»
mục lục
PHẦN II - BÌNH DỊCH
CHƯƠNG 6
THIÊN TRUNG
天 中
A. KINH VĂN
1. Thiên trung chi nhạc,
tinh cẩn tu,
天 中 之 岳 精 謹 修
2. Vân trạch ký thanh, Ngọc
đế du,
雲 宅 既 清 玉 帝 遊
3. Thông lợi đạo lộ vô chung
hưu,
通 利 道 路 無 終 休
4. Mi hiệu Hoa Cái, phúc
minh châu,
眉 號 華 蓋 覆 明 珠
5. Cửu u nhật nguyệt, đỗng
không vô.
九 幽 日 月 洞 空 無
6. Trạch trung hữu Chân,
thường ý đan,
宅 中 有 真 常 衣 丹
7. Thẩm năng kiến chi, vô
tật hoạn,
審 能 見 之 無 疾 患
8. Xích châu, linh quần, hoa
thiến xán.
赤 珠 靈 裙 華 蒨 粲
9. Thiệt hạ Huyền ưng sinh
tử ngạn,
舌 下 玄 膺 生 死 岸
10. Xuất thanh, nhập huyền,
nhị khí hoán,
出 青 入 玄 二 氣 煥
11. Tử nhược ngộ chi thăng
Thiên Hán.
子 若 遇 之 昇 天 漢
B. LƯỢC DỊCH
Núi mọc giữa trời, hãy cố
tu,
Nhà mây quang quẻ, Ngọc
Đế du,
Khai thông đạo lộ, chớ
trù trừ.
Mi là hoa cái, che minh
châu,
Hai vầng nhật nguyệt
chiếu hư vô,
Trong nhà, có Thần, mang
y đơn,
Nếu mà thấy được, không
bệnh hoạn.
Xích châu, linh quần,
trông xán lạn.
Khí quản ấy là sinh tử
ngạn,
Hai khí đục trong thường
giao hoán,
Nếu mà gặp được, thăng
Thiên Hán...
C. CHÚ THÍCH
Câu
1. Thiên trung chi nhạc tinh cẩn tu.
天 中 之 岳 精 謹 修
Thiên trung chi nhạc
天 中
之 岳: Mũi. Mũi còn
được gọi là Thiên đài
天 臺.
Sách Tiêu Ma kinh
消 魔 經
nói rằng: «Mũi thường
nên được ma sát hai bên tả, hữu, để khí được bình. Thế gọi là ‘khái
quán Trung nhạc’ (tưới tắm cho Trung Nhạc). Tên sẽ được ghi vào đế
lục.» 消
魔 經 云:
鼻 欲 數 按 其 左 右,
令 人 氣 平.
所 謂 溉 灌
中 岳,
名 書 帝 錄
(Tiêu Ma kinh vân: Tỵ dục sổ
án kỳ tả hữu, lịnh nhân khí bình. Sở vị khái quán Trung nhạc, danh thư
đế lục.)
Câu
2. Vân trạch ký thanh Ngọc đế du.
雲 宅 既 清 玉 帝 遊
Vân trạch
雲 宅:
Mặt, cũng còn được gọi là Xích trạch
尺 宅.
Mặt là nơi mi, mắt, mũi, mồm cư ngụ, nên gọi là trạch
宅
(nghĩa là nhà). Giữ gìn cho nó được thanh thông, thần tiên sẽ viếng
thăm.
Bản Tử Hà ghi: Linh trạch
ký thanh, Ngọc đế du
靈 宅 既 清 玉 帝 遊.
Câu
3. Thông lợi đạo lộ, vô chung hưu.
通 利 道 路 無 終 休
Bản Tử Hà ghi: Thông lợi
đạo lộ, vô đình hưu
通 利 道 路 無 停 休.
Kinh Thái Tố Đan Cảnh
太 素 丹 景
chép: «Thường nên
dùng hai tay, ma sát mặt, cao thấp tùy hình, đừng ngừng nghỉ, sẽ làm
thông lợi khí mạch của tai, mắt, mũi, mồm.»
太 素 丹 景 經 曰:
一 面 之 上,
常 欲 兩 手
摩 拭 之.
高 下 隨 形 不 休,
息 則 通 利
耳 目 鼻 口 之 氣 脈 (Thái
Tố Đan Cảnh Kinh viết: nhất diện chi thượng, thường dục lưỡng thủ ma
thức chi. Cao hạ tùy hình bất hưu tức, tắc thông lợi nhĩ mục tỵ khẩu chi
khí mạch.)
Câu
4. Mi hiệu hoa cái phúc minh châu.
眉 號 華 蓋 覆 明 珠
Hoa cái
華 蓋:
Lọng che. Minh châu
明 珠:
Hai mắt.
Phúc
覆:
Che đậy; như nói thiên phúc địa tải
天 覆 地 載
trời che, đất chở).
Câu
5. Cửu u nhật nguyệt đỗng không vô.
九 幽 日 月 洞 空 無
Bế mục tồn thần, để thần
quang của đôi mắt soi rõi vào tâm khảm.
Câu
6. Trạch trung hữu Chân thường y đan.
宅 中 有 真 常 衣 丹
Trạch trung
宅 中:
Trong mặt, trong đầu.
Chân
真:
Ở đây là Tâm thần
心 神,
tức Xích Thành đồng tử
赤 城 童 子,
hay Chân nhân
真 人,
hay Xích tử
赤 子.
Như vậy vẫn là một thần Tử
đan 子 丹
mà ta gặp nơi chương
trước; vẫn mặc thứ áo đỏ quen thuộc; cũng còn được gọi là Tâm đan
心 丹.
Câu
7. Thẩm năng kiến chi vô tật hoạn.
審 能 見 之 無 疾 患
Nguyên Dương Tử
元 陽 子
viết: «Thường tồn tâm thần,
tắc vô bệnh dã.»
常 存 心 神 則 無 病 也.
Câu
8. Xích châu, linh quần, hoa thiến xán.
赤 珠 靈 裙 華 蒨 粲
Bản Tử Hà ghi: Xích châu,
linh cứ hoa thiến xán
赤 珠 靈 裾 華 蒨 燦.
Và cho rằng xích châu, linh cứ đều là các loại châu ngọc.
Linh quần
靈 裙:
Vụ Thành Tử lại ghi là Linh quần, như vậy là quần áo.
Thiến xán
蒨 粲:
Rực rỡ, đẹp đẽ.
Câu
9. Thiệt hạ Huyền ưng sinh tử ngạn.
舌 下 玄 膺 生 死 岸
Huyền ưng
玄 膺:
Họng, cuống họng. Chẳng những là đạo lộ thông tân dịch, mà còn là đạo lộ
thông khí hô hấp.
Ngoại Cảnh gọi Huyền ưng là
Khí quản: Huyền ưng khí quản thụ tinh phù.
玄 膺 氣 管 受 精 符
(chương 3). Có bản
lại chép: Huyền ưng khí quản thụ tinh phủ
玄 膺 氣 管 受 精 府.
Vụ Thành Tử chú thích câu này: «Huyền ưng là bến bờ thông tân dịch. Kinh
này nói Huyền ưng là khí quản thông tân phủ.»
玄 膺 者,
通 津 液 之
岸 也.
本 經 云:
玄 膺 氣 管
受 津 府 (Huyền ưng giả,
thông tân dịch chi ngạn dã. Bản kinh vân: Huyền ưng khí quản thụ tân
phủ.)
Câu
10. Xuất thanh, nhập huyền, nhị khí hoán,
出 青 入 玄 二 氣 煥
và
Câu 11. Tử nhược ngộ chi thăng Thiên Hán.
子 若 遇 之 昇 天 漢
Hai câu này đại khái nói
rằng: Nếu biết thổ nạp
吐 納
nhị khí Âm Dương, nếu hiểu
được ý nghĩa thổ nạp, con người sẽ thành tiên.
D. BÌNH GIẢNG
Lời bình giảng của Vụ Thành
Tử về chương này làm nổi bật lên 4 vấn đề:
1. Ma sát mũi, mặt (các câu
1, 2, 3).
2. Hồi quang phản chiếu
回 光 返 照
(các câu 4, 5).
3. Tồn tâm thần
存 心 神
(các câu 6, 7).
4. Nuốt ngọc dịch (yết tân)
咽 津
(các câu 7, 8).
5. Thổ nạp
吐 納,
tức là thở độc khí ra, hít thanh khí vào.
Hồi quang phản chiếu
回 光
返 照 và tồn tâm
thần
存 心 神
rất quan trọng nhưng chúng
ta đã đề cập nhiều. Phép nuốt Ngọc dịch (tức yết tân) đã được giải thích
nơi chương 3.
Nơi chương này ta bàn về hai
vấn đề: (1) Ma sát mặt mũi và (2) Thổ nạp.
1. Ma sát mặt mũi.
Các sách dưỡng sinh thuộc
đạo Lão xưa thường hay bàn về vấn đề này. Trong Thập nhị đoạn động
công thì phép ma sát mặt (mà người xưa gọi là Dục diện
浴 面:
tắm mặt) được xếp hàng thứ ba sau Khấu xỉ
叩 齒
và Yết tân
咽 津.
Tất cả những phương pháp đạo dẫn án ma
導 引 按 摩
của đạo Lão cốt là để khử
bệnh
去 病,
diên niên
延 年
mà thôi.
Dục diện
浴 面
(tắm
mặt, ma sát mặt):
«Lấy hai tay, xoa vào nhau
cho nóng, rồi chà xát lên mặt, như khi rửa mặt. Làm thế, râu tóc sẽ
không bạc, mặt sẽ trẻ mãi.» (Xem Thọ thế thanh biên, tr. 18, và
Thông Thiên bí thư tục tập, Trí phú toàn thư, q. 4, tr. 8b.)
Sách Chân Tây Sơn vệ sinh
ca của Tử Viên tiên sư có bài thơ sau:
Thu đông nhật xuất, thủy
xuyên y,
秋 冬 日 出 始 穿 衣
Xuân hạ kê minh, nghi tảo
khởi.
春 夏 雞 鳴 宜 早 起
Tí hậu, Dần tiền, thụy giác
lai,
子 後 寅 前 睡 覺 來
Minh mục khấu xỉ, nhị thất
hồi,
暝 目 叩 齒 二 七 回
Hấp tân, thổ cố, vô lệnh
ngộ,
吸 新 吐 故 毋 令 誤
Yến thấu ngọc tuyền, hoàn
dưỡng thai.
嚥 漱 玉 泉 還 養 胎
Chỉ ma thủ tâm, úy lưỡng
nhãn,
指 摩 手 心 熨 兩 眼
Nhưng cánh giai ma ngạch dữ
diện.
仍 更 揩 摩 額 與 面
Trung chỉ thời thời sát tị
hành,
中 指 時 時 擦 鼻 莖
Tả hữu nhĩ căn, thuyên sổ
biến,
左 右 耳 根 筌 數 遍
Cánh năng can dục nhất thân
gian ...
更 能 乾 浴 一 身 間
Dịch:
Thu Đông, mặc áo, lúc
Dương lên,
Xuân Hạ, gà gáy, nên dậy
sớm.
Nửa đêm về sáng, nếu tỉnh
dậy,
Nhắm mắt nghiến răng 27
hồi,
Nạp tân, thổ cố, đừng
nhầm nhỡ.
Nước miếng nuốt vào dưỡng
hình hài.
Ngón (tay) chà lòng tay,
vuốt đôi mắt,
Đoạn chà xát thêm trán và
mặt.
Cánh mũi nên dùng ngón
giữa vuốt.
Quanh tai hai phía nên
sát ma,
Rồi đến toàn thân nên ma
sát ...
Sách Thông Thiên Bí Thư
tục tập, tức Trí phú toàn thư của Vương Hiển Đình, nơi quyển
4, tr. 6b, còn ghi chép Án ma diện thượng chư huyệt
按 摩 面 上 諸 穴,
nghĩa là phép xoa bóp các huyệt trên mặt như: Tinh minh, Thái dương, Ngư
vĩ, Thừa tương, Ti Trúc không, Nghinh hương ...
2. Phép thổ nạp
Thổ nạp
吐 納
hay Thổ cố nạp tân
吐 故 納 新
nghĩa là lấy miệng hà hơi cũ ra
dùng mũi hít hơi mới vào. Làm sao cho mũi hít vào nhiều, miệng thở ra ít
làm cho từ từ, để tâm trí vào đó, làm lâu lai sẽ diên niên ... (Đạo học
từ điển, tr. 108).
Hít vào chỉ có một cách gọi
là Hấp
吸.
Còn thở ra có sáu cách, theo âm sáu chữ là Hư
噓,
Ha
呵,
Hô
呼,
Hí
呬,
Xuy
吹,
Y
噫.
Mỗi chữ đó, công hiệu hơn
kém tùy theo mùa, có ảnh hưởng đến một tạng nhất định nào trong ngũ
tạng, và chữa được một loại bệnh nào. Xem đồ bản dưới đây sẽ rõ:
LỤC TỰ
六
字 |
MÙA NÀO
CÔNG HIỆU HƠN |
ỨNG VỚI
BỘ PHẬN |
CHỮA BỆNH |
Hư
噓 |
Xuân |
gan |
bệnh gan |
Ha
呵 |
Hạ |
tim |
bệnh tim |
Hô
呼 |
tứ quý |
tì |
bệnh tì |
Hí
呬 |
18 ngày cuối mỗi mùa |
phế |
bệnh phổi |
Xuy
吹 |
Thu |
thận |
bệnh thận |
Y
噫
(Hi
嘻) |
Đông |
tam tiêu |
nhiệt bệnh |
- Thọ Thế Thanh Biên
nơi các trang 23b, 24a, 24b dạy cách thổ nạp như:
- Ở trong phòng yên tĩnh, ấm
áp.
- Ngồi xếp chân bàn tròn,
ngồi yên.
- Thi hành động công trước
cho khí huyết chuyển vận.
- Bế tỏa ngũ quan, ngậm
miệng, cắn răng, lòng không, tâm tĩnh. Như thế, một lúc lâu, cho khí
huyết trở nên hòa hoãn, hơi thở điều hòa.
- Sau đó, dùng miệng phả độc
khí ra 2, 3 lần.
- Rồi sau đó, mới tùy bệnh,
tùy mùa mà đọc rất nhỏ các chữ Hư
噓,
Ha
呵,
Hô
呼,
Hí
呬,
Xuy
吹,
Y
噫.
Sáu chữ này cốt là để phả
độc khí ra, đoạn mới hít hơi vào. Mỗi thứ làm 24 hoặc 26 lần.
· Sách Trí Phú Toàn Thư
ghi rõ hơn như sau:
- Từ giờ Tí (nửa đêm) đến
giờ Tị (9 - 11 giờ) thuộc Dương, quay về hướng đông, ngồi ngay ngắn.
- Khấu xỉ
叩 齒
(đập răng) để tập thần, tụ thần.
- Yết tân
咽 津
(nuốt nước bọt).
Xong rồi:
(1) Khẽ đọc chữ Ha
呵
(đọc rất khẽ, không cho tai mình nghe tiếng) để phả độc khí nơi tâm
xoang. Rồi ngửa mặt lên trời, hít thanh khí, để bổ tim. Như vậy 6 lần.
(2) Rồi đọc chữ Hô
呼
để phả độc nơi Tì. Rồi hít
thanh khí vào để bổ Tì. Làm 6 lần.
(3) Rồi đọc chữ Hí
呬
để phả khí độc nơi Phổi, hít
thanh khí vào để bổ phế, 6 lần.
(4) Đọc chữ Hư
噓
để phả độc khí nơi gan, Hít
thành khí vào để bổ Gan, 6 lần.
(5) Đọc Hi
嘻
để thả độc khí trong mật,
hít thanh khí vào để bổ mật, 6 lần.
(6) Đọc Xuy
吹
để tả độc khí nơi thận, hít
thanh khí vào để bổ Thận, 6 lần.
6 x 6 = 36 lần, tức là 1
vòng Đại Chu Thiên
大 周 天.
Từ giờ Ngọ
午
đến giờ Hợi
亥,
quay mặt về phía Nam, vì Nam phương là Hỏa, có thể trừ Âm độc
陰 毒.
(Xem sách đã dẫn nơi tr. 7b, q. 4).
- Sách Trí phú Toàn Thư,
nơi tr. 8a, quyển 4, còn cho một bài Diên niên lục tự quyết
延 年 六 字
訣 như sau:
(1) Đọc Hư
噓
chữa bệnh gan, gan nhiệt,
mắt đỏ, mắt mờ, chảy nước mắt.
(2) Đọc Ha
呵
chữa bệnh tim và bệnh ở
Thượng Tiêu.
(3) Đọc Hí
呬
chữa bệnh phổi, cảm hàn, cảm
nhiệt, lao muộn, hoặc độc sang.
(4) Đọc Xuy
吹
trị bệnh Thận, bệnh tai hoặc
lưng, gối lạnh, dương đạo yếu.
(5) Đọc Hi
嘻
trị bệnh Tam tiêu.
(6) Đọc Hô
呼
trị Tì, bụng chướng, bụng
đầy, tứ chi phiền muộn, khí trệ không thông.
Sách Thọ Thế Thanh Biên
nơi tr. 24b có bài thơ:
Xuân Hư minh mục, mộc
phù can,
Hạ chí Ha tâm hỏa tự
nhàn.
春 噓 明 目 木 扶 肝
Thu Hí định tri kim
phế nhuận,
夏 至 呵 心 火 自 閑
Đông Xuy duy lệnh
Thận trung an.
秋 呬 定 知 金 肺 潤
Tam Tiêu Hi khước trừ
phiền não,
冬 吹 惟 令 腎 中 安
Tứ quí thường Hô, Tì
hóa xan.
三 焦 嘻 卻 除 煩 惱
Thiết kỵ xuất thanh văn khẩu
nhĩ,
四 季 常 呼 脾 化 餐
Kỳ công vưu thắng bảo Thần đan ...
其 功 尤 勝 保 神 丹
Về phương pháp Án ma, xin
đọc thêm quyển Cổ Tiên Đạo Dẫn Án Ma Pháp
古 仙 導 引 按 摩 法.
Về phép thổ nạp, xin đọc thêm quyển Tu Linh Yếu Chỉ
修 齡 要 指,
chương Diên niên lục tự quyết
延 年 六 字 訣,
và Tứ quý khước bệnh ca四
季 卻 病 歌, nơi các
trang 2h, 3a, v.v.
Chúng ta cũng nên ghi nhận
rằng Huỳnh Đình Ngoại Cảnh nhấn mạnh đến các phép:
(1) Quán tưởng Thần Huỳnh Đình
Trạch trung hữu sĩ thường y
giáng,
宅 中 有 士 常 衣 降
Tử năng kiến chi, khả bất
bệnh.
子 能 見 之 可 不 病
Hoành kính trường xích ước
kỳ thượng,
橫 徑 長 尺 約 其 上
Tử năng thủ chi khả vô dạng.
子 能 守 之 可 無 恙
(2) Thổ
nạp (ngưng thần tụ khí về Thượng đan điền)
Huỳnh Đình Ngoại Cảnh,
chương 4, viết:
Hô hấp lư gian dĩ tự thưởng,
呼 吸 廬 間 以 自 償
Bảo thủ hoàn kiên, thân thụ
khánh.
保 守 完 堅 身 受 慶
Nơi chương 3, khi nói về
phương pháp Yết tân, tôi có ghi lời của Tử Hà cho rằng đó không
phải là đại đạo.
Nơi đây khi bàn về phương
pháp thổ nạp của đạo Lão, về chiều hướng giải thích chương này, nghiêng
về các phương pháp ma sát, thổ nạp của Vụ Thành Tử, tôi cũng ghi lại
quan điểm của Sung Ẩn Tử Thạch Hòa Dương, một trong những nhà bình giải
Huỳnh Đình Ngoại Cảnh.
Khi bình câu «Hô hấp lư
gian dĩ tự thưởng» nơi chương 4 Huỳnh Đình Ngoại Cảnh ông viết:
«Thế tức là đi đứng nằm
ngồi, không lìa Cái Đó [Nê Hoàn Cung, Tổ Khiếu, Phương Thốn,
Huỳnh Đình]. Ngưng thần, tụ khí về nơi đó, lâu lai, sẽ thành thai tiên
[...] Khí đó không phải là Khí hô hấp. Cho nên bàng môn bày ra thuyết
vận khí, đánh lừa người không ít.»
所 謂 行 住 坐 臥,
不 離 這 個.
凝 神 聚 氣
於 這 個 之 中,
久 則 成 胎 仙 矣.
[...] 此
氣 非 呼 吸 之 氣.
是 以 傍 門 有 運 氣 之
說,
誤 人 不 少
(Sở vị hành trú tọa ngọa,
bất ly Giá Cá. Ngưng thần tụ khí ư Giá Cá chi trung, cửu tắc thành thai
tiên hĩ. [...] Thử khí phi hô hấp chi khí. Thị dĩ bàng môn hữu vận khí
chi thuyết, ngộ nhân bất thiểu.)
Tiên Học Từ Điển (tr.
70) cũng xếp bốn môn Động, Tĩnh, Thuật, Lưu sau đây là ngoại
đạo, tức là những phương thuật, công phu không giúp con người đắc
đạo được:
1- Động
動:
Thể thao
體 操,
vận động
運 動,
ma sát 摩
擦, đạo dẫn
導 引.
2- Tĩnh
靜:
Tham thiền
參 禪,
đả tọa 打
坐, giới ngữ
戒 語,
trì trai
持 齋,
hưu lương
休 糧
(nhịn ăn), tị cốc
避 谷
(vào hang ở ẩn), thụy công
睡 功
(phép nằm ngủ), lập công
立 功
(phép đứng), v.v.
3- Thuật
術:
Phù chú
符 咒, hô phong
呼 風,
hoán vũ
喚 雨, v.v.
4- Lưu
流:
Y 醫,
bốc卜,
tinh 星,
tướng 相,
v.v.
Trang Tử nơi chương Khắc Ý của Nam Hoa
Kinh cho rằng: «Xuy, hu, thổ nạp, vận động như gấu leo, chim lượn, là
cốt tăng thọ. Đó là sở thích của các người thích môn đạo dẫn, thích
dưỡng hình, thích thọ như Bành Tổ.»
Trong khi bàn về phương pháp
yết tân, thổ nạp, đạo dẫn, ma sát, vận khí, điều tức, v.v... tôi cũng
vẫn nhận định rằng chúng chỉ có công hiệu đối với cơ thể chúng ta, làm
cho khí huyết thông sướng, con người mạnh khỏe ít bệnh, có vậy thôi.
Còn tập trung Thần khí, phát
huệ, sống phối kết với Trời, với Đạo nơi tâm khảm mình, mới chính là Đại
Đạo. Nhắc lại để người hành đạo tu trì, phân biệt được thấp cao, và đừng
lặn ngụp, lạc lõng trong cái thấp, vì những kết quả sinh lý nhãn tiền
mình có thể thâu lượm được ...
Tử khí đông lai 紫 氣 東 來
|