THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
15.
地 山 謙
ĐỊA SƠN KHIÊM
Khiêm
Tự Quái
|
謙
序
卦 |
Hữu đại
giả. |
有 大 者 |
Bất khả
dĩ doanh. |
不 可 以 盈, |
Cố thụ
chi dĩ Khiêm. |
故 受 之 以 謙 |
Khiêm
Tự Quái
Có
nhiều, chớ có ỷ mình tự kiêu.
Quẻ Khiêm vì vậy tiếp theo.
Quẻ
Khiêm là một quẻ tốt nhất trong kinh Dịch. Toàn thể quẻ từ Thoán đến
Hào, toàn thấy Hanh, thấy Cát, thấy Lợi. Mới hay Thánh Hiền
trọng nhất sự khiêm cung.
Quẻ Khiêm thủ nghĩa ở Hào Cửu tam và ở hình dung của quẻ: một Hào
Dương tức là Dương Cương chi tài, mà chịu khuất lấp dưới Hào Âm, siêu
việt như núi non mà chịu ẩn mình trong lòng đất, quán thế hiền tài mà
sống thầm lặng trong lòng dân, giúp ích cho đời mà không khoe khoang
nửa lời, nửa tiếng.
Quẻ Khiêm cũng còn nói lên một định luật hằng cửu của trời đất:
- Cái gì thấp (Khôn= Đất) sẽ được đưa lên cao.
- Cái gì cao ( Cấn= Núi) sẽ bị hạ xuống thấp.
Ta thấy nơi quẻ Khiêm: Khôn là đất lại ở trên, Cấn là núi lại ở dưới. Tất cả quẻ Khiêm đều đề cao sự cần thiết và ích lợi của sự khiêm cung.
I. Thoán.
Thoán Từ.
謙:亨,君 子 有 終。
Khiêm. Hanh. Quân tử hữu chung.
Dịch.
Khiêm
là khiêm tốn, mới hay.
Việc người quân tử có ngày thành công.
Thoán
Từ chủ trương Khiêm tốn rồi ra sẽ đem lại sự thành công mỹ mãn.
Thoán Truyện.
謙,亨,天 道 下 濟 而 光 明,地 道 卑 而 上 行。天 道 虧 盈 而 益 謙,地 道 變 盈 而 流 謙,鬼 神 害 盈 而 福 謙,人 道 惡 盈 而 好 謙。謙 尊 而 光,卑 而 不 可 踰,君 子 之 終 也。
Thoán viết.
Khiêm hanh. Thiên đạo hạ tế nhi quang minh. Địa đạo ti nhi thượng
hành. Thiên đạo khuy doanh nhi ích Khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu
Khiêm. Quỷ thần hại doanh nhi phúc Khiêm. Nhân đạo ố doanh nhi hiếu
Khiêm. Khiêm tôn nhi quang. Ti nhi bất khả du. Quân tử chi chung dã.
Dịch. Thoán Truyện
Thoán
rằng: Khiêm tốn mới hay.
Trời
kia giúp dưới, nên đầy quang minh,
Đất kia chốn thấp, phận đành,
Thấp
nên mới có công trình vươn cao.
Trời làm vơi chốn rồi rào,
Mà thêm
vào những chỗ nào khiêm cung.
Đất soi mòn, bớt cao phong,
Để cho
lòng biển, lòng sông thêm dày,
Quỷ thần hại kẻ no đầy,
Mà đem
phúc lại cho người khiêm cung.
Người thường ghét kẻ thừa dùng,
Còn
người khiêm tốn thật lòng, thời ưa.
Trên khiêm, thì sáng mãi ra,
Dưới
khiêm, ai kẻ hơn ta được nào,
Khiêm
cung, giữ vẹn trước sau,
Rồi ra, quân tử gót đầu hanh thông.
-Trên
trời, thời mặt trời lên tới đỉnh đầu sẽ phải xế bóng, có lặn xuống
lòng trời, thì mới có cơ tiến thăng. Mặt trăng tròn rồi lại khuyết,
có vơi rồi lại đầy.
-Dưới
đất, núi non thường bị soi mòn, mà lòng biển, lòng sông thời được bồi
đắp thêm mãi.
-Trên
đời ta thấy thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, các tầng lớp người
thay nhau hưởng phú quý, hoặc nếm phong trần, Nhung lụa thường cũng có
lúc sa cơ, áo vải vẫn làm nên sự nghiệp. Y thức như Trời, Đất ghen
ghét kẻ tài danh, kiêu ngạo, mà phù trợ những kẻ khiêm cung, tự lực,
tự cường. Ca vịnh Magnificat cũng có đoạn đại khái như sau:
Xô kẻ quyền uy xuống khỏi ngôi,
Đem
người khiêm tốn tới Quỳnh đài.
Hồng
ân, đói khổ ban rào rạt,
Bạc
mệnh, giàu sang phận khiến xui...
Nhân
tình cũng thường ghét kẻ kiêu căng, mà thương người khiêm tốn. Có
khiêm cung, đường đời mới được hanh thông, và cuối cùng mới được giàu
có.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰.
地 中 有 山,謙 ﹔ 君 子 以 裒 多 益 寡,稱 物 平 施。
Tượng
viết:
Địa
trung hữu sơn. Khiêm. Quân tử dĩ biều đa ích quả. Xứng vật bình
thi.
Dịch.
Tượng rằng:
Núi
trong lòng đất là Khiêm,
Hiền nhân, nhiều bớt, ít thêm, mới là,
Những gì chênh lệch, quá đà,
Sửa sang, thêm bớt, cho vừa, cho cân.
Tượng
Truyện cho rằng: Người quân tử khi trị dân cũng phải biết hạn chế
quyền uy, giảm bớt tài sản của những kẻ sang giầu, đồng thời cũng phải
biết nâng đỡ, khuyến khích những kẻ khó nghèo, ngu muội, như vậy mới
giữ được thế quân bình cho xã hội.
III. Hào từ & Tiểu tượng Truyện
1.
Hào Sơ Lục.
初 六. 謙 謙 君
子,用 涉 大 川,吉。
象 曰: 謙 謙 君 子,卑 以 自 牧 也。
Sơ Lục. Khiêm Khiêm quân tử. Dụng thiệp đại xuyên. Cát.
Tượng
viết:
Khiêm
Khiêm quân tử. Ti dĩ tự mục dã.
Dịch.
Quân tử
khiêm cung, thế tốt rồi.
Vượt qua sông lớn dễ như chơi.
Tượng rằng: Quân tử khiêm nhường,
Nhún mình cốt để lo lường tu thân.
Các Hào
bàn đến sự lợi ích của sự khiêm cung, cũng như phải khiêm cung thế nào
cho hay, cho phải.
Hào Sơ
bàn đến sự khiêm cung, nhũn nhặn của người quân tử, khi còn ở địa vị
thấp; và cho rằng, nhờ sự khiêm cung ấy, sẽ lướt thắng được mọi sự khó
khăn, sẽ dễ dàng tu thân, tu đạo.
2. Hào Lục nhị.
六 二. 鳴 謙,貞 吉。
象 曰: 鳴 謙 貞 吉,中 心 得 也。
Lục nhị. Minh Khiêm. Trinh cát.
Tượng
viết:
Minh
Khiêm trinh cát. Trung tâm đắc dã.
Dịch.
Lục nhị
khiêm cung hiện ra ngoài,
Ôn tồn ăn nói, tốt mấy mươi.
Tượng rằng:
Khiêm
hiện ra ngoài,
Là vì trong đã đầy rồi, phát ra.
Hào hai
dạy rằng: Khiêm cung phải làm sao cho thành khẩn, trung thực để sự
khiêm cung ấy được thể hiện một cách tự nhiên vào lời ăn, tiếng nói.
3.
Hào Cửu tam.
九 三.
勞 謙,君 子 有 終,吉。
象 曰: 勞 謙 君 子,萬 民 服 也。
Cửu tam. Lao Khiêm quân tử. Hữu chung. Cát.
Tượng
viết:
Lao
Khiêm quân tử. Vạn dân phục dã.
Dịch.
Công
lao chất ngất, lại khiêm cung,
Quân tử làm nên việc đến cùng.
Lao Khiêm như vậy, có hay không.
Tượng rằng: Công lớn, lại Khiêm,
Làm cho dân chúng mọi miền, phục tuân.
Hào ba
là Hào Dương duy nhất, lại cũng là chủ
Hào, tượng trưng người quân tử công đức cao dầy với dân, với
nước, mà vẫn khiêm cung một dạ, khiến cho mọi người phải khâm phục. Các nhà bình giải đã mang Hào này để tượng trưng cho vua Hạ Võ, hay
Chu Công.
Hạ Võ
ra tài trị thủy, đem thái thịnh lại cho chúng dân, mà vẫn không khoe
công, cậy tài, cậy giỏi.
Chu
Công trong thì phò ấu chúa, ngoài thì trị bình thiên hạ, mà vẫn một
mực khiêm cung, một lòng vì vua, vì nước, không bao giờ để cho huyễn
tượng công danh, lợi lộc lay chuyển được lòng trung nghĩa, sắt son. Lời lẽ này chẳng khác lời lẽ Thoán Từ bao nhiêu.
4. Hào Lục tứ.
六 四. 無 不 利,撝 謙。
象 曰: 無 不 利,撝 謙 ﹔ 不 違 則 也。
Lục tứ. Vô bất lợi. Vi Khiêm.
Tượng
viết:
Vô bất
lợi vi Khiêm. Bất vi tắc dã.
Dịch.
Lục tứ:
Đức
Khiêm hãy phát huy.
Rồi ra ích lợi chẳng thiếu gì.
Tượng rằng:
Khiêm
tốn cho hay,
Đừng Khiêm thái quá, phải tày phép khuôn.
Hào tứ
dạy rằng: Khi ở vào bậc trọng thần, phải khiêm cung, thành khẩn, nhất
là khi trên mình còn có một vì vua khiêm cung đức độ, dưới mình có một
công thần quán chúng mà không kiêu ngạo, cậy mình. Khiêm cung nhưng
đúng mực, không a dua, nịnh hót.
5. Hào Lục ngũ.
六 五. 不 富 以 其 鄰,利 用 侵 伐,無 不 利。
象 曰: 利 用 侵 伐,征 不
服 也。
Lục ngũ. Bất phú dĩ kỳ lân. Lợi
dụng
xâm phạt. Vô bất lợi.
Tượng
viết:
Lợi
dụng xâm phạt. Chinh bất phục dã.
Dịch.
Chẳng ỷ
giầu sang, được láng giềng,
Có khi chinh phạt, vẫn là nên.
Tượng rằng:
Chinh
phạt cũng nên,
Để ai chưa phục. phục quyền mới hay.
Hào năm
dạy rằng: Khiêm cung không phải là Nhu nhược, như ở ngôi vị quân vương
mà có những dân man, di, Nhung, địch không chịu qui phục mình, thì
cũng nên dùng đến uy vũ mà chinh thảo, như vua Thuấn đánh Miêu, vua
Võ dẹp Hung Nô vậy.
6.
Hào
Thượng Lục.
上 六. 鳴 謙,利 用 行 師,征 邑 國。
象 曰: 鳴 謙,志 未 得 也。 可 用 行 師,征
邑 國 也。
Thượng Lục. Minh Khiêm. Lợi dụng hành sư. Chinh ấp quốc.
Tượng
viết:
Minh
Khiêm. Chí vị đắc dã. Khả dụng hành sư. Chinh ấp quốc dã.
Dịch.
Thượng
Lục: Khiêm cung hiện ra ngoài.
Dẹp loạn khi cần, lợi hẳn thôi.
Tượng rằng: Khiêm hiện ra ngoài,
Ước nguyền chưa được vẹn mười thỏa thuê,
Tảo thanh trong xứ, ngoài quê,
Xuất sư chinh phạt, cũng khi phải dùng.
Hào
Thượng Lục dạy thêm rằng: Khiêm cung nhưng phải khiêm cung cho lý sự,
chứ không phải khiêm cung đến mức độ yếu mềm, hèn hạ. Khiêm cung
nhưng lúc cần ra uy vũ, dẹp loạn, thì vẫn xuống Đông, Đông tĩnh,
lên Đoài, Đoài yên.
ÁP
DỤNG QUẺ KHIÊM VÀO THỜI ĐẠI
Bất cứ ở
vào Thời đại nào, sự Khiêm cung cũng là một đức tính, mà mỗi người
trong chúng ta đều nên có. Khiêm cung là cơ vi của sự tồn vong, suy
thịnh.
Ở đời
có cố gắng mới thành công, có thận trọng mới tránh
được họa, có chịu thu phục lòng người, mới có nhân tài
cộng tác. Cho nên tương lai chỉ để dành cho những người có lý
tưởng để vươn lên, có mục phiêu để đạt tới, tức là cho những người còn
thấy mình khuyết điểm chưa hoàn bị. Còn những người tự hào, tự mãn,
sống kiêu sa, cao ngạo, tự thị, khinh người, thì thế nào cũng đi vào
con đường suy bại.
Các
Thánh Hiền xưa nay, không phân Đạo giáo, đều tôn trọng đức Khiêm cung.
Nếu
chúng ta có đức Khiêm cung:
-Trong
gia đình, thì cha mẹ vui lòng, anh em hòa thuận, vợ chồng
êm ấm.
-Ngoài
xã hội, thì được lòng người, dễ làm ăn hơn.
-Về
phương diện Quốc gia,
nếu người lãnh đạo mà có
đức Khiêm cung, thì dễ thu phục lòng người, và sẽ có nhiều nhân tài
tới cộng tác với mình hơn.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5 6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
|