THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
23. 山
地 剝
SƠN ĐỊA BÁC
Bác Tự
Quái |
剝
序
卦 |
Bí giả
sức dã. |
賁
者
飾
也 |
Chí sức
nhiên hậu |
致
飾
然
后 |
Hanh
tắc tận hỹ. |
亨
則
盡
矣 |
Cố thụ
chi dĩ Bác. |
故
受
之
以
剝 |
Bác giả
Bác dã. |
剝
者
剝
也 |
Bác Tự
Quái
Khi mà
văn vẻ đàng hoàng,
Quá hay, rồi cũng sẽ tàn, sẽ suy.
Cho nên Bác tiếp chu kỳ.
Bác là bác lạc, suy vi, điêu tàn.
Quẻ Bác là
một trong 12 quẻ dùng để chỉ sự vận chuyển tuần hoàn của guồng máy Âm
Dương, của tiết khí, cũng như dùng để mô tả sự doanh hư, tiêu tức, sự
thịnh suy, thăng trầm, tụ tán của vũ trụ và vạn vật.
Mười hai quẻ ấy là:
- Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn,
- Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quải, Kiền.
Ta nhận
thấy:
Nơi 6 quẻ trên (Cấu... Khôn), Âm là chủ, và Dương biến dần
thành Âm.
Nơi 6 quẻ dưới ( Phục ... Kiền), Dương là chủ,
và Âm biến dần thành Dương.
Đó là sự biến hoá hai chiều, hai mặt của một thực thể là Thái Cực.
Cấu |
Độn |
Bĩ |
Quan |
Bác |
Khôn |
|
|
|
|
|
|
Âm trưởng, Dương tiêu
|
Phục |
Lâm |
Thái |
ĐạiTráng |
Quải |
Kiền |
|
|
|
|
|
|
Dương trưởng, Âm tiêu |
Mười hai
quẻ Dịch
tiêu tức
của đồ hình trên:
Vòng Âm
trưởng, Dương tiêu:
Cấu
(tháng 5), Độn (tháng 6), Bĩ ( tháng 7)
Quan
(tháng 8), Bác (tháng 9), Khôn (tháng 10).
Vòng
Dương trưởng, Âm tiêu:
Phục
(tháng 11), Lâm (tháng12), Thái (tháng 1)
Đ.Tráng
(tháng 2), Quải (tháng 3), Kiền (tháng 4)
Thấu
triệt đồ hình của 12 quẻ trên,
ta sẽ hiểu lẽ biến dịch, tiết tấu của vũ trụ, của lịch sử nhân quần, và
của vạn vật.
A. Về vũ
trụ:
Ta thấy
rằng vũ trụ có tụ, có tán. Vũ trụ của chúng ta còn đang ở trong thời kỳ
tán, và ngày nay đang tiến về phía biên. Nhờ phương pháp thâu
quang phổ (Spectroscopy), và dựa vào định luật Dopper-Fizeau,
các nhà Thiên văn học khám phá ra rằng các giải ngân hà đang đua nhau
tiến về miền biên viễn, và vũ trụ y như là cái bọt xà phòng của trẻ con
chơi đang được thổi phồng lên, theo lý thuyết của Georges Lemaître, đã
được Hubble và Eddington xác nhận (Pierre Rousseau, Histoire de la
Science, page.769).
B.
Mười hai
quẻ Dịch tiêu tức, (từ quẻ Cấu = tháng 5 ta, tới quẻ Khôn là tháng 10
ta, tức là Âm trưởng, Dương tiêu. Từ quẻ Phục = tháng 11
ta, tới quẻ Kiền là tháng 4, tức là Dương trưởng Âm tiêu) nói
trên, còn được dùng để phác họa lại bộ mặt biến thiên của tiết khí, của
bốn mùa. Quẻ Bác là quang cảnh từ tháng 9 ta trở đi, lúc mà Trời đem
sương pha, tuyết phủ lên cỏ cây, làm cho cây trơ trụi lá, cành xơ
xác cành. Lúc ấy, may mắn lắm, mới còn được một vài quả lủng
lẳng trên những cành cao, còn lại được là vì người muốn ăn, mà ngại hái.
C. Xét
về trào lưu Lịch sử:
Bác là lúc mà vật đạo thịnh, thiên đạo suy; bao nhiêu cái hay, cái đẹp
đều chạy ra ngoài bì phu, đều dồn cả vào vật chất. Đó là thời kỳ mà
nhân loại chạy theo dục vọng, tiền tài, bỏ cái gốc là đức hạnh, mà chạy
theo cái ngọn là danh lợi.
Xét về
phương diện vật chất,
thì đó là
thời kỳ huy hoàng nhất, nhưng xét về phương diện tinh thần,
thì đó là thời kỳ sa đọa nhất. Đó là thời kỳ tiểu nhân đánh trống, phất
cờ, còn quân tử thì lao đao, lận đận, chạy được miếng ăn đã khó, giữ
được thân là may.
Bác là
bác lạc, suy tàn,
Âm khí tăng, Dương khí giảm, tà thuyết thịnh, chính đạo suy. Đó là thời
kỳ mà nơi kinh thành, thì thiếu lãnh tụ anh minh, ngoài đồng nội vắng
hiền nhân, quân tử.
I. Thoán.
Thoán Từ.
剝:不 利 有 攸 往。
Bác. Bất
lợi hữu du vãng.
Dịch.
Thoán Từ.
Bác là
rạn nứt, suy vi.
Làm gì, cũng chẳng ra chi nữa rồi.
Thoán
Truyện. Thoán viết.
彖 曰: 剝,剝 也,柔 變 剛 也。 不 利 有 攸 往,小 人 長 也。順 而 止 之,觀 象 也。 君 子 尚 消 息 盈 虛,天 行 也。
Bác. Bác dã. Nhu biến cương dã. Bất lợi hữu du vãng.
Tiểu nhân trưởng dã. Thuận nhi chỉ chi. Quan tượng dã.
Quân tử thượng tiêu tức doanh hư. Thiên hành dã.
Dịch.
Bác là
rạn nứt, suy vi.
Nhu toan thay đổi trọn bề Dương cương.
Làm gì cũng sẽ dở dang.
Tiểu nhân đang lúc nghêng ngang gặp thời.
Theo thời, dừng lại đi thôi,
Nhìn vào Tượng quẻ, cũng ngơi, cũng ngừng.
Hiền nhân, xin chớ băn khoăn,
Doanh hư, tiêu tức lẽ hằng xưa nay.
Lẽ trời có lúc vơi đầy,
Cũng khi tăng giảm, cũng ngày thịnh suy.
Thoán
cho rằng: đó là thời kỳ tiểu nhân hoành hành, còn quân tử thì chẳng làm
ăn dở dói gì được. Dịch kinh an ủi người quân tử hãy nên nhẫn nhục, hãy
nên biết cơ trời, thời Trời vì: Sông có khúc, người có lúc.
II. Đại
Tượng Truyện.
象 曰: 山 附 地 上,剝﹔ 上 以 厚 下,安 宅。
Tượng
viết:
Sơn
phụ ư địa. Bác. Thượng dĩ hậu hạ an trạch.
Dịch.
Tượng rằng:
Bác là núi tựa đất dày,
Người trên hãy xử đặn đầy với dân.
Với dân
đầy đặn ở ăn,
Rồi ra địa vị tư thân vững vàng.
Tượng
từ tạm quên những chuyện phôi pha, bác lạc mà dạy ngược lại rằng: Khi
người quân tử ở trên mà cầm quyền trị dân, phải biết chăm sóc cho dân,
vì dân là nền tảng cho quốc gia. Dân có mạnh, thì nước mới bền; dân có
hay thì mình mới vững. Mình mà mất dân thì cũng như là núi mất đất, sẽ
không còn có nơi nương tựa, và cảnh suy vong, bác lạc sẽ đến.
Xét về
Tượng quẻ:
Quẻ Bác
trên là 1 hào Dương liền, dưới là 5 Hào Âm, trông giống như cái giường
có chân, có mặt; hay cái nhà có mái, có vách. Vì thế, Hào Sơ, Hào nhị,
Hào tứ vẽ ra một cảnh phá giường. Trước tiên chặt chân giường (hào1),
rồi phá khung giường (hào 2), Kế đến thang giường, rồi lại xoay tới cả
đến người nằm ngủ trên giường (hào 4).
III. Hào
từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ
Lục.
初 六: 剝 床 以 足,蔑 貞 凶。
象 曰: 剝 床 以 足,以 滅 下 也。
Sơ lục. Bác sàng dĩ túc. Miệt trinh hung.
Tượng viết.
Bác sàng
dĩ túc. Dĩ diệt hạ dã.
Dịch
Sơ lục. Chân giường phá hủy,
Phá Cương thường, đạo lý xấu thay.
Tượng rằng:
Phá hủy chân giường,
Tiêu hao gốc rễ, Cương thường, mới nghe.
2.
Hào Lục
nhị.
六 二 : 剝 床 以 辨,蔑 貞 凶。
象 曰: 剝 床 以 辨,未 有 與 也。
Lục nhị. Bác sàng dĩ biện. Miệt trinh hung.
Tượng viết:
Bác sàng dĩ biện. Vị hữu dữ dã.
Dịch.
Hào Lục
nhị: Thang giường bị phá,
Phá cương thường thêm nữa, xấu thay.
Tượng rằng:
Bác mà không bị chê bai,
Là vì đã biết xa rời dưới trên.
Hào Sơ &
Hào Nhị
có ý nói: Tiểu nhân có nhiều thủ đoạn để hãm hại người quân tử. Khi họ
đắc thế, có bày có bọn, mà quân tử thời lẻ bạn, lẻ bày, cô thân, cô
thế, họ sẽ tìm cách hãm hại người quân tử. Họ làm cho người quân tử mất
công, mất việc, mất cơ sở sinh nhai, mất cả môi trường hoạt động, mất sự
an lạc tĩnh lãng, hồn nhiên. Ví như người quân tử có cái giường, mà
tiểu nhân đến chặt chân cho khập khiễng, đến phá thang, cho hư, cho gẫy
(hào 1 & 2).
3.
Hào Lục tam.
六 三 : 剝 之,無 咎。
象 曰:剝 之 無 咎,失 上 下 也。
Lục tam.
Bác chi vô cữu.
Tượng
viết:
Bác chi
vô cữu. Thất thượng hạ dã.
Dịch
Không
xu phụ với tiểu nhân,
Thế nên tránh được mọi phần chê bai.
Tượng rằng:
Bác mà không bị chê bai,
Là vì đã biết xa rời dưới trên.
Tuy
nhiên, không phải là ai cũng xấu. Có những người tuy bề ngoài về phe
phái với tiểu nhân, nhưng trong lòng vẫn hướng về người quân tử, vẫn
muốn ám trợ người quân tử. Đó là như Trần Bình không nỡ chuốc rượu cho
Bái Công nơi Hồng Môn hội yến, để Bái Công khỏi bị say sưa mà thất thế;
sau lại còn giúp cho Bái Công đào tẩu (Tây Hán Chí, Thanh Phong dịch,
trang 131).
4.
Hào Lục tứ.
六 四 : 剝 床 以 膚,凶。
象 曰: 剝 床 以 膚,切 近 災 也。
Lục tứ. Bác sàng dĩ phu. Hung.
Tượng
viết:
Bác sàng
dĩ phu. Thiết cận tai dã.
Dịch.
Đẽo
giường, đẽo cả đến da,
Đã đành rằng xấu, biết là mấy mươi.
Tượng
rằng:
Đẽo
giường, đẽo cả đến da,
Thế là tai họa, nguy cơ gần kề.
Chẳng
những hại cho mất công ăn việc làm không thôi, kẻ tiểu nhân còn muốn vạc
da, đẽo thịt người quân tử, làm cho lầm than, điêu đứng, mới vui, mới
thỏa.
5. Hào Lục
ngũ.
六 五 : 貫 魚,以 宮 人 寵,無 不 利。
象 曰: 以 宮 人 寵,終 無 尤 也。
Lục ngũ. Quán ngư. Dĩ cung nhân sủng. Vô bất lợi.
Tượng
viết:
Dĩ cung
nhân sủng. Chung vô cữu dã.
Dịch.
Thống
lĩnh quần Âm, thuận phục Dương,
Y như Vương Hậu dẫn cung nương,
Lũ là, lũ lượt, in sâu cá,
Được chuộng, lại không lỗi đạo thường.
Tượng rằng:
Hướng dẫn
cung phi được sủng ân.
Cơ sự rồi ra chẳng lỗi lầm.
Hơn thế
nữa, có những người đã lên tới bậc lãnh tụ quần Âm,
đã thống xuất cả bầy, cả đảng tiểu nhân, mà có khi còn biết xướng xuất
giắt nhau trở về cùng chính nghĩa. Đó là trường hợp vua A- Dục đem dân
trở về cùng Phật giáo, vua Constantin, vua Clovis đem dân trở về cùng
Công Giáo...
6. Hào
Thượng Cửu.
上 九 : 碩 果 不 食,君 子 得 輿,小 人 剝 廬。
象 曰: 君 子 得 輿,民 所 載 也。
小 人 剝 廬,終 不 可 用 也。
Thượng
Cửu. Thạc quả bất thực. Quân tử đắc dư. Tiểu nhân bác lư.
Tượng
viết:
Quân tử
đắc dư. Dân sở tải dã. Tiểu nhân bác lư. Chung bất khả dụng dã.
Dịch:
Chưa ăn,
quả lớn vẫn treo cây.
Quân tử được xe, thế mới hay,
Tiểu nhân ví thử manh tâm hại,
Mái nhà giật sập, ở đâu đây?
Tượng rằng: Quân tử được xe,
Vì dân mến chuộng, chẳng hề đổi thay,
Mái nhà giật đổ nào hay,
Cuối cùng tay trắng, trắng tay, bẽ bàng.
Gặp thời
Bác, tức thời đảo điên, ly loạn, thì số người quân tử còn lại rất là
thưa thớt, y như vài quả may ra còn sót lại đầu cành. Tuy ít, nhưng đó
chính là hứa hẹn cho sự phục sinh tinh thần sau này, và chính cũng là
bằng chứng chính nghĩa, chẳng bao giờ có sức gì làm suy vong, tiêu diệt
được. Mà lạ hơn nữa, người quân tử khi ấy vẫn được dân kính, dân tôn,
vẫn có thể còn được lên xe, xuống ngựa. Kẻ tiểu nhân nếu cố tâm hủy
diệt cho tận tuyệt quân tử, cho tận tuyệt chính nghĩa và đạo lý. thì có
khác chi con người ngu dại, tự nhiên đem kéo sập nhà mình đang ở, rồi ra
sẽ lấy gì che nắng, che mưa, Thế chính là Hàm huyết phún nhân,
tiên ô tự khẩu (Ngậm máu phun người, trước bẩn miệng mình).
ÁP
DỤNG QUẺ BÁC VÀO THỜI ĐẠI
Trời đất,
quốc gia, cũng như con người chúng ta luôn tuần hoàn, đầy rồi lại vơi,
vơi rồi lại đầy, thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, nhưng đến thời kỳ
Bác là thời kỳ suy tàn nhất.
- Về Trời đất, Bác thuộc tháng 9, lúc đó Âm khí tăng,
Dương khí giảm, thời tiết bắt đầu sang mùa đông, cây cỏ bắt đầu
Cây trơ trụi lá, cành sơ xác cành. Nơi miền Cực Bắc, thì sương
tuyết đầy đường, năng lực Trời Đất tiêu hao, vạn vật như không còn sức
để triển dương.
- Đối với Quốc Gia, thì thiếu người tài giỏi chỉ huy,
mọi người trở nên cao ngạo, nhố nhăng, sống gặp hay chăng chớ. Đó là
thời kỳ nhiễu nhương, ly loạn, sẻ nghé, tan đàn. Đó là thời kỳ:
Trời làm
một trận lăng nhăng,
Ông lại
xuống thằng, thằng lại lên ông.
- Đối với
cá nhân con người ,
thời
quẻ Bác là thời khốn khổ, suy vi nhất. Trong cảnh tha hương này, số
người gặp phải thời quẻ Bác không phải là ít. Thất nghiệp,
không nhà ở, không thân thích, không tiền bạc, nếu lại gặp cảnh
yếu đau nữa, thì sự khổ sở không sao tả xiết. Gặp hoàn cảnh này, họ rất
dễ bị xa ngã, nếu họ chẳng may gặp phải kẻ chẳng ra gì, lợi dụng sự khốn
khó của họ để đưa họ vào con đường bất chính. Những người không
may này, nếu sớm biết hồi tỉnh, trở về chánh nghĩa, thì chẳng đáng bị
chê trách. Còn những người, sống được sự giúp đỡ của bố mẹ, của
chính quyền để ăn học, nhưng đã chơi bời phóng túng, bỏ bê học hành,
lười biếng không chịu làm ăn, để đến nỗi thân tàn, ma dại; hoặc
những người đã có gia đình, đã có công ăn, việc làm hẳn hoi, nhưng vì
quá tự mãn, coi mình là nhất thiên hạ, không còn lo lắng gì về
tương lai, sẵn có uy tín nên vay mượn dễ dàng, đâm ra bài bạc, lâu dần
công nợ chồng chất, thậm chí còn đánh đập vợ để lấy tiền cờ bạc. Rốt
cuộc, cửa nhà tan nát, vợ con ly tan. Đó thật là thời Bác không tới
mình, mà mình tự đi tìm thời Bác vậy. Những loại người kể trên
này, nếu không kịp thời tỉnh ngộ, ăn năn, hối cải thì sớm muộn gì cũng
sẽ đi đến tình cảnh tang thương, không gì cứu vãn nổi.
Đời sống
của chúng ta, nếu TRỜI HẠI TA, thì ta còn cứu ta được, bằng sự cố
gắng, cầu tiến, tiết kiệm, chịu khó. Nhưng nếu TA TỰ HẠI TA, thì không
ai cứu nổi. Ta luôn luôn phải ghi nhớ câu này.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
|