầu trong hoan lạc. thì làm
sao mà trường cửu được?
ÁP
DỤNG QUẺ DỰ VÀO THỜI ĐẠI
Trong
Kinh dịch, thì quẻ Lý nói về Lễ, quẻ Dự nói về nhạc. Ta nên biết, Nhạc
hết sức quan trọng đối với vua chúa xưa, vì nó kích động và thanh lịch
hóa tâm thần, nên các trường đều phải học nhạc. Mỗi triều đại, lại có
một khúc nhạc tiêu biểu cho chí hướng, hoài bão và công trình của
triều đại.
1.) Thời Hoàng Đế, có nhạc khúc Hàm Trì, ý muốn nói
vua đã làm cho đạo đức phát huy, phát
triển được khắp nơi.
2.) Nghiêu có nhạc Đại Chương, ý nói lên lòng
mong muốn cho nhân nghĩa đại hành, phát độ
chương minh.
3.) Đế Khốc có nhạc Lục Anh.
Chuyên
Húc có nhạc Ngũ Hành.
4.) Thuấn có nhạc Tiêu thiều. Thiều là kế tục, ý
nói vua Thuấn muốn tiếp tục con đường của vua Nghiêu.
5.) Đại Võ có nhạc Đại Hạ, ý nói vua Đại Võ nối
tiếp về đường lối của hai vua Nghiêu, Thuấn, muốn cho thiên hạ được
thái bình.
6.) Nhà Ân có nhạc Đại Hội, ý nói nhà Ân sẽ cố phục hưng, bảo hộ
nền đạo đức của các Thánh Vương xưa.
7.) Nhà Chu có nhạc Đại Chước, cũng gọi là Đại Vũ, ý nói sẽ châm chước để luôn theo đường lối của hai vua
Văn, Võ. Thế mới hiểu rằng: Người xưa mượn lời thơ, để nói lên chí
hướng và hoài bão của mình, rồi phổ vào ca, nhạc, vũ, để lời thơ trở
nên bất diệt, hoài bão mình trở nên quảng thi, quảng diễn, nhờ đó ảnh
hưởng sâu xa đến quần chúng. Người xưa cho rằng: xét Thanh thì biết
Âm, xét Âm thì biết Nhạc, xét Nhạc thì biết cách trị dân, trị nước.
Nay, trở về với dân tộc ta, ta sẽ nhận thấy
tinh thần, ý chí của dân tộc đều có thể nhận thấy trong lời nhạc, ý
thơ..
Hồi tiền chiến ( trước năm 1939), dân tộc ta còn
sống trong vòng nô lệ của Thực Dân Pháp, lòng người dân, một phần ngơ
ngác như con nai vàng lạc trong rừng hoang, một phần tìm được lối đi,
nhưng không hẹn ngày trở lại, để vợ con mong mỏi ngày đêm. Tình trạng
này, được nhạc sĩ Lưu Trọng Lư diễn tả trong tập thơ Tiếng Thu
của ông, và năm 1939 đã phổ thành nhạc, và đã nổi tiếng một thời.
Em không nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức.
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ.
Em
không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào sạc.
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô.
Cuối
năm 1945, sau khi
Việt Minh cướp chính quyền, lòng dân vùng dậy, khí thế hăng say, được
thể hiện trong bài Anh hùng ca của nhạc sĩ Phạm Duy:
Ngày bao hùng binh tiến lên,
Bờ cõi vang lừng câu Quyết chiến. . .
Tóm lại, ta có
thể nói: Thơ & Nhạc là linh hồn dân tộc vậy. Ngày nay, ta thấy
Thơ & Nhạc đi vào chỗ ủy mị. Thật là không nên vậy!