THƯỢNG KINH
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5
6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
6.
天 水 訟
Thiên ThỦy
TỤng
Tụng Tự Quái |
訟 序 卦 |
Nhu giả ẩm thực chi đạo dã. |
需 者 飲 食 之 道 也。
|
Ẩm thực tất hữu tụng. |
飲 食 必 有 訟, |
Cố
thụ chi dĩ tụng |
故 受 之 以 訟。 |
Tụng Tự Quái
Nhu là ẩm thực ấm no,
Uống ăn tất sẽ đôi co, tụng
đình.
Cho nên quẻ Tụng tiếp sinh. . .
Quẻ Tụng tiếp theo quẻ Mông, và quẻ
Nhu. Ý nói con người vì dốt nát (Mông), thường vì tranh nhau miếng
ăn (Nhu), nên mới sinh kiện tụng. Thánh Nhân xưa nay, cốt dạy người
hòa thuận cùng nhau, nên nói về Tụng, cốt để ngăn ngừa kiện tụng,
nghiên cứu nguyên nhân của kiện tụng chia rẽ, cốt là để mọi người
trừ diệt những nguyên nhân ấy, để vui sống cùng nhau trên cõi trần
hoàn; phân tách tâm lý đủ mọi hạng người muốn kiện thưa rắc rối, để
mọi người thấy rằng dẫu sang, hay hèn, dẫu mạnh, hay yếu, dẫu được,
hay thua; kiện tụng cũng không ích lợi gì.
Chữ Tụng theo tự dạng
gồm 2 chữ: Ngôn = ngôn từ, Công = Công chính. Vậy kiện thưa
cốt là để biện minh cho sự công chính còn đang bị khuất lấp, chứ
không phải để dở dói mưu mô xảo quyệt, thủ đoạn đê hèn, hãm hại, vu
khống. Nói về Tượng quẻ, ta thấy quẻ Tụng, trên thời
có Kiền = Trời, dưới thì có Khảm = Nước. Trời thì
cao, nước thì thấp. Trời như là thanh khí, bay lên chín tầng không;
Nước như là vũ trạch, đổ xuống muôn sông biển. Đó là biểu hiệu sự
gàng quải, chia phôi, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. . . Vì thế
mới tạo nên sự đôi co, kiện tụng.
Xét về Đức quẻ,
thì Kiền biểu dương cho sự cường
dũng, nóng nẩy, táo bạo. Khảm biểu dương cho sự hiểm độc, mưu mô.
I. Thoán.
Thoán Từ.
訟:有 孚,窒。惕 中 吉。終 凶。利 見 大 人,不 利 涉 大 川。
Tụng. Hữu phu trất. Dịch
trung cát. Chung hung. Lợi kiến đại nhân. Bất lợi thiệp đại
xuyên.
Dịch.
Sự thế có khi cũng kiện thưa,
Ngay tình, oan ức, mới âu
lo.
Lo lường, cẩn trọng, rồi ra
tốt,
Theo mãi kiện thưa, sẽ xác
sơ.
Tìm người minh chính, xử
cho.
Minh quan xét xử, cơ hồ mới
hay.
Kiện
mà dai dẳng, dắt dây,
Như qua sông lớn, nào hay
nỗi gì.
Thoán Truyện: Thoán viết:
訟,上 剛 下 險,險 而 健 訟。訟 有 孚 窒,惕 中 吉,剛 來 而 得
中 也。終 凶﹔訟 不 可 成 也。利 見 大 人﹔尚 中 正 也。不 利 涉
大 川﹔入 于 淵 也。
Tụng. Thượng cương hạ hiểm. Hiểm nhi kiện. Tụng. Tụng. Hữu phu trất. Dịch
trung cát. Cương lai nhi đắc trung dã. Chung hung. Tụng bất khả
thành dã. Lợi kiến đại nhân. Thượng trung chính dã. Bất lợi thiệp
đại xuyên. Nhập vu uyên dã.
Dịch.
Tụng trên cứng, dưới thời nham hiểm.
Hiểm lại cương, nên kiện
tụng sinh.
Mình ngay, oan ức sao đành,
Trong lo, vẫn có mối manh
cát tường.
Đắc trung, vả lại Dương
cương,
Đã ngay, lại mạnh, tai
ương, nhẽ nào!
Kiện thưa, đeo đẳng hại
sao.
Kiện thưa, chớ mãi đâm lao
vào tròng.
Gặp người quân tử chí công,
Gặp người công chính, mới
mong được lời.
Kiện liều, kiện lĩnh thời
thôi,
Như giông sóng cả, như vùi
vực sâu.
Kiện tụng là sự vạn bất
đắc dĩ. Cho nên chỉ
kiện khi mình có lý chính, có tình ngay (Hữu phu), mà bị oan
ức, đè nén, khuất lấp (Trất). Đã lâm vào vòng kiện tụng, nên
biết lo, cùng sợ (Dịch). Nếu có thể hoà giải được, thì nên
hoà giải mới hay (Trung cát). Cần phải tìm được minh quan
xét xử (Lợi kiến đại nhân). Nếu mà kiện thưa liều lĩnh, để
cho bọn tham quan, ô lại, thầy cò, thầy kiện có cơ bóc lột, thì thật
là hiểm nguy, có khác nào vượt sông cả sóng, sa xuống vực sâu đâu?
(Bất lợi thiệp đại xuyên).
Không nên theo đuổi kiện tụng
đến kỳ cùng, đến nỗi đôi bên đều thân tàn, ma dại (Chung hung).
Được kiện, mười bốn quan
năm,
Thua kiện, mười lăm quan
chẵn.
Đó là đại ý Thoán Từ, Thoán
Truyện.
II. Đại
Tượng Truyện.
Tượng viết:
天
與 水 違 行,訟﹔君 子 以 作 事 謀 始。
Thiên
dữ thủy vi hành. Tụng. Quân tử dĩ tác sự mưu thủy.
Dịch. Tượng rằng:
Trời với nước, đôi đường,
đôi ngả.
Có quải gàng, nên có kiện
thưa.
Đường đường, quân tử phải
lo,
Việc gì , cũng phải đắn đo
từ đầu.
Tượng Truyện dạy người quân tử
phải tránh những mầm mống chia rẽ, những căn do sinh kiện tụng cho
dân. Muốn tránh kiện tụng, tránh chia rẽ, ta cần phải có độ lượng
bao dung, thông cảm lẫn nhau; ôn hoà trong khi giao tiếp, thận
trọng trong lời ăn tiếng nói, trong khi soạn thảo khế ước, văn tự.
Tống Mẫn Công thời Chiến quốc,
chỉ vì những lời nhạo báng, nói đùa, mà bị Nam Cung Trường Vạn giết.
Sở dĩ có kiện tụng, là vì có
sự tranh chấp, quải gàng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, vì mọi
người không chịu thi hành bổn phận cho đứng đắn, hẳn hoi. Vì vậy,
muốn tránh dân chúng kiện thưa nhau, người quân tử trước hết phải lo
giáo hóa cho dân. Cha từ, con hiếu, em kính, anh nhường, bạn bè tín
nghĩa, trên xử ra trên, dưới xử ra dưới; đôi đàng kính nhượng lẫn
nhau; được như vậy thiên hạ mới mong an bình. Ngoài ra, phải khiến
dân tuân phục mệnh vua, phép nước, và trật tự chung. Khi lập văn
tự, khế ước phải làm sao cho hết sức minh bạch.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng
Truyện
Các Hào lại càng nêu rõ ý
nghĩa không nên thưa kiện.
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 不 永 所 事,小 有 言,終 吉。
象 曰: 不 永 所 事,訟 不 可 長 也。雖 有 小 言,其 辯 明 也。
Sơ Lục. Bất vĩnh sở sự. Tiểu
hữu ngôn. Chung cát.
Tượng viết:
Bất vĩnh sở sự. Tụng bất khả trường dã. Tuy tiểu hữu ngôn.
Kỳ biện minh dã.
Dịch.
Kiện thưa cũng chẳng đến đâu,
Đôi co chút đỉnh, rồi sau
cũng lành.
Tượng rằng:
Kiện thưa cũng chẳng đến đâu,
Sức mình mấy nả, mà cầu
kiện dai?
Chẳng thà cãi vã đôi nhời,
Cốt là minh biện phải, sai
rõ rành.
Hào Sơ Lục, Âm nhu,
tức là những người tài
thô, trí thiển, lại ở địa vị hèn kém, nếu có bị người trên đè nén
(Hào tứ), thì bất quá nên phản đối, nên tranh biện cho vỡ lẽ trái
phải, cho hả lòng, hả dạ, còn hơn là bầy ra kiện tụng lôi thôi.
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 不 克 訟,歸 而 逋,其 邑 人 三 百 戶,無 眚。
象 曰: 不 克 訟,歸 而 逋 也。自 下 訟 上,患 至 掇 也。
Cửu nhị. Bất khắc tụng. Qui nhi
bô. Kỳ ấp nhân tam bách bộ. Vô sảnh.
Tượng viết:
Bất khắc tụng qui bô thoán dã. Tự hạ tụng thượng. Hoạn chí truyết
dã.
Dịch.
Cửu nhị kiện, liệu bề chẳng thắng,
Thời nên về qui ẩn là hơn.
Ấp ba trăm nóc lui chân,
Tránh điều hoạ hại, sớm hôm
an lành.
Tượng rằng:
Kiện không nổi, lui về ẩn
lánh,
Dưới dễ đâu ngang ngạnh với
trên.
Nhỏ mà kiện lớn, thua liền,
Nạn tai rõ thật tự nhiên
chiêu vời.
Hào Cửu nhị,
là người có tài đức, có địa vị,
nhưng lại phải đối đầu với những đối thủ uy tín, quyền thế hơn mình
nhiều. Như vậy chỉ còn có cách tránh xa thù địch của mình.
Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Y thức như Thừa Tướng Thương Dung,
đã qui ẩn để tránh vua Trụ, hoặc Bái Công đã nhẫn nhục, chịu đầy ải
mình vào Hán Trung để tránh hoạ Sở Vương.
3. Hào Lục tam.
六 三. 食 舊 德,貞 厲,終 吉,或 從 王 事,無 成。
象 曰: 食 舊 德,從 上 吉 也。
Lục tam. Thực cựu đức. Trinh. Lệ chung cát.
Hoặc tòng vương sự. Vô thành.
Tượng viết:
Thực cựu đức. Tòng thượng cát dã.
Dịch.
Lục tam: phải sống nhờ phúc ấm,
Phải e dè, cẩn thận, trước
sau.
Thủ thường, mới khỏi cơ
cầu,
Việc vua gánh vác, chớ cầu
công lênh.
Tượng rằng:
Phúc nhà dựa dẫm qua ngày,
Người trên đừng cưỡng, mới
hay, mới toàn.
Hào Lục tam, là những người
kém tài, và địa vị cũng chẳng ra chi, ngó lên, ngó xuống đều chỉ
thấy những người có bản tính như Cửu nhị, Cửu tứ, Thượng Cửu. Như
vậy, tốt hơn hết là phải biết lượng sức mình, lại cũng phải hết sức
gia ý đề phòng, an phận thủ thường, đừng có dở dói chi cho thêm
mệt. Hãy tỏ ra biết phục tòng, biết hòa hoãn với người trên, như
vậy mới hay. Nếu có cùng người thi hành công vụ gì, thì cũng đừng
nên tranh công với người, kẻo mang họa. Đó là đường lối của Bái
Công đã theo để khỏi bị Hạng Vương hãm hại. Tuy Bái Công đã chiếm
được Hàm Dương, đã cầm tù được vua nhà Tần là Tần Tam Thế, Tử Anh,
lại cũng lấy được cả ngọc tỉ. Hơn thế nữa, theo đúng như lời giao
ước lúc xuất quân, thì hễ ai vào đất Quang Trung trước, thì làm
vua; thế mà lúc Hạng Võ kéo đại binh tới, Bái Công tự xét thấy mình
chưa đủ sức cầm cự, nên đã mở cửa dâng thành, nộp Tần Vương, nộp
ngọc tỉ cho Hạng Võ, coi mình như bầy tôi dưới trướng Hạng Võ, rồi
bằng lòng để cho Hạng võ đầy ải vào Hán Trung. Nhìn vào quẻ
Tụng, thì Bái Công chính là Hào Lục tam, mà Hạng Võ
tức là Hào Thượng Cửu. Thế mới hay, khôn cũng chết, dại
cũng chết, mà chỉ có biết là sống. Biết là biết khi đáng
tiến, thời tiến; khi đáng thoái, thời thoái; khi đáng cương, thời
cương; khi đáng nhu, thời nhu, Biết thời Tồn, không biết thời
Vong, là như vậy.
4. Hào Cửu tứ.
九 四. 不 克 訟,復 自 命,渝 安 貞,吉。
象 曰: 復 即 命,渝 安 貞﹔不 失 也。
Cửu tứ. Bất khắc tụng. Phục tức
mệnh. Du an trinh. Cát.
Tượng viết:
Phục tức mệnh. Du an trinh. Bất
thất dã.
Dịch.
Cửu tứ: rồi ra kiện chẳng xong,
Quay về nghĩa lý đổi thay
lòng,
Thay lòng, quyết sống theo
đường chính,
Đường chính giữ bền, có tốt
không?
Tượng rằng:
Đã đổi được lòng theo chính
lý,
Rồi ra nào có mất chi đâu?
Hào Cửu tứ tuy là người cương
táo, giỏi giang, nhưng lại bất trung, bất chính, nên chính là hạng
người ưa sinh sự. Nhưng muốn sinh sự, mà không sinh sự được với
ai. Ngũ ở trên, thời là người quá quyền thế. Lục tam ở cạnh, thì
lại là người khéo cư xử. Sơ Lục ở dưới, ứng với mình, cũng như là
những người bề dưới mình, và cũng không dám tranh tụng với mình. Nếu Tứ mà kiện Sơ, sinh sự với Sơ, thời tức là mạnh hiếp yếu,
người trên cậy quyền hà hiếp kẻ dưới, có gì là hay đâu? Vì vậy Tứ
bỏ ý định kiện tụng, mà vui lòng ăn ở theo đúng nghĩa lý. Như vậy
mới hay.
5.
Hào Cửu
ngũ.
九 五. 訟 元 吉。
象 曰: 訟 元 吉,以 中 正 也。
Cửu ngũ. Tụng nguyên cát.
Tượng viết:
Tụng nguyên cát. Dĩ trung chính dã.
Dịch.
Cửu ngũ: kiện thưa xuôi xắn tốt.
Tượng rằng:
Thưa kiện êm xuôi.
Vì người phân xử là người
chính trung.
Cửu ngũ là chủ Hào,
là vị phán quan công minh, xét xử cho đời, chẳng khác gì như Bao
Công, hay Thi Công thuở trước. Tụng đình thì có muôn ngàn chuyện. Nhưng nguyên tắc chi phối công việc xét xử của một vị minh quan, thì
chỉ nằm vẻn vẹn trong hai chữ Trung, Chính. Trung để không
thiên vị ai. Chính để lấy công lý mà phân xử để mọi người khỏi
oan ức, khỏi bị hà hiếp, bóc lột, vu xử để mọi người khỏi oan ức, khỏi bị
hà hiếp, bóc lột, vu khống. Được như vậy, còn gì là hay hơn.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九. 或 錫 之 鞶 帶,終 朝 三 褫 之。
象曰: 以 訟 受 服,亦 不 足 敬 也。
Thượng Cửu. Hoặc tích chi bàn
đới. Chung triêu tam trị chi.
Tượng viết:
Dĩ tụng thụ phục. Diệc bất túc kính
dã
Dịch.
Thượng Cửu: Dẫu rằng được thưởng
đai,
Thưởng rồi một sáng, lột ba
hồi.
Tượng rằng: Nhờ kiện được
đai,
Thì đâu có đủ cho người
kính tôn.
Thượng Cửu, Dương cương nhưng
lại bất trung, bất chính, tức là một người ngông nghênh, cậy quyền,
cậy thế, thích kiện tụng. Nhưng giả sử họ có được kiện đi chăng
nữa, có được lợi lộc vì những vụ kiện thưa đi chăng nữa, rút cuộc họ
có giữ được cái hư danh, cái hoạnh tài ấy được mãi không? Hay được
hôm nay, thì mất ngày mai. Danh lợi đến như mây, thì lại bay đi như
khói.
Tóm lại, đọc quẻ Tụng, mới
thấy rõ vi ý của cổ nhân là không muốn cho tham quan, ô lại, lợi
dụng, đục khoét dân, là muốn cho mọi người thương yêu nhau,
không đè nén nhau, lập kế hãm hại nhau, rồi đưa nhau đến
cửa quan, để cho tham quan, ô lại lợi dụng, bóc lột..
Người xưa nói:
Tiền vào cửa quan, như than
vào lò.
Hay:
Tới huyện nha, là nhà
anh cháy.
Thật là chí lý vậy.
ÁP
DỤNG QUẺ TỤNG VÀO THỜI ĐẠI
Trong xã hội loài người, phát sinh ra
kiện tụng, là do nhiều nguyên nhân:
1. Người trên nóng nẩy, cậy
quyền, cậy thế, hiếp đáp người dưới. Hoặc người dưới tìm mưu mô quỉ
quyệt, lừa bịp, hãm hại người trên, thì sẽ đem lại bất hòa, và có
ngày sẽ kiện tụng nhau.
2. Hai người ngang nhau,
nhưng một người nóng nẩy, táo tợn; một người hống hách, hiểm độc,
gian ngoan, hay vu khống bừa bãi, gặp nhau, ắt sẽ sinh kiện tụng.
3. Còn ở nơi những người lòng
thì không hiền, tính thời nóng nẩy, táo bạo, thích gây gổ, sinh sự,
sẽ hay đưa đến tụng đình.
4. Kiện tụng nẩy sinh là vì
một trong hai bên tham tâm chiếm đoạt, lừa đảo bên kia, là vì lúc
cộng tác nể nang, tin nhau, không làm khế ước chặt chẽ, minh bạch.
Ở thời đại ngày nay,
hôn nhân không bền vững, vì vợ chồng không còn nhường nhịn, chịu
đựng nhau như ngày xưa, nên họ rất dễ dàng ly dị nhau, và đưa nhau
ra tụng đình về vấn đề chia nhau gia sản. Vì người đàn bà ngày nay,
phần lớn là đi làm, kiếm tiền ngang với chồng, khi ly dị lại lãnh
phần nuôi con, nên họ đòi chia gia sản đồng đều còn đúng, nhưng còn
có những người đàn bà, chỉ sống ỷ lại vào người chồng, không chịu đi
làm, họ lợi dụng được luật pháp bảo vệ, đòi phân chia tài sản đồng
đều, hoặc xin toà bắt người chồng phải nuôi họ suốt đời. Những sự
vô lý đó, người chồng đâu có chịu, do đó vụ kiện cứ kéo dài, và hai
vợ chồng cứ è cổ ra mà trả tiền Luật sư, rốt cuộc cả 2 đều thân tàn,
ma dại. Có nhiều người chồng không chịu nổi sự tham lam của vợ
mình, đã xin thôi sở làm và trốn sang tiểu bang khác, vì không chịu
nổi cảnh đã bị vợ bỏ, mà còn bị vợ và Luật sư bóc lột tận xương
tủy. Nhưng cũng có cặp khôn ngoan hơn, vì được người vợ hiểu biết
hơn, họ điều đình trong sự thuận thảo, do đó mọi sự êm đẹp hơn, khỏi
hao tốn tiền bạc, và cả hai được thoải mái hơn.
Nói cho cùng, thì dẫu có được
kiện. cũng chẳng có ra gì. Được kiện thì mất nhân tâm, mất nhân
nghĩa, chuốc lấy oán thù, tự trói buộc mình vào trăm ngàn dây oan
nghiệt.
Tóm lại, dù ở thời đại nào,
cũng không nên kiện tụng. Muốn được vậy, mọi người phải bao dung,
hòa mục, nhường nhịn nhau, tôn trọng quyền lợi. của nhau, tôn trọng
trật tự chung. Đừng nên khinh xuất khi ăn nói, thận trọng khi thảo
văn từ, để tránh cảnh Bút sa gà chết.
Ca dao, tục ngữ
có những câu khuyên dân không nên
bước vào vòng kiện tụng. Ví dụ:
Được kiện, mười bốn quan
năm,
Thua kiện mười lăm quan chẵn.
hoặc
Nghe lời ông đề, ruộng
bề bề bán hết v v . . .
Cụ Nguyễn Du cũng có câu:
Lạ gì những thói sai nha,
Làm cho khốc hại, chẳng qua
vì tiền.
»
Dịch Kinh Đại Toàn | Lời Nói Đầu |
Dịch Kinh Giản
Lược |
Quẻ 1
2 3
4
5
6
7 8
9 10
11 12
13 14
15
16 17
18
19 20
21 22
23 24
25 26
27 28
29 30
|